Sunday, February 12, 2012

VÀI SỰ TRÙNG HỢP ĐÁNG NHỚ .

I/  VỤ TIÊN LẢNG XẢY RA NGÀY 5-1-2012 , CÁCH NGÀY HỌP ĐỂ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 6-1-1930 ĐÚNG 82  NĂM (CHỈ LỆCH MỘT NGÀY) .

THEO WIKIPEDIA THÌ : Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 [4] đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản ĐảngAn Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình CửuNguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn ThiệuChâu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng,

II/ ĐẢNG CS LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU ĐỀU BẮT ĐẦU RÚNG ĐỘNG  VÀO NĂM 1989 , SAU CÁCH MẠNG THANG 10 Ở NGA 72 NĂM .
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI TÙ TẠI HÀ LAN .
Thưa các bạn ,
Bài viết sau đây kèm theo hình nói về nhà tù ở Hòa-lan và Bĩ , lấy từ một blog khác  ; rất tiếc là tôi đã không ghi nguồn , chỉ biết đăng vào ngày January 19, 2012 at 7:40 pm bởi Chan .
Xin cám ơn bạn Chan về bài viết này .
http://www.google.nl/search?q=hoe+ziet+een+gevangenis+eruit&start=10&hl=nl&sa=N&rlz=1T4ADBS_nlNL328NL329&prmd=imvns&tbm=isch&tbo=u&source=univ&ei=kG_LTobLLont-gbhgqi3Dg&ved=0CCYQsAQ4Cg&biw=686&bih=514#q=hoe+ziet+een+gevangenis+eruit&start=10&hl=nl&sa=N&rlz=1T4ADBS_nlNL328NL329
Nhà tù phương Tây gần giống nhau .Riêng nhà tù Na UY có chế độ cao nhất .Tù nhân có thể có buổi đi ra ngoài chơi ,đi câu cá v.v... .Tù Hà Lan được nghỉ phép cuối tuần 60 tiếng/một tháng ,sẽ giảm xuống còn 24 tiếng/một tháng vào năm 2013 .Nghĩa là mỗi tháng được phép về nhà 60 tiếng rồi quay lại trại giam .Nếu gia đình cha mẹ,anh em ruột chẳng may bị chết thì được nghỉ về tang lễ 48 tiếng .Mỗi năm có 10 ngày phép tức 2 tuần chỉ tính theo ngày làm việc ,như vậy nghỉ trọn 14 ngày(cả thứ 7 chủ nhật) .
Chế độ trong tù như sau :7giờ sáng được ra khỏi phòng đế chơi thể thao,nấu ăn , đến 12giờ lại bị cho vào phòng đến 13giờ lại được thả ra nấu ăn chơi thể thao,đi dạo trong trại .Đến 17h30phút lại bị nhốt trong phòng cho đến 7 giờ sáng hôm sau . 2 người tù chung một phòng có WC ,có tủ lạnh để chứa đồ ăn,có tivi để xem ,  cuối tuần cho xem phim sex .
Chế độ ăn uống như sau : Mỗi ngày được phát một hộp cơm,hay hộp khoai tây,hay hộp mì (tuỳ chọn) . Mỗi hộp đồ ăn có miếng thịt khoảng lạng rưỡi,hay một cái đùi gà,hoặc một đoạn xúc xích tất cả chỉ 150gram theo qui định .Trái cây : một quả táo/cam/chuối tuỳ chọn(chỉ một quả thôi).Cứ hai ngày được phát 1 cây bánh mì để ăn sáng và ăn tối kèm theo một hộp bơ 150gr ,một lọ 100gr mứt râu đất ,vài hộp nhỏ tương lạc , 1/2lit sữa/ngày,một hộp sũa chua 250ml/ngày .Mỗi tuần được phát 10 euro để hút thuốc ,hoặc gọi điện về nhà,hoặc mua đồ ăn thêm(tuỳ người tù).
Trên đây là cuộc sống của người tù Hòa lan .Các bác thấy bọn tư bản thối nát nó bóc lột tù nhân có tệ ko? Theo như người tù nói đồ ăn ko hết .Đấy là tù tư bản giẫy chết .Còn tù nơi giãy sống ở thiên đường thì sao?bác nào biết bổ sung.Xin cảm ơn.
Quan niệm của người Phương tây : chuyện yêu là vô cùng quan trọng .Nên dù có bị đi tù , chế độ vẫn để họ có 60 tiếng một tháng về nhà với vợ ,người tình ,hoặc đi khu phố dành cho độc thân ,một năm được nghỉ 2 tuần phép là đây .Tòa mà tuyên án :20 năm ko đàn bà ,ko bia ,rượu kể như cuộc đời người ấy chấm hết.
NHẬN XÉT : theo lời văn cũa còm sĩ này thì tôi biết là người gốc miền Bắc như dùng chữ 'lạng' đễ chỉ 100 gram , v.v...




BIỆT ĐỘI THIÊN NGA ,

Nguyễn Thanh Thủy


Biệt Đội Thiên Nga ra đời trong những năm cao điểm của cuộc chiến tranh bảo quốc của quân dân miền Nam đối với bọn xâm lược Cộng Sản phương Bắc. Sau năm 1954, nền đệ nhất Cộng Hòa đã được hình thành ở miền Nam Việt Nam, do đó, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia cũng được củng cố lại để lo an ninh quốc gia và bảo vệ mọi tầng lớp dân chúng. Thành phần nữ nhân viên trong lực lượng Cảnh Sát vẫn còn được xử dụng hạn chế trong các phần vụ như: văn phòng hành chánh, kiểm soát tài nguyên, cảnh sát an ninh phi cảng, hải cảng, cảnh sát ngoại kiều, tiếp tân, trại giam, giáo dục v.v…Những nữ nhân viên này được tuyển dụng tuỳ theo nhu cầu công tác, theo từng giai đoạn, chứ chưa có một trường lớp chính quy nào, v.v…

Mãi cho đến cuối năm 1965, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà mới mở một Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, nhận thi tuyển cả nam và nữ sinh viên Sĩ Quan Cảnh Sát. Điều kiện tối thiểu về trình độ học vấn là có bằng cấp Tú Tài I trở lên. Sau khi tốt nghiệp, các nữ Sĩ Quan Cảnh Sát được phân phối về Tổng Nha Cảnh Sát, Khối Đặc Biệt và một số ít được phân phối về các Nha, Tỉnh thuộc bốn vùng chiến thuật của miền Nam Việt Nam .

Sau hai lần đẩy lui các cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào miền Nam Việt Nam trong Tết Mậu Thân và tháng 5-1968, Chính Phủ

Việt Nam Cộng Hòa cần tăng cường lực lượng cảnh sát trong việc bảo vệ an ninh đất nước, ngăn chận Việt Cộng xâm nhập miền Nam Việt Nam bằng đường bộ cũng như đường thủy. Vai trò cảnh sát được đặt nặng và quan trọng hơn, đặc biệt là sự cần thiết để có một tổ chức toàn những nữ cảnh sát để hoạt động trong công tác tình báo, hoạt động riêng rẽ hay phối hợp với các công tác của nam cảnh sát đang hoạt động.

Tháng 8-1968, do một sự vụ văn thư của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, quyết định thành lập một tổ chức toàn là nữ nhân viên, có tên gọi là: “Biệt Đội Thiên Nga”, trực thuộc Khối Đặc Biệt thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, hoạt động độc lập, song song với các tổ chức đã được thành lập trước đó. Nhiệm vụ của Biệt Đội Thiên Nga là sưu tầm, phân tích tin tức, tổ chức xâm nhập và phá vỡ các tổ chức, các hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại thủ đô Sài Gòn cũng như tại các tỉnh địa phương trên toàn miền Nam Việt Nam.

Công việc khởi đầu gặp rất nhiều khó khăn, từ vấn đề tuyển mộ, đào tạo nhân viên…cho đến công tác tìm đầu mối, xây dựng cơ sở, giám thị, v.v…

-Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương có văn phòng tại Khối Đặc Biệt

-Biệt Đội Thiên Nga Thủ Đô và 11 quận có văn phòng tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quận Đô Thành

-Biệt Đội Thiên Nga Vùng I, II, III, IV và tại các tỉnh trên toàn quốc từ Quảng Trị đến Cà Mau

Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương có 4 ban: Ban Hành Chánh, Ban Tổ Chức Phát Triển, Ban Huấn Luyện và Ban Hoạt Vụ. Nhiệm vụ của Thiên Nga Trung Ương là thành lập cơ sở văn phòng, tuyển mộ nhân viên, tổ chức huấn luyện, tìm đầu mối, phát triển công tác. Đồng thời, Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương đôn đốc và hướng dẫn các Bộ Chỉ Huy Cảnh Sái Quốc Gia, thành lập Biệt Đội Thiên Nga địa phương ở 11 quận Đô Thành và tại các tỉnh. Biệt Đội Thiên Nga địa phương tuyển mộ nữ nhân viên gửi về Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương ở Sài gòn để đưa đi thụ huấn các khoá học tình báo tại trường Tình Báo Trung Ương. Các phụ nữ được tuyển mộ phải có ít nhất là văn bằng Trung học Đệ nhất cấp hoặc cao hơn, ngoại trừ các quả phụ của Cảnh Sát không đòi hỏi điều kiện văn bằng như trên, nhưng ít nhất phải có bằng Tiểu học.

Các nữ nhân viên được tuyển lựa này gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần khác nhau trong xã hội: có thể là người bán rau cải ở chợ, bán hàng rong, bán vé xe bus, nhân viên bưu điện, điện lực, thư ký văn phòng, học sinh, sinh viên, cô giáo và vũ nữ, v.v…Các nữ nhân viên lần lược được học qua các lớp Tình báo căn bản (4 tuần), Theo dõi (6 tuần), Cán bộ điều khiển (8 tuần),…và đặc biệt là khoá tác xạ tại trường Tình Báo Trung Ương. Khóa sinh phải đủ điểm cho lớp trước mới có thể lên lớp kế tiếp. Trong thời gian thụ huấn, các khóa sinh phải ở nội trú và mang bí số.

Việc giảng dạy do các Giảng viên Tình báo phụ trách, còn giám thị do các nhân viên Thiên Nga Trung Ương đảm nhận. Các khóa sinh sau khi thụ huấn chuyên môn trở về đơn vị tại các địa phương, nơi đã gởi đi học, và bắt đầu nhận công tác do các ngành Đặc Biệt phân nhiệm. Công tác trực thuộc sự hướng dẫn của phụ tá Đặc Biệt địa phương và báo cáo thành quả công tác về Thiên Nga Trung Ương.

Tại Trung Ương, ngoài các lớp kể trên, các nữ nhân viên Thiên Nga còn theo học các lớp kỹ thuật như: nhiếp ảnh (chụp hình bí mật), học lái xe gắn máy và xe hơi, một số được học thêm các lớp thẩm vấn. Biệt Đội Trưởng, phụ tá Biệt Đội Trưởng Thiên Nga Trung Ương và các Cán Bộ Điều Khiển đều là nữ Sĩ Quan Cảnh Sát tốt nghiệp khoá I Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia. Riêng Biệt Đội Trưởng và Phụ Tá đã tốt nghiệp thêm khóa Trưởng Phòng Đặc Biệt tại trường Tình Báo Trung Ương vào năm 1967

Ngoài các nữ Sĩ quan và nhân viên Cảnh Sát chính thức, Biệt Đội Thiên Nga còn sử dụng một số rất đông nữ hồi chánh viên, nữ can phạm chính trị, các công nhân hãng, xưởng, nhân viên các cơ quan chính phủ (ngoài cơ quan cảnh sát), các bạn hàng chợ, các học sinh sinh viên trường trung học và đại học…để làm mật báo viên cho Biệt đội. Số cộng tác viên gấp nhiều lần số nhân viên chính thức.

Các nhân viên Trung Ương đi công tác hoạt vụ đều có học khóa chuyên môn tình báo để được hướng dẫn rõ ràng chi tiết công tác họ phải đảm nhận cũng như cách thức bảo vệ an ninh tối đa cho họ. Các nữ nhân viên hoạt vụ đều có bí số và bí danh. Tùy vào công tác, họ được tạo cho một nguỵ tích với tất cả giấy tờ tùy thân và lý lịch mới.

Nhằm mục đích nhu cầu bảo mật công tác, Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương có những kiosque buôn bán lẻ, có điện thoại công cộng để làm nơi liên lạc (hộp thư sống và chết), v.v…và một nhà an toàn làm nơi tiếp xúc với tình báo viên, mật báo viên, nhất là tình báo viên từ mật khu về. Vì là Biệt Đội tình báo nữ mang tên loài chim Thiên Nga, nên mỗi kế hoạch công tác đều có ám danh của một loài chim khác như Sơn Ca, Hoạ Mi, Hải Âu, Hoàng Oanh, Hoàng Yến, v.v…Còn các công tác phối hợp với các cơ quan bạn thì dùng ám danh của sông núi như Trùng Dương, Trường Sơn, v.v…Do sự thay đổi cơ cấu của Khối Đặc Biệt và để thích ứng với tình hình chính trị phức tạp nên cuối năm 1972, Biệt Đội Thiên Nga mang ám danh mới: Đoàn Đặc Nhiệm G423g để bảo mật hoạt động.

Song song với việc xây dựng tổ chức, đào tạo nhân viên, Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương luôn nổ lực tìm đầu mối, lập kế hoạch công tác, tìm cách xâm nhập, len lỏi vào các hội đoàn Phụ Nữ Việt Nam, hội đoàn bạn hàng các chợ, hội Phụ nữ đòi quyền sống, các lực lượng đấu tranh thuộc thành phần thứ ba, các thành phần tôn giáo khuynh tả có Việt Cộng xách động, các tổ chức sinh viên học sinh đấu tranh thân Cộng Sản để kịp thời ngăn chặn những tên Việt Cộng nằm vùng, triệt phá những âm mưu có nguy hại cho an ninh quốc gia. Không những thế, Biệt Đội Thiên Nga còn xâm nhập vào tận mật khu của Việt Cộng để thu thập tin tức tình báo góp phần tiêu diệt các cơ sở đầu não của Cộng Sản.

Nhìn lại quá trình công tác của các nữ nhân viên Thiên Nga, phải thừa nhận rằng công việc của họ rất nguy hiểm, tính mạng lúc nào cũng bị đe dọa. Qua các tài liệu tịch thu được của Việt Cộng, sau những thất bại nặng nề, chúng rất đề cao cảnh giác “nữ Thiên Nga”. Việt Cộng luôn tìm cách ám sát những ai chúng nghi ngờ là nhân viên Thiên Nga. Còn các nhân viên Thiên Nga len lỏi vào các hội đoàn tham dự các cuộc biểu tình, tuyệt thực, chống đối nên cũng phải chịu “hưởng” hơi, cay, dùi cui của Cảnh Sát. Các chị em Thiên Nga còn phải hy sinh những tình cảm riêng tư, thời gian dành cho gia đình, vượt qua nhiều khó khăn trở ngại để làm tròn bổn phận công dân yêu nước đấu tranh cho lý tưởng tự do.

Thật khó có thể ghi lại hết những chiến công thầm lặng của các nữ chiến sĩ tình báo Thiên Nga, tuy vậy những công tác sau đây là ví dụ điển hình về các hoạt động của Biệt Đội Thiên Nga.

Một trong các công tác mà Việt Cộng vẫn còn tức tối là việc cung cấp lương thực thực phẩm cho phái đoàn Quân Sự Bốn Bên vào họp tại trại David, Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Mặc dù chúng nghi ngờ nên chúng đề nghị chọn nhà thầu cung cấp thực phẩm cho hai phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức CS Bắc Việt) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng cuối cùng nhà thầu chúng chọn lại là của Biệt Đội Thiên Nga. Công tác này mang ám danh là Trùng Dương, hoạt động cho đến ngày cuối cùng 28-04-1975.

Công tác mang ám danh là Hải Âu đã cài được một nhân viên Thiên Nga vào Hội đoàn phụ nữ đối lập và tạo được niềm tin nên được Việt Cộng chọn đi học lớp tình báo chung với chúng.

Công tác len lỏi vào Hội phụ nữ đòi quyền sống, hoạt động chung với một cán bộ nằm vùng. Mãi đến sau 1975, tên nữ cán bộ mới biết đến người thư ký của Ban Xã Hội là nhân viên Thiên Nga. Lúc ấy tên nữ cán bộ là Đại úy Công an tức tối đề nghị gia tăng 6 tháng tù trong khi chị nhân viên Thiên Nga đã có giấy ra trại. Công tác này mang ám danh Hoạ Mi.

Trong 5 năm liền, một nữ Huyện uỷ viên của Việt Cộng đã hợp tác với Biệt Đội Thiên Nga. Sau 30-04-1975, chị vẫn giữ chức Huyện uỷ của một Huyện gần Saigon. Cho đến sáu tháng sau đó, Việt Cộng mới truy ra được từ hồ sơ còn sót lại ở địa phương, nên đã khai trừ chị khỏi Đảng Cộng Sản và giam chị ở Chí Hoà. Chị đã may mắn không bị chúng xử tử hình. Sau tôi gặp lại chị ở trại Hàm Tân, chị mới vỡ lẽ tôi-người tên Năm tiếp xúc với chị năm xưa-là Thiếu Tá Biệt Đội Trưởng Thiên Nga. Công tác này được mang tên Hoàng Oanh.

Các công tác, hoạt động của Thiên Nga càng thành công tốt đẹp bao nhiêu thì Việt Cộng càng tức tối lên án, càng đề cao cảnh giác với nhân viên Thiên Nga. Do đó những bản án không xét xử trả thù hèn hạ dành cho các nữ nhân viên Thiên Nga của Cộng Sản là từ 3 năm đến 13 năm trong các trại tù “cải tạo”. Tuy vậy các chị em nhân viên của Thiên Nga vẫn hãnh diện, giữ vững nhân cách, lập trường, vượt qua những giao lao của năm tháng tù đày.

Tôi rất xúc động khi phải nhắc lại quá khứ của Biệt Đội Thiên Nga, với những anh thư đã đem hết những hăng say, nhiệt tình, tinh thần chống Cộng mãnh liệt của tuổi trẻ, hiến dâng để bảo vệ đất nước miền Nam Việt Nam . Tôi rất hãnh diện về Biệt Đội Thiên Nga, các nữ nhân viên từ Hạ sĩ quan đến Sĩ quan, cùng các cộng tác viên đã giữ trọn khí tiết trong lúc sống khổ sở trong lao tù hay trong sự kềm kẹp của chế độ Cộng Sản ngoài xã hội, sau khi được thả về. Tôi mong ước một ngày gần đây những nữ Thiên Nga hải ngoại sẽ gặp lại các bạn Thiên Nga còn ở lại Việt Nam , tay bắt mặt mừng trong niềm vui thấy đất nước thật sự có tự do dân chủ.

Tôi viết bài này, cũng mong quý bạn có cái nhìn rõ hơn về người Cảnh Sát Quốc Gia, trong đó có những nữ Cảnh Sát, những chị bán hàng, những anh chị em sinh viên…đã có một thời hiến dâng máu xương cho đất nước. 

Nguyễn Thanh Thủy
Cựu Biệt Ðội Trưởng Thiên Nga
(Khối Ðặc Biệt - Bộ Tư Lệnh CSQG)


lý do ko thể khép anh vươn tội giết người ;

nguồn : http://quechoa.info/2012/02/12/khong-ch%E1%BB%91ng-tr%E1%BA%A3-khong-ph%E1%BA%A3i-la-ng%C6%B0%E1%BB%9Di/#comments


Bọ Lập thân yêu! Tôi vừa xem bài báo có nh luật sư nào đó nói phải khởi tố Anh Hùng Đoàn Văn Vươn tôi giết người.
Tôi không biết thân nhân anh này ra sao, tôi có nói với xếp tôi thì xếp tôi nói không thể có căn cứ khởi tố anh Vươn tội giết người được vì:
1. Không có ai bị giết trong vụ án này.
2. Chưa có bằng chứng nào nói rằng anh vươn có ý định giết người.
3. Chưa có bằng chứng nào chứng minh anh vươn trực tiếp cầm vũ khí giết người.
3. Trên truyền hình đã chiếu những tang vật thu được trong vụ án là ống nhòm, mấy con giao , bình ga, đó là những vật dụng cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày, thường trong nhà của người dân nào cũng có.
4. Mìn là gì ? trên hiện trường có tìm thấy vỏ mìn hay không ? biên bản khám nghiệm hiện trường có tìm thấy vỏ mìn không, có tìm thấy súng hoa cải không ? súng hoa cải có là vũ khí giết người không ? Chính anh ca giám đốc công an đã nói bộ công an không chấp nhận coi súng hoa cải là vũ khí vì nó không nguy hiểm nên không xếp súng hoa cải vào loại vũ khí phải quản lý.
5. Khi có tiếng súng hoa cải nổ tại hiện trường thì Anh Vươn có ở trong căn nhà đó không ? có trực tiếp dùng vũ khí chống cự không ?
6. căn nhà anh qúy là nhà hợp pháp, ai muốn đến đó khám xét phải có lệnh khám nhà được viện kiểm sát phê chuẩn, nếu không có lệnh tức là cố tình vi phạm pháp luật, mọi người trong nhà đều có quyền chống lại những kẻ phá nhà bất hợp pháp bất kỳ nó là ai, nếu những kẻ đó có vũ khí và đông hơn thì có quyền chống trả quyết liệt bằng cách dùng vũ khí bắn bị thương.
Anh luật sư nào đó nói rằng khởi tố anh vươn tội giết người là họ chưa hiểu kỹ luật hình sự, chưa nắm được các tình tiết của vụ án. Chưa nắm được mà nói lung tung là không nên.
Đó là ý kiến giải thích của xếp em, người đã tốt nghiệp khóa 1 đại học công an, chắc là ổng nói đúng, đề nghị Bọ đăng ý kiến này để các comen thảo luận nhé.
http://www.phuongthaotd.com

Tản mạn về đ/c Bùi Tín

Đăng ngày: 18:53 02-02-2012
Thư mục: Tổng hợp

Bùi Tín thuộc thế hệ cha tôi. Khi tôi lớn lên đã nghe danh ông rồi. Một số bài chính luận ông viết trên báo Nhân dân vẫn thường được Đài tiếng nói VN phát lại với giọng văn nghị luận sắc sảo, hào hùng. Rồi một ngày trong năm cuối của thập niên 80, tình cờ bật TV lên, thấy trên VTV  người ta kết tội ông phản bội tổ quốc vì đã tỵ nạn chính trị ở nước ngoài.... Tôi nghe mà biết vậy, vì lúc đó tôi không mấy quan tâm.

Cách đây sáu năm, khi đó tôi đang là phóng viên của VietNamNet, khi bản kiến nghị 5 điểm của tôi được báo chí trong và ngoài nước đưa tin, tôi nhận được E mail của Bùi Tín. Ông nói đại ý : ông đã đọc kỹ bản kiến nghị của tôi và đánh giá rất cao những ý kiến đó, ông cũng đề nghị liên lạc với tôi theo địa chỉ : Lienbat@.... Tôi biết vậy mà không có phản hồi gì, bởi, đang là nhà báo quốc doanh lại liên lạc với một người Việt hải ngoại, từng bị quy kết là thế này thế nọ thì thật không tiện. Không phải vì tôi sợ, nhưng thú thực, tôi không muốn mất thời gian đón tiếp những cuộc thăm viếng không mời từ các cơ quan CA.
Hôm nay nhận được thư của TS Nguyễn Thanh Giang, ông gửi cho tôi bài viết này. Đọc qua thấy nhiều thông tin phong phú về Bùi Tín. Về mặt nghề nghiệp, tôi bày tỏ lòng kính trọng với ông bởi ông là nhà báo giỏi với những bài viết sắc sảo. Về mặt con người tôi chia sẻ với ông, bởi khi tuổi tác đã cao, lại phải sống xa quê hương với bao định kiến. Xin được giới thiệu với bạn đọc bài viết về Bùi Tín.
P.T.H.

- 1 -
 Dường như lời cảnh báo xót xa của cựu ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHXHCNVN Nguyễn Cơ Thạch: ‘‘Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!’’ cứ còn hắt mãi lên tiếng thở dài ẩn ức trong lòng nhà báo Bùi Tín. Nhiều năm trước, đã hơn một lần tôi được đọc những dòng viết của Bùi Tín về sự kiện này. Gần đây thấy lại càng như gióng lên liên hồi cái điệp khúc trăn trở, hãi hùng đó:
 - Trong bài “Thời kỳ Bắc thuộc mới”: “Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung - Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu Bình. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng, còn phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
 Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: ‘‘Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!”. 
- Trong bài “Bản chất chính quyền Đại Hán: “Tình trạng bi đát này của nhóm lãnh đạo Việt Nam đã kéo dài từ 21 năm nay, khi cả hai chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của bức tường Berlin và nhất là trước sự tan tành của Liên bang Xô viết và phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc «chiến tranh giữa 2 đồng chí thù địch» đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt trong cuộc hội ngộ Việt - Trung ở Thành Đô - Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải la hoảng lên là «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu» để lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy viên Bộ Chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt đã dại dột chui vào.
Từ đó đẻ ra bao chuyện nhẹ dạ, hớ hênh, tội lỗi với dân với nước. Hai hiệp định bất bình đẳng, mất đất, mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc tràn vào khắp mọi vùng, độc chiếm các món thầu béo bở nhất, từ mỏ bauxite đến hàng loạt nhà máy điện, giành vị trí lao động phổ thông của người Việt mặc cho luật pháp ngăn cấm. Lực lượng lao động này lập làng Trung Quốc ở Tây Nguyên, làm đường chiến lược, khai thác hàng chục vạn hécta rừng dọc biên giới và đầu nguồn. Đồng thời hàng giá rẻ kém chất lượng, chứa chất độc tràn ngập đất nước ta, đồng Nhân dân tệ bắt đầu khuynh đảo thị trường tài chính ngầm. Tai họa cực kỳ nguy cấp hiển hiện, rình rập khắp nơi”.
- Trong bài “Tình bạn Mỹ-Việt giữa hiểm họa bành trướng": “Cuộc đối thoại thứ 5 sẽ diễn ra ở Hà Nội năm 2012. Trong cuộc đối thoại này đại diện phía Việt Nam là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (con của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch; ông Thạch từng nhận xét sau cuộc họp Việt - Trung ở Thành Đô cuối năm 1991 rằng «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu»)”.
 Bùi Tín như cuống quýt lên vì sợ hãi. Bởi vì, theo ông bọn thù địch ngoại bang này còn ghê sợ hơn ngàn lần tất cả những kẻ trước đây ta đã phải đương đầu:
 “Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của mình ở Đài Loan, dọa dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng dìm trong biển máu cả 23 triệu dân mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, còn là một nguồn đầu tư lớn cho lục địa” (1).
Bản chất lớn nhất của chính quyền Đại Hán là độc đoán bên trong và bành trướng xâm lược bên ngoài. Trong xâm lược bên ngoài, chúng lăm le nuốt chửng mọi nước láng giềng, tự nhận mình là trung tâm của thế giới, không giấu giếm ý đồ lâu dài là làm bá chủ thế giới bằng mọi cách. Chúng thôn tính một phần lớn Mông Cổ, toàn bộ Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu, tiêu diệt quyền tự do, nền độc lập của các nước này, khẳng định láo xược cái tội cướp nước khác bằng lá cờ ô nhục một sao đỏ lớn nằm trên 4 ngôi sao nhỏ.
Sau khi thực hiện chiến tranh với Liên Xô mà chúng từng coi là người anh Cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, với Ấn Độ là nước dân chủ lớn nhất ở châu Á, nhưng bị giáng trả và ngăn chặn, hiện nay Bắc Kinh mưu đồ bành trướng xuống phương Nam, ráo riết nô dịch hóa theo hình thức thuộc địa kiểu mới các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Campuchia bằng những thủ đoạn từ lộ liễu đến tinh vi, từ hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế - tài chính - giáo dục - văn hóa, đẩy mạnh thương mại một chiều, làm đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị của các nước ấy bằng mọi cách thâm hiểm, hủ hóa bằng tiền, gái, rồi đe dọa khống chế bằng tình báo, tập trung vào nhóm lãnh đạo cao nhất, làm cho những người này tê liệt, mất khả năng phản ứng, há miệng mắc quai, vì đã trượt quá sâu vào trong quỹ đạo quy phục làm bộ hạ tay sai của chúng (2).
“ …cuốn sách mới Death by China (Cái chết từ Trung Quốc) của 2 học giả Peter Navarro và Greg Autry được giới thiệu rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Cuốn sách phơi bày mặt trái của hiện tượng «Phép lạ Trung Hoa» (Chinese miracle), chỉ rõ Trung Quốc là tai họa cho toàn nhân loại, là tên đế quốc mới thực sự, là tai ương cho chính dân tộc đại Hán, đang nô lệ hóa nhân dân Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, đang bóc lột tận xương tủy dân nước mình, đang xuất khẩu hàng xấu, hàng giả, hàng nhái, hàng chứa độc chất ra khắp thế giới, đang bành trướng sang châu Phi, Nam Mỹ, đang nô dịch hóa Đông Nam Á…”(3)
Trong ký ức Bùi Tín, cái bản chất Đại Hán không ngừng chảy rất ghê sợ trong huyết quản những tên thái thú Trung Quốc. Ông kể:
Hồi 1951 khi tôi phụ trách trường đạo tạo sỹ quan sơ cấp của Sư đoàn 304 đóng ở Thanh Hóa, một cố vấn Trung Quốc cấp Dinh (tiểu đoàn) được phái đến trường, gọi là đồng chí Triệu. Lúc nào anh ta cũng nói nhũn như con chi chi: «Mao chủ tịch phái chúng tôi đến giúp, nhưng chính là để học tập các đồng chí. Chúng tôi không am hiểu kẻ thù, không am hiểu chiến trường, ý kiến còn thô thiển, chủ quan, mong các đồng chí tuỳ nghi lựa chọn và lượng thứ cho». Nhưng bất kỳ ý kiến lớn nhỏ nào của anh ta mà chưa kịp thi hành anh ta tâu ngay lên thượng cấp để xử lý rất găng. Sinh hoạt cũng vậy. Anh ta ăn riêng có thịt, có cá, có rượu bổ, lại có ngựa cưỡi, có 3 người phục vụ: 1 cần vụ, 1 giám mã, 1 bảo vệ, đi thao trường về là nằm ngửa có cần vụ bưng nước ấm đến để ngâm chân và xoa bóp, nhưng lại luôn hát: chúng ta là con em nhân dân trăm họ, luôn sống giản dị trong lòng dân, hết lòng phục vụ nhân dân, luôn nhường cơm xẻ áo cho dân …” (2)
Song le, ông luôn tự hào về truyền thống chống Bắc thuộc của dân tộc mình: “Nhân dân Việt  Nam luôn kiên cường chống lại mọi hiểm họa ngoại xâm đến từ phương Bắc. Lịch sử tồn tại và phát triển của Việt  Nam từ xa xưa đến ngày nay đã chứng minh sự thật ấy” (3)
 Và vui mừng nhận thấy sức hậu thuẫn vô cùng lớn của quốc tế: “Cả thế giới tiến bộ, từ Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Úc, Liên hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada…đều đứng về phía nhân dân ta chống hành động ngạo mạn phi pháp của phía Trung Quốc…..Thái độ rõ ràng, kịp thời của Hoa Kỳ, cường quốc số một của thế giới, trong cuộc khủng hoảng biển Đông là rất quan trọng. Từ năm ngoái ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên bố rằng «Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về thông thương trong vùng biển Đông và Thái Bình Dương», làm cho đại diện Trung Quốc Dương Khiết Trì giận dữ bỏ phòng họp ” (3).

Ông khẳng định: Việt  Nam đã chuyển từ thân Trung Quốc sang thân Âu - Mỹ ư? Thế thì càng tốt hơn nữa. Theo nghĩa thân Trung Quốc là thân Trung Quốc bành trướng kiểu Đại Hán, và thân Âu - Mỹ là thân những giá trị tự do, dân chủ đa nguyên đa đảng trên cơ sở bầu cử thật sự tự do và định kỳ (4) .

Ông nhìn nhận, như những nhà thông thái nhìn nhận: Trung Quốc chỉ là con hổ giấy, là quả bong bóng mỏng bơm căng: “Một số chuyên gia kinh tế, như Robert Fogel, giáo sư đại học Harvard Hoa Kỳ được tặng giải Nobel về kinh tế; nhà bình luận Salvatore Babones cho rằng …Trung Quốc hiện là nước mới giàu lên, nhưng còn rất nghèo, tổng sản lượng lớn là do dân quá đông, hơn 1,3 tỷ dân, nhưng hiện thu nhập tính theo đầu người lại đứng thứ 93 của thế giới - hơn 4.000 đôla/năm - chỉ bằng 1/10 của Hoa Kỳ. Chất lượng phát triển rất thấp. Các nhà kinh tế - xã hội cho rằng từ nghèo lên đến mức trung bình có thể là một bệ phóng, lại có thể là một cạm bẫy. … Điều nguy hiểm ở Trung Quốc hiện nay là chênh lệch giàu nghèo không những không thu hẹp, lại mở rộng ra ở mức quá đáng. Mới cách đây 30 năm, Trung Quốc chỉ có vài tỷ phú đôla, nay đã lên đến gấn 200 tỷ phú, tỷ phú giàu nhất sắp được vào Ban Chấp hành Trung ương đảng CS. Trong khi ở sâu trong nội địa, có vùng thu nhập bình quân chỉ đạt 1/10 mức trung bình. Hiện nay 1% dân số - chừng 12 triệu người thuộc phe nhóm, gia đình, con ông cháu cha thế lực cầm quyền - nắm trong tay hơn 40 % tài sản quốc gia. Bất mãn xã hội tăng rõ rệt. Mất ổn định chính trị do lòng dân không yên thêm trầm trọng. Bùng nổ xã hội là tất yếu. Hiện nay một năm đã có hơn 300.000 cuộc đấu tranh, đình công, bãi công, phá hoại công sở, nhà máy, gấp 6 lần 10 năm trước. Các học giả gọi tình trạng đó là «bị sập bẫy của phát triển», «chui vào cạm bẫy của mức công nghiệp trung bình», lãnh đạo thất bại trong việc «làm chủ chất lượng phát triển», làm thui chột công cuộc phát triển vì không thay đổi cơ chế, không chuyển đổi hệ thống cai trị.….Trung tướng Lưu Á Châu, chính ủy Học viện Quốc phòng, công khai cảnh báo rằng Trung Quốc sẽ sụp đổ như Liên Xô trước đây nếu không sớm từ bỏ chế độ hiện nay” (5).
 - 2 -
 Là con quan thượng thư dưới triều đình phong kiến nhưng Bùi Tín được kết nạp Đảng rất sớm. Ông sinh ngày 29/12/1927 tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, tháng 9 năm 1945 đi bộ đội và tháng 3 năm 1946 ( 19 tuổi) đã được kết nạp vào Đảng.
 Ông được Đảng trọng dụng, được phong hàm đại tá khá sớm, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ năm 1972, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật từ năm 1988. Năm 1982 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ). Nhân Dân và Quân đội Nhân dân là hai tờ báo lớn nhất và tín cẩn nhất của Đảng.
 Việc Bùi Tín được kết nạp Đảng sớm và thăng quan tiến chức nhanh có thể được giải thích bởi hai lý do:
 - Tuy là quan thượng thư nhưng lý lịch gốc của cụ Bùi Bằng Đoàn rất cơ bản và trong sạch. Nhà nghèo, thường phải quét lá đa để đốt lên thay đèn đọc sách nhưng 17 tuổi đã đỗ cử nhân Hán học rồi phải khai tăng thêm 3 tuổi để được vào trường Hậu bổ học tiếng Pháp. Được chọn vào triều đình Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Suốt mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cụ vẫn giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối. Hồi đến nhậm chức tri phủ Xuân Trường (1927), cụ cho treo cái bảng ở cổng phủ ghi rõ: "Ai có việc hay đưa đơn, không được mang theo một lễ vật gì qua cổng này". Sau cách mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ ra làm việc. Hai lần đầu cụ từ chối. Cụ làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ cuối năm 1946 cho đến ngày mất, năm 1955. Người kế nhiệm Bùi Bằng Đoàn là Tôn Đức Thắng, sau đó, đến Trường Chinh.
 Hồi ở Việt Bắc, Bùi Bằng Đoàn và Hồ Chí Minh như hai bạn thơ tâm giao. Bài "Tặng Bùi Công" có thể xem là một trong những bài thơ hay nhất của Hồ Chí Minh: 
 Khán thư sơn điểu thê song hãn
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần lai lao dịch mã
Tư công tức cảnh tặng tân thi... 


dịch là: 
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài 


Bài họa của Bùi Bằng Đoàn:

Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc
Giang sơn vạn lý thủ thành trì
Tư công quốc sự vô dư hạ
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi

dịch là: 
Một lòng sắt đá phò nòi giống
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì
Chăm lo việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù 

 

  - Bên cạnh nợ nước, Bùi Tín còn có mối thù nhà. Ông kể:
 “Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng” (6)
 “Tôi thường nhớ đến những bạn bè thân thiết đã ngã xuống trong bom đạn ở Triệu Phong, Quảng Trị, ở Điện Biên Phủ, trên đường số 9, ở Tây Nguyên và ở miền Đông Nam Bộ...những nơi tôi từng đi qua. Tôi đã được sống sót, may mắn hơn những anh em khác biết bao. Tôi sửng sờ khi nghe tin người lái xe từng cấp cứu tôi đã chết trong một tai nạn xe cộ bất thần hồi tháng 12 năm 1990, để lại 6 người con (4 cháu còn nhỏ), vợ anh lại ở nông thôn cày ruộng, cuộc sống cực kỳ gieo neo. Anh cũng đã từng ở quân đội, chuyển sang báo Nhân dân như tôi và tình đồng đội, tình cựu chiến binh gắn bó hai chúng tôi” (6) .
Ông nâng niu trân quý cái chất lý tưởng xuất phát từ lòng yêu nước trong sáng:

 “Lý tưởng xâm nhập tôi tự nhiên, sâu sắc ở tuổi 18. Tôi sống từ đó lạc quan, hừng hực cả thời tuổi trẻ. Vào bộ đội, nhẹ tênh, phơi phới, chỉ một bộ quần áo cũ, một chiếc áo len nâu cụt tay, thủng một lỗ ổ bên ngực. Đại đội trưởng ở dịch hậu (hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, Quảng Trị), khi chưa tới 19 tuổi, lo chuyện súng đạn, gạo, muối, lo chuyện trinh sát đồn địch, dẫn anh em đi phục kích, chan hòa với đồng bào sống dọc những bãi cát, sung sướng với củ khoai luộc ăn cùng cà muối của các bọ, các mạ (các bố, các mẹ), cũng có hồi cả đại đội bị sốt rét, bị bệnh ghẻ lở sâu quảng-những vết lở tròn sâu hoắm-mà vẫn vui hát náo nức trong các buổi lửa trại quân dân” (6)

-3 -
 Tháng 9 năm 1990 Bùi Tín sang Pháp dự Hội hàng năm của báo Nhân đạo (l’ Humanité) rồi quyết định ở lại Pháp để có thể công khai đấu tranh cho tự do dân chủ ở quê nhà. Bắt đầu lên tiếng trên BBC với ‘’Kiến nghị của một công dân Việt nam‘’ mỗi ngày ông một quyết liệt hơn qua những bài báo đăng trên Time, Far Eastern Economic Review, Washington Post, Le Monde, Talawas, Đàn Chim Việt, Thông Luận, Đối thoại, Tổ Quốc …, qua những phát biểu trên BBC, RFI, RFA, VOA. Với tư liệu đầy ắp, với sức viết tràn trề ông còn cho xuất bản hơn chục đầu sách : Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, Về 3 ông Thánh, Mây Mù Thế Kỷ, Cung Vua và phủ Chúa,’Tâm Tình với Tuổi Trẻ Việt Nam, Following Ho Chi Minh, From Enemy to Friend và La face cachée du régime ….
 Cuống cuồng run sợ, người ta kết án ông là chống Đảng, phản bội Tổ quốc, bất mãn, làm tay sai cho các thế lực Diễn biến Hòa bình; hệ thống Tuyên giáo của ĐCSVN mở nhiều chiến dịch bôi bẩn, xuyên tạc, vu cáo ông….
 Không, nhà báo Bùi Tín không bất mãn cá nhân, bởi vì, như trên đã thấy, ông từng được Đảng trọng dụng, được thăng quan tiến chức khá nhanh.
 Tất cả chỉ là do ông vốn là người tôn thờ cái cốt cách di truyền trong tầng sâu tâm khảm ông: « Tôi không thể nào quên, cha tôi luôn nằm thẳng. Ngủ ban đêm hay ngủ trưa, đều một mực như thế. Hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng. Suốt cả một đời người, ông luôn ngủ với một tư thế không thay đổi. Đi từ nhà trên xuống nhà dưới, đi bách bộ ở hành lang, hay ở trong sân nhà, cha tôi bao giờ cũng đi đến góc, rồi rẽ phải hay rẽ trái, không bao giờ đi tắt. Tất cả đều thành nếp sống và nếp nghĩ. Cũng có thể có người cho là lẩm cẩm. Nhưng cái ngay thẳng của người "quân tử" là như thế, phải như thế. Không thể nhượng bộ cho chính mìmh ” ( ), cho nên ông đằng đẵng bị cái “nỗi bất màn thánh thiện” dày vò. Ông từng tâm sự:
 “Đã 15 năm nay, từ những ngày Hòa Bình, nhiều nỗi đau giằng xé lòng tôi. Những nỗi đau không vật chất, không thể xác. Những nỗi đau ngấm sâu trong tâm linh. Không phải nỗi đau của sinh, lão, bệnh, tử. Dù cho lưỡi hái của Tử thần đã kề cổ tôi vào đêm 2-6-1989 ấy trong một cơn nhồi máu cơ tim cực hiểm. 
Đó là nỗi đau của tinh thần, của trí tuệ...
 Đã bao lần tôi thầm thốt lên: Ôi! Số phận của con người! 
Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau...Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nỗi nữa!
Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng Kiều hiện đại, đang nhan nhản trên các hè phố Hà Nội, Sài Gòn khi nắng chiều vừa tắt”
 (6).


Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận. Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa, nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao... còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là "giải phóng!" Vậy thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập, nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận. Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết” (7).
 Ông kinh hoàng nhìn thấy những tà thuyết của Mác-Lênin-Mao Trạch Đông- Xtalin không chỉ tàn phá đất nước ông, kìm hãm dân tộc ông mà còn hủy diệt cả đất nước láng giềng:
 “Tôi đã vào Campuchia ngày 7/1/1979 cùng một mũi tiến quân lớn của bộ đội Việt Nam, sáng sớm đến sân bay Pochentong, trưa vào Hoàng Cung và sau đó vào sứ quán Tàu, ngôi nhà lớn nhất của Pnompenh. Hàng vạn người gầy ốm, ghẻ lở, ngơ ngác như ở địa ngục trở về, lang thang suốt hơn 3 tháng trời trên các nẻo đường cát bụi, không giầy guốc, giữa nắng gắt và mưa rào. Những hố chôn người tập thể rộng lớn, những cánh đồng đầy đầu lâu, xương sọ vỡ của những người bị đánh chết, ám ảnh tôi hàng chục ngày đêm ròng rã...Tất cả những điều rùng rợn ấy là từ một chủ trương "xây dựng một xã hộ cộng sản trong sạch nhất, công bằng nhất, tinh khiết nhất..."Tôi sững sờ tìm đọc và nhờ mấy anh bạn Campuchia dịch những tập nguyệt san lý luận "Cờ đỏ" xuất bản trong những năm 1977 và 1978 để hiểu rõ những cơ sở lý luận của những hành động tột cùng man rợ ấy, suy nghĩ về khả năng tha hóa đến mức nào của những tư duy bệnh hoạn. Sau đó, tôi sống trên các chốt tiền tiêu dọc biên giới Campuchia, Thái Lan với người lính " tình nguyện " Việt Nam, 2 chữ tình nguyện này ngày càng trở nên khó nghe và mĩa mai đối với tôi, chúng tôi chắt từng giọt nước đọng trên lá chuối và lá cây báng súng vào chiếc đĩa nhôm để uống, lau mặt và nấu cơm... Trên những chuyến bay định kỳ An-to-nốp 24 của Liên xô, tôi từng trở về thành phố Hồ Chí Minh cùng anh em thương binh ta, phần lớn bị cụt một hoặc hai chân do vấp mìn cá nhân của Trung Quốc chế tạo, ở bên trong biên giới” (6).
 Cho nên, năm 1982 ông đã gặp đại sứ Ngô Điền và thiếu tướng Lê Hai phụ trách công tác chính trị quân Tình nguyện Việt Nam nêu nhận định và phát biểu ý kiến khẩn thiết: "Tình hình hiện nay là bộ đội ta bị sa lầy, chỉ có cách là rút sớm toàn bộ các đơn vị ta về nước, giao lại cho bạn, và chuyển sớm cho Liên Hợp Quốc cùng Cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề Campuchia, nếu không tình hình sẽ còn gay go cho đất nước ta hơn nhiều”
 Năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh được cử làm quyền Tổng Bí Thư, Bùi Tín đã viết một bản kiến nghị dài 5 trang đánh máy, đề nghị giảm số quân từ trên 1,6 triệu xuống 60 vạn trong 3 năm cho ngang với mức trung bình của thế giới, đề nghị đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát cả về kinh tế và chính trị, thực hiện hòa giải với tất cả các nước thù địch cũ: Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ.  

Được mời thỉnh giảng ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tại Hội trường lớn ở đây, tháng 4 năm 1990, nhà báo Bùi Tín đã dõng dạc phê phán: "Đảng đã bao biện, ôm dồm, dẫm chân lên chính quyền quá lâu rồi, đã đến lúc phải trả lại toàn bộ chính quyền cho các cơ quan dân cử. Có thể nói chính đảng đã vi phạm có hệ thống hiến pháp là luật cơ bản của đất nước, trong một thời gian dài. Hiến pháp chỉ rỏ rằng: nước ta, toàn bộ chính quyền thuộc về tay nhân dân, thông qua các cơ quan dân cử là hội đồng nhân dân và quốc hội. Nhân dân không bầu ra trung ương đảng và không bầu ra bộ chính trị. Trung ương đảng và bộ chính trị quyết định những nội dung, biện pháp, chỉ số, chính sách, về kế hoạch nhà nước trong 5 năm hay trong 1 năm về nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp v. v...đều là sai nguyên tắc, làm vậy là lấn quyền của quốc hội và hội đồng nhân dân..." (6)
 Dẫu sao, người ta vẫn thấy Bùi Tín chưa bao giờ gay gắt, cay cú, chưa bao giờ nặng lời, thậm chí nhiều lúc ông thiết tha như day dứt chính mình:
 ‘‘Và xin bạn hãy yêu thương cả những người bất đồng chính kiến với bạn, đừng bao giờ giận dữ, ghét bỏ, chửi mắng hay trong lòng khinh bỉ và xỉ vả họ. Họ chỉ là nạn nhân của cả một học thuyết có mục đích rất nhân văn (người không bóc lột người) nhưng với những biện pháp rất phi nhân tính (đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, kích động căm thù ngút trời, chiến tranh là phương pháp cơ bản, độc quyền chân lý) ; họ là nạn nhân của thời cuộc, của một ảo tưởng khổng lồ, dai dẳng, của những điều kiện lịch sử khách quan, ngoài ý muốn của họ; rồi mới đến họ là nạn nhân của thái độ bị động, theo đuôi, nhu nhược, mù quáng dai dẳng của chính họ’’ (8).
                                              *
Thế đấy, Bùi Tín không hề phản động, cũng không bất mãn, không cơ hội, ông chỉ thực hiện sứ mệnh cao cả của một công dân chân chính, một trí thức có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc mình. Những người lãnh đạo trước đây do nhận thức kém cỏi lại hợm hĩnh, ‘kiêu ngạo cộng sản’ khi có chức có quyền nên đã đối xử rất tệ bạc với những người như Bùi Tín. Thế hệ lãnh đạo hiện nay như Đinh Thế Huynh. Nguyễn Phú Trọng ….- thuộc hàng học trò, hàng em nhỏ của ông - hãy khách quan hơn, tỉnh táo hơn mà nhìn nhận lại để sám hối, sửa sai, công khai xin lỗi ông và mời ông trở về. Đấy là những bước cơ bản cần thực hiện trong tiến trình hòa hợp, hòa giải ngõ hầu xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc.

                                                                          Ngày Bùi Tín bước vào tuổi 85
                                                                           Hà Nội 29 tháng 12 năm 2011
                                                                                    Nguyễn Thanh Giang
                                                                    Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
                                                                            Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
                                                                                     Tel : (04) 35 534 370   

Ghi chú:
(1)  Bùi Tín – Thời kỳ “Bắc thuộc mới”
(2)  Bùi Tín – Bản chất chính quyền Đại Hán
(3)  Bùi Tín – Tình bạn Mỹ - Việt giữa hiểm họa bành trướng
(4)  Bùi Tín - Gió đã xoay chiều rồi chăng?

(5)  Bùi Tín -  Người khổng lồ bị sập bẫy?

(6)  Bùi Tín – Hoa Xuyên tuyết
(7)  Bùi Tín – Mây mù thế kỷ
(8)  Bùi Tín -  Tâm Tình với Tuổi Trẻ Việt  Nam
Nguồn trích dẫn (0)
I. Tóm tắt vụ xảy ra ở Tiên Lãng, Hải Phòng
1.
Xuất phát từ việc UBND huyện Tiên Lãng ra quyết định trái pháp luật đòi thu hồi đầm nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn nhưng không bồi thường, đền bù thỏa đáng. Ông Vươn không đồng ý, và khiếu nại quyết định của UBND huyện Tiên Lãng. UBND huyện Tiên Lãng giữ nguyên quyết định, ông Vươn phải khởi kiện hành chính ra tòa án huyện Tiên Lãng, tòa xử ông Vươn thua. Ông Vươn kiện tiếp lên tòa án thành phố Hải Phòng. Tòa án Hải Phòng đã lập lờ, không khách quan, tổ chức hòa giải giữa 2 bên nhằm để ông Vươn rút đơn khởi kiện. Có được cớ đó, UBND huyện Tiên Lãng lật lọng quay ra thực hiện cưỡng chế, thu hồi đầm của gia đình ông Vươn. Ngày 05/01/2012, UBND huyện Tiên Lãng tổ chức cưỡng chế với sự tham gia, hỗ trợ của lực lượng vũ trang bao gồm hàng trăm công an, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng với trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện chuyên dụng, chó nghiệp vụ… thành phần có Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng Đại tá Đỗ Hữu Ca mặc áo chống đạn trực tiếp tham gia. Gia đình ông Đoàn Văn Vươn bị đối xử bất công, lại không còn chỗ dựa ở công lý, chính quyền sử dụng bạo lực dồn đến đường cùng, gia đình ông Vươn đứng trước nguy cơ bị cướp trắng tài sản, mồ hôi, nước mắt, thành quả lao động từ nhiều năm. Khi lực lượng cưỡng chế ập đến, anh em nhà ông Vươn cho nổ mìn tự tạo để cảnh cáo nhưng lực lượng cưỡng chế không dừng lại, anh em nhà ông Vươn đã bắn súng hoa cải về phía lực lượng cưỡng chế để chạy trốn để thoát thân. Hậu quả là sáu công an, bộ đội bị thương. Sau đó ít ngày anh em nhà ông Vươn tự ra nộp mình và bị khởi tố, bắt giam vì tội “giết người”.

Về phía lực lượng cưỡng chế, ngay trong ngày đã tổ chức đốt phá, đánh sập, san bằng địa 2 ngôi nhà (mặc dù 2 ngôi ngôi nhà này nằm ngoài khu vực cưỡng chế) và tàn phá tài sản, cây trồng của nhà ông Vươn (ước giá trị trên 500 triệu đồng); toàn bộ thủy sản trong đầm (ước khoảng 1 tỷ đồng) bị đánh bắt, cướp sạch…
2.
Sau đó liên tục hơn 1 tháng, các cơ quan báo chí, truyền thông, mọi tầng lớp trong xã hội dần dần lên tiếng, chia sẻ, ủng hộ, giúp đỡ gia đình ông Đoàn Văn Vươn cả về tinh thần và vật chất. Ngày 16/01/2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải yêu cầu UBND thành phố Hải Phòng báo cáo sự việc. Đến ngày 04/02/2012, sức ép xã hội lên cao đòi giải quyết vụ việc một cách công minh thì Thủ tướng tiếp tục yêu cầu lãnh đạo thành phố Hải Phòng chỉ đạo, xem xét làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến việc giao, sử dụng, thu hồi và tổ chức cưỡng chế đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn và hẹn ngày 10/02/2012 Thủ tướng làm việc với UBND thành phố Hải Phòng để giải quyết vụ việc.
Chính quyền thành phố Hải Phòng, từ Phó chủ tịch UBND Thành phố, Giám đốc công an Thành phố, chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền xã Vinh Quang, các cơ quan báo chí, tuyên truyền từ thành phố Hải Phòng đến xã Vinh Quang đều khẳng định là UBND huyện Tiên Lãng làm đúng pháp luật và có những hành vi, tuyên truyền đối kháng lại công luận xã hội. Cụ thể ngay trong ngày 5/1, Đại tá Đỗ Hữu Ca - Giám đốc Công an Hải Phòng - trả lời báo chí: “Vụ việc hôm ấy tuy bắt không được đối tượng nhưng trấn áp được đối tượng. Phải nói rằng việc hiệp đồng tác chiến cực kỳ hay. Tôi bảo không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này”. Ngày 17/01/2012, UBND thành phố Hải Phòng họp báo, Phó chủ tịch thành phố Đỗ Trung Thoại nói rằng: "Nhân dân bất bình nên phá nhà của ông Vươn chứ lực lượng cưỡng chế không san phẳng". Trả lời phỏng vấn Đài truyền hình thành phố Hải Phòng Đại tá Ca nói rằng nhà ông Vươn chỉ là cái “chòi trông cá, nằm trong đất đã thu hồi phá hay không phá không quan trọng”…
3.
Như vậy, việc tổ chức cưỡng chế, thu hồi đầm nuôi trồng thủy sản và hủy hoại tài sản của gia đình anh em ông Đoàn Văn Vươn là có trách nhiệm của lãnh đạo UBND thành phố Hải Phòng, Giám đốc công an thành phố Hải Phòng, chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền xã Vinh Quang. Bên cạnh đó là những sai phạm của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
4.
Ngày 07/02/2012, Bí thư Thành ủy Hải Phòng Nguyễn Văn Thành tổ chức họp báo đình chỉ công tác một số lãnh đạo UBND huyện Tiên Lãng do Thành ủy quản lý. Thành ủy chỉ đạo công an thành phố Hải Phòng điều tra vụ án hủy hoại tài sản của gia đình anh Vươn (Ngày 8-2, Công an TP Hải Phòng đã khởi tố điều tra vụ án hủy hoại tài sản công dân tại khu đầm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn). Ông Nguyễn Văn Thành tuyên bố: “Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng nghiêm túc kiểm điểm, nhận trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trước Đảng bộ và nhân dân thành phố”.
II. Nhà nước pháp quyền
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Nhà nước pháp quyền là hình thức Nhà nước cộng hòa trong đó Nhà nước xây dựng nên pháp luật để quản lý xã hội và tự đặt mình dưới pháp luật. Mọi cơ quan Nhà nước đều phải được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Công dân tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. Quyền công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong Nhà nước pháp quyền, ba ngành lập pháp, hành pháptư pháp độc lập với nhau. Vai trò của tòa án được đề cao. Điều kiện để có một Nhà nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. Điều này đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật và pháp điển hóa không ngừng được thực hiện. Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc dân chủ. Dân chủ là nền tảng để hoàn chỉnh pháp luật. Pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền công dân.
Nhà nước pháp quyền là sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp quyền.
III. Cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước tham gia giải quyết vụ Tiên Lãng, Hải Phòng
1.Vai trò của ngành lập pháp: Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng:
1.1. Cơ quan thường trực của Quốc hội là Ủy ban thường trực của Quốc hội, tại khoản 5, Điều 91, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung, có quy định nhiệm vụ:
“Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.
1.2. Đại biểu Quốc hội, tại Điều 53, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2007, quy định có nhiệm vụ:
“Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của công dân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó”.
1.3. Đoàn đại biểu Quốc hội, tại điểm d, khoản 2, Điều 60, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2007, quy định có nhiệm vụ:
“Tổ chức để đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương”.
1.4. Hội đồng nhân dân, Điều 1, Luật HĐND và UBND năm 2003 quy định có nhiệm vụ:
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.
2.Vai trò của ngành tư pháp: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
2.1. Viện kiểm sát nhân dân, tại khoản 1, điều 3 và điều 6, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, có quy định chức năng, nhiệm vụ:
“Khoản 1, Điều 3
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
“Điều 6
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó”.
2.2. Tòa án nhân dân, tại khoản 2, điều 19, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, có quy định nhiệm vụ:
“Giám đốc việc xét xử của các Toà án các cấp; giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các Toà án khác, trừ trường hợp có quy định khác khi thành lập các Toà án đó”.
3.Vai trò của ngành hành pháp: Chính phủ, Thủ tướng, UBND
3.1. Khoản 1, 2, Điều 112, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung, có quy định:
“Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân”.
3.2. Khoản 1, 3, 4, 5, Điều 112, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung, có quy định:
“Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên;
5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ”.
3.3. Điều 2, Luật HĐND và UBND năm 2003 quy định:
“Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở”.
IV. Thực tế hành động của bộ máy nhà nước từ địa phương đến trung ương
1- Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng sau hơn 1 tháng kể từ khi xảy ra vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng đã tuyệt nhiên không có một động thái trách nhiệm nào để thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật quy định.
2- Như đã nêu trên những vi phạm pháp luật ở Tiên Lãng có liên quan trách nhiệm đến cấp lãnh đạo UBND thành phố, Cơ quan điều tra công an thành phố, Tòa án nhân dân thành phố nên để các cơ quan này tự điều tra, khởi tố, xét xử sẽ không đảm bảo công minh, khách quan. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Pháp luật đã có quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao nhưng 2 cơ quan này cũng không có động thái gì.
3- Tại sao Chính phủ, Thủ tướng chậm trễ chỉ đạo các bộ chức năng tham gia giải quyết vụ việc?
Tại sao Bộ Công an không tiến hành điều tra 2 vụ án “giết người” và hủy hoại tài sản của công dân ở Tiên Lãng. Tại sao Thủ tướng chờ UBND thành phố Hải Phòng báo cáo và tiến hành giải quyết vụ việc trong khi đã có chứng cứ rõ ràng là lãnh đạo UBND thành phố Hải Phòng có liên đới trách nhiệm và thông báo thiếu trung thực, bao biện cho chính quyền huyện Tiên Lãng. Các Bộ chức năng không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Nếu theo logic Thủ tướng chờ UBND thành phố Hải Phòng báo cáo và UBND thành phố Hải Phòng chờ UBND huyện Tiên Lãng báo cáo thì làm sao sự vụ được giải quyết công minh, kịp thời?
V. Các vấn đề đặt ra qua vụ Tiên Lãng, Hải Phòng
1- Cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước thụ động, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
2- HĐND và UBND thành phố Hải Phòng không thực thi nhiệm vụ do pháp luật quy định. HĐND và UBND thành phố Hải Phòng theo pháp luật là người chịu trách nhiệm trước nhân dân Hải Phòng, chịu trách nhiệm trước pháp luật để xảy ra vụ Tiên Lãng không tổ chức họp báo để thông tin cho người dân về vụ việc.
Thành ủy tổ chức họp báo, do ông Nguyễn Văn Thành chủ trì không nhân danh Chủ tịch HĐND thành phố Hải Phòng mà nhân danh Bí thư Thành ủy thông báo về biện pháp giải quyết vụ việc, ông tuyên bố: “Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng nghiêm túc kiểm điểm, nhận trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trước Đảng bộ và nhân dân thành phố”. Hiện nay, chưa có quy định nào về việc Bí thư thành ủy phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp như để xảy ra vụ Tiên Lãng. Trong khi Bí thư thành ủy lại là người đứng đầu Thành ủy, cơ quan lãnh đạo chính quyền tại địa phương. Đây là một hạn chế lớn của hệ thống pháp luật.
3- Theo Hiến pháp quy định thì Đảng là người lãnh đạo Nhà nước nhưng không quy định cụ thể là lãnh đạo như thế nào. Bộ máy Nhà nước tại thành phố Hải Phòng do Bí thư Thành ủy lãnh đạo, nhưng không có luật nào quy định rõ Chính phủ, Thủ tướng có quyền lãnh đạo đối với Thành ủy Hải Phòng. Vậy Thủ tướng sẽ chỉ đạo gì nếu Thành ủy Hải Phòng không chấp hành? Ở đây bộc lộ sự trùng lắp, không ăn nhập giữa bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước. Nếu theo logic thì tại địa phương Bí thư Thành ủy Hải Phòng đứng ra giải quyết vụ việc thì trung ương phải là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải đứng ra chỉ đạo.
4- Trong vụ này, ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là Thủ tướng, lại vừa là đại biểu Quốc hội tức là 2 vai, thể hiện sự trùng lắp và ông chỉ có thể là 1 vai. Đây là một minh chứng về sự bất hợp lý khi người ở bộ máy hành pháp lại đồng thời là Đại biểu Quốc hội.
5- Vụ án đã không thể bưng bít, và không thể tùy tiện giải quyết là do: nhận thức của người dân đã thay đổi; nhờ tính năng ưu việt của công nghệ thông tin, truyền thông ngày nay; và áp lực mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân quan tâm đến vụ việc.
6- Một cảnh báo nguy hiểm về việc tùy tiện sử dụng quân đội tham gia trấn áp nhân dân.
7- Bộ công an đã bỏ rơi trách nhiệm không trực tiếp tham gia điều tra và Thủ tướng cũng không chỉ đạo.
8- Công an thành phố Hải Phòng điều tra vụ việc là không đảm bảo tính khách quan, công bằng. Ngày hôm đó (05/01/2012) nếu không chạy thoát, khả năng anh em nhà ông Vươn bị giết là rất cao, hiện trường, clip, nhân chứng tham gia nếu được điều tra khách quan thì sẽ chứng minh được điều này. Nay anh em ông Vươn lại do công an Hải Phòng điều tra là hết sức phi lý.
9- Một xã hội có công lý thì không thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của cá nhân người lãnh đạo mà phải do chính bản chất của thể chế đó quyết định. Do đó, nói uy tín Thủ tướng càng lên cao khi giải quyết vụ Tiên Lãng hoặc đặt niềm tin vào cá nhân Thủ tướng trong vụ này là hạ thấp bản chất của thể chế, thể hiện sự duy ý chí.
Tướng giỏi không cần phải đánh trận mà thắng mới đúng. Ví dụ: Công tác PCCC, có 2 chức năng phòng cháy và chữa cháy, nếu tướng giỏi là tướng không phải chữa một đám cháy nào vì làm công tác phòng cháy tốt. Không lẽ tướng chữa cháy giỏi hết vụ cháy này, đến vụ cháy khác thì uy tín của tướng đó lại càng lên cao hay sao?
Tại sao khi giải quyết vụ Tiên Lãng sao không hy vọng vào thể chế và việc giải quyết đúng vụ này thì uy tín của chế độ càng lên cao mà lại cho rằng uy tín của Thủ tướng càng lên cao và gửi hy vọng vào cá nhân Thủ tướng? Thế còn hàng loạt các vụ tham nhũng, sai phạm đặc biệt nghiêm trọng lại là trách nhiệm của tập thể, tại lỗi cơ chế thì có công bằng không?
10- Cách giải quyết như vụ Tiên Lãng là không giải quyết được tình hình hiện nay vì các vụ việc tương tự đã, đang xảy ra ở khắp các địa phương trong cả nước.
Phân tích trên cho thấy nhà nước hiện nay không phải là nhà nước pháp quyền. Chính sự không trung thực là nguồn gốc của mọi tội ác. Cuộc sống xã hội hiện nay đòi hỏi cần có một nhà nước pháp quyền - Đây mới chính là giải pháp cho mọi vấn đề của xã hội.
Hà Nội, ngày 10/02/2012,
H.H.S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN