Monday, March 19, 2012

Nhà quản trị cao cấp Hoàng Ngọc Diệp- “ Mỗi ngày là sinh nhật và cũng là ngày cuối”

Click the image to open in full size.
Chiến lược quyết định tất cả. Bởi nếu có ý định tốt, tư tưởng hay, đầu tư mạnh mà không có chiến lược phù hợp, thì cơ hội thành công gần như là con số không.
Bài & ảnh: Hiền Hòa
Hoàng Ngọc Diệp là ai?Sinh ở Nha Trang, trong một gia đình đông anh chị em, có anh cả và em gái út là những người nổi tiếng trong giới văn nghệ.Trưởng thành ở Úc.Làm việc, và lang thang trên 28 nước.Năm 1991 về Việt Nam và ở luôn tại đây. Làm GĐ và Trưởng đại diện của khá nhiều công ty nước ngoài.Giúp thành lập 7 công ty tại Việt Nam có 5 công ty khá thành công, nhất là ởlĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin. Hiện làm GĐ Cao cấp của Qualcomm (Mỹ) tại Việt Nam, và đang có hướng chuyển đổi công việc.Cùng vợ và con trai (11 tuổi) sống ở Sài Gòn.Đấy là phác thảo chân dung của Nhà Quản trị Cao cấp mà chúng ta sẽ tiếp xúc trong cuộc trò chuyện này. Và đây cũng là lần đầu tiên anh bày tỏ những chuyện khá riêng tư của mình với báo chí - một cuộc đời sôi động và cũng nhiều biến cố.
Click the image to open in full size.
Chân dung nhà quản trị cao cấp Hoàng Ngọc Diệp
Lang thang như một kẻ hát rong...
Có lần anh nói, khi nhỏ anh ước mơ trở thành một nghệ sĩ trình tấu guitar?

Lúc nhỏ tôi cực kì yếu đuối. Vì sinh thiếu tháng nên đến năm 12 tuổi vẫn là người “chậm”, học hành ngu muội. Tôi nghĩ hay là mình học đàn, để trở thành một guitarist lừng danh, và sau đó chết yểu, cho người đời luyến thương. 13 tuổi, tôi mới hết bị hen suyễn, học hành tốt hơn, và cũng dần dần nhận ra một điều: khó mà học nhạc tử tế nếu như mình cứ là một thằng “gà mờ”, không có kiến thức rộng.
Anh tự học nhạc?
Anh tôi (sau này là guitarist, nhà soạn nhạc, nhà nghiên cứu, dịch giả Hoàng Ngọc Tuấn – pv) lớn hơn tôi 3 tuổi, nhưng hai anh em chơi thân với nhau từ nhỏ. Chính anh Tuấn là người dạy đàn và dẫn dắt tôi trong thế giới nghệ thuật mấy mươi năm qua. Anh ấy và những người bạn thân là những người xuất chúng, tôi bị hay được được ảnh hưởng bởi họ. Cũng qua họ, tôi biết yêu mến và kính trọng hơn những văn nghệ sĩ. Tôi được họ dạy nhạc, văn chương, hội họa và hướng dẫn cách cảm nhận, cảm thụ cái đẹp. Và cũng chính họ khiến tôi luôn mặc cảm: mình không thông minh, mình học dốt, không đủ đĩnh đạc, không đẹp trai, không có sức khỏe... Để rồi sau đó phải mất hết mười mấy năm, tôi mới giải quyết được cái mặc cảm của thời con nít này.
Và anh đi Úc là để thỏa mãn cái ước mơ “dao kéo” đó?
Đó cũng là một dự định rất mơ mộng. Khi ra đi, tôi thấy xung quanh mình quá nhiều người bị bệnh tật, tôi muốn về giúp họ. Nhưng y khoa đâu phải chuyện chơi, tiếng Anh quá khó, tôi bỏ học sau một thời gian trầy trật. Tôi chuyển qua học nghề châm cứu, nhưng rồi cũng không thấy tương lai, vì không biết mình sẽ giúp những người bệnh tật ra sao đây. Chính lúc này, vào cuối thập niên 70, tôi nhận ra anh Tuấn của mình là một thiên tài. Anh ấy đã mất một thời gian rất ngắn để học cùng lúc nhiều ngôn ngữ, còn tập đàn thì tôi phải mất thời gian gấp vài mươi lần so với anh mình để tạm trình diễn được. Tôi ra đường đi hát rong,và bắt đầu học về quản trị.
Anh chơi nhạc trong bao lâu, và ở những đâu?
Chơi đàn đến năm 1983, và ở khắp mọi nơi, từ vỉa hè, quán bar, cho đến các sân khấu. Tôi đi dạy nhạc ở các câu lạc bộ, các tư gia..., và tiếp tục nuôi dưỡng cái ước mơ trở thành một “người thầy tinh thần” trong âm nhạc. Nói chung, bằng cây đàn, trong mấy năm tôi đã thỏa mãn được đam mê và cái dạ dày của mình.
Sao đến năm 1983 anh dừng lại? Hay lúc ấy anh biết mình không bao giờ trở thành một “bậc thầy tinh thần”?
Cho tới khi hiểu được mình có thể làm được nhiều điều khác ý nghĩa hơn, ích lợi hơn là chơi nhạc, thì tôi bỏ sức chuyên tâm hơn cho lĩnh vực quản trị dù vẫn tiếp tục trình diễn. Năm ấy, anh Tuấn qua Úc. Đón anh ở phi trường với cây guitar của mình, tôi giao cây đàn lại cho anh, và quyết tâm đi sâu vào một con đường khác.
Sau 25 năm giao cây đàn lại cho huynh trưởng, anh thấy quyết định đó có chính xác không?
Quá chính xác. Về mặt nghệ thuật, dường như ông trời đã không công bằng với tôi, và quá ưu đãi với anh tôi. Anh viết văn, làm nghiên cứu, phê bình, soạn nhạc, trình tấu, diễn kịch, đi dạy, dịch thuật... kiểu gì anh ấy cũng làm khá dễ dàng, và có thành tựu. Riêng trong lĩnh vực soạn nhạc, rất nhiều tác phẩm của anh đã đi vào giáo trình giảng dạy ở các trường chuyên âm nhạc, trở thành bài thi guitar trong nước và quốc tế. Trong lĩnh vực âm nhạc, anh cũng đã có tên trong cuốn từ điển bách khoa uy tín trên toàn thế giới. Nếu anh Tuấn không qua Úc, tôi đã không có sự so sánh, tôi đã không đủ dũng cảm để bỏ cây guitar, và chắc bây giờ, tôi đã chết ngoài đường – chết bằng cái cách của một kẻ hát rong, một xẩm ca, trên một vỉa hè nào đó, vì say mèm và mất định hướng.
Và đó là lý do duy nhất?
Trong đời này làm gì có lý do duy nhất, tôi đã bị dằn vặt với rất nhiều thứ. Và chỉ khi anh Tuấn xuất hiện, tôi mới biết mình nên bỏ đàn, bởi nếu thang điểm cho anh ấy là 10 thì tôi chỉ được có 4. Đam mê và khổ luyện thì chưa chắc ai hơn ai, nhưng tôi thiếu năng khiếu bẩm sinh. Khi trình diễn, nếu tôi phải vận dụng đến 10 thành công lực, anh Tuấn chỉ cần 4 là đủ. Tôi nghiệm ra một điều rằng: âm nhạc là đam mê và sở thích, nhưng nó chỉ là ước mơ hết sức cá nhân, và chắc chắn tôi (kẻ bất tài) sẽ không làm được gì cho người khác. Tôi đã thực hiện một cuộc đánh đổi nhẹ nhàng, dù có nhiều luyến tiếc.
Ghét tiếng AnhĐến Úc năm 1977, khi sắp 18 tuổi, anh mất bao lâu để hoà nhập được với tiếng Anh?
Lúc nhỏ tôi rất ghét học tiếng Anh. Sau 6 tháng, tôi mới chập chững đủ để đi chơi đàn và dạy nhạc bằng tiếng Anh vào cuối tuần. Thêm một năm sau nữa thì tiếng Anh mới tạm được.

Theo một thống kê của người Mỹ vào năm 2005 mà tôi đọc được, vì sĩ diện “dân tộc” xin không công bố con số cụ thể, nhưng có thể nói phần lớn người Việt di cư lúc trưởng thành, dù đã mấy chục năm sau, khả năng tiếng Anh cũng chưa đạt được mức trung bình. Anh đã học bằng cách nào trong một năm ấy để đạt mức “tạm được”?

Lúc nhỏ ở Nha Trang, nhà gần biển, và người Mỹ ở đó rất nhiều, chính họ làm cho bãi biển vốn thơ mộng và yên bình trở nên những vùng cấm, những nơi nguy hiểm, mất vệ sinh. Bao cao su, kim tiêm, thuốc lá, vỏ kẹo... hiện diện khắp nơi. Chính người Mỹ đã làm cho tôi dị ứng với tiếng Anh, vì lúc ấy suy nghĩ khá đơn giản: đó là thứ tiếng của kẻ xấu, của những người đi xâm lược, của một bộ máy miền Nam đang tham nhũng, thối nát. Trong khi gia đình tôi, mấy anh em đều nhai ngấu nghiến nó, anh tôi còn học cả 3-4 thứ tiếng khác nữa. Tôi thì chỉ học đủ để hát nhạc, chơi đàn vớ vẩn. Sang Úc, cái khả năng kì thị ấy lộ ra rõ ràng: mình là một cục ngu. Trong thời kỳ đầu, đi làm là chủ yếu, thời gian đâu mà đi học, tôi đành chọn cách học thuộc lòng. Quyển sách đầu tiên tôi chọn, hình như là cuốn Across the River and Into the Trees (Băng sông vào rừng), xuất bản năm 1950, sau đó là tác phẩm nổi tiếng The Old Man and the Sea (Ngư ông và biển cả – pv) của E. Hemingway. Tôi mua cuốn này vì hai lý do: tác giả đang thời nổi tiếng, dù tôi cũng chẳng biết gì nhiều về ông, và cuốn sách được bán ở cửa hàng sách cũ, giá chỉ có 50 xu. Tôi đã mất 6 tháng tra từ điển để học thuộc lòng nó, và 5 năm sau tôi mới hiểu được tinh thần tác phẩm.
Trong suốt 6 tháng học thuộc lòng đó, anh có gặp một khó khăn nào không, chắc cũng có người sẽ phê phán sự ngớ ngẩn này của anh chứ?
Không có ai nói tôi ngớ ngẩn cả, mà đa số nói tôi bị điên. Ở sở làm, đó là một xí nghiệp sơn, tới giờ nghỉ là tôi học thuộc lòng, thấy thế, có người còn nói với tôi: cần gì học cho mệt, như tao đây, cứ sống lâu là khắc có nhà cửa, xe cộ, “anh” với “em” mà làm gì cho chết xác. Tôi nói lại với họ: trong mọi giá, tiếng Anh của tôi phải bằng và hơn những người Úc bình thường trong vài năm, không thì chẳng nên làm một công dân Úc làm gì. Họ chế giễu và cho tôi là điên. Vì mâu thuẫn này, tôi đành nghỉ việc ở sở làm, chọn lối sống như đã nói ở trên: chơi đàn và hát rong.
Đến bây giờ thì tiếng Anh của anh thế nào rồi, đã hơn được người Úc chưa?
Tôi chưa bao giờ thi thố trong chuyện này, vì càng học càng biết rõ một điều: xã hội có người cao người thấp, trong ngôn ngữ mình làm sao sánh được với các nhà văn nhà thơ, các chuyên gia ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu so với những người Úc bình thường, hơn hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn là không thua rồi. điều quan trọng hơn cả là chính mâu thuẫn ở hãng sơn đã giúp tôi thay đổi, đi từ một người làm thuê để trở thành một nhà quản lý. Tôi cảm ơn vì điều đó.
Học quản trị vì muốn cứu nhiều người. Anh đã thay đổi như thế nào, ý nói là khi anh quyết tâm chọn học nghề quản trị?
Nếu có trở thành bác sĩ thì cũng phải mất mấy chục năm kiếm tiền, để đủ tiền mà về Việt Nam làm bác sĩ thiện nguyện. Vì nếu không có tiền để sống, thì mình phải lấy tiền của bệnh nhân, mà như vậy thì đâu có cứu được nhiều người. Tôi phải tìm cách kiếm tiền thật nhanh, thật nhiều, và đương nhiên phải bằng một nghề khác. Đó là nghề Quản trị (Manager): quản lý, lập kế hoạch, giải quyết các chiến lược cho các tổ chức, từ cấp độ công ty lên tới cấp độ thành phố, quốc gia, nhà nước, khu vực... Tôi chằm hằm vào việc học này, trước tiên là để kiếm tiền cho ước mơ trẻ con của mình, nhưng sau một thời gian học về quản trị thì lại thấy chính đây là nghề có thể cứu được nhiều người hơn là làm bác sĩ! Tôi vừa đi học vừa đi làm manager, sau 4 năm tôi mới biết được thật sự giá trị của quản trị là gì.
Anh có thể chia sẻ về cái biết quý giá này không?
Khi nghe tạp chí Mỹ Thuật muốn phỏng vấn, tôi ngần ngừ mãi không muốn nhận lời. Không phải tôi chảnh, sợ lộ bí mật nghề nghiệp, mà sợ mình sẽ phải “kể công”, phải nói chuyện chuyên môn quá khô khan. Tôi là người bình dân, không thích cầu kì, chỉ muốn nói chuyện tâm tình thôi, thích ngồi vỉa hè cafe, uống bia. Công thức có thể hiểu đơn giản như sau: Quản trị = khoa học + nghệ thuật. Bởi những công thức về quản trị, về quản lý thì rất cứng nhắc, lạnh lùng, mà môi trường sống và con người thì muôn hình vạn trạng, đòi hỏi những điều khác. Và những điều khác đó đòi hỏi nghệ thuật trong quan hệ, diễn đạt, thuyết phục và chi phối...
Đỉnh cao về nghề quản trị của anh ở Úc ở mức độ nào?
Đó, tôi rất sợ những câu hỏi kiểu này, vì thế nào là cao, và thế nào là thấp? Đó là chưa nói trong nghề quản trị, chức vụ và đẳng cấp, nhiều khi rất khó nói, cấp độ nào cũng quan trọng cả. Tuy nhiên, tôi khá may mắn, khi còn đang học tôi đã làm giám đốc cao cấp cho một công ty ở Sydney. Cũng trong thời gian này, tôi tiếp cận và được sự hỗ trợ của ông Ken-ichi Omae, người được xem là guru (bậc thầy) ngành quản trị trên khắp thế giới. Hôm đó ông Omae thuyết trình về cuốn sách Beyond Border (Ngoài biên giới) của mình, sau lần xin trao đổi trực tiếp, ông đã thay đổi hoàn toàn về tư duy quản trị của tôi. Qua câu chuyện ngắn ngủi với ông, tôi mới biết được khái niệm: Quản trị chiến lược. Chiến lược quyết định tất cả. Bởi nếu có ý định tốt, tư tưởng hay, đầu tư mạnh mà không có chiến lược phù hợp, thì cơ hội thành công gần như là con số không.
Với một nước như Việt Nam, tư tưởng của Omae sẽ được áp dụng như thế nào, và tại sao anh lại quay trở về khi cơ hội ở Úc đang rộng mở?
Tôi luôn nghĩ rằng mình sẽ trở về, chưa bao giờ nghĩ khác hơn, và đây cũng là lý do khiến cho gia đình tôi gãy đổ. Vợ trước của tôi đã không chịu được cái quan điểm này. Ngay sau lần về nước đầu tiên, cô ấy đã ly dị tôi. Thế tại sao tôi vẫn muốn về ư? Cũng giống như bao nhiêu lời tự hứa của những con người bình thường thôi, trước khi đi tôi đã hứa, có cơ hội là sẽ trở về, và tôi đã phải chuẩn bị cho nó mất mười mấy năm. Tư tưởng của Omae cho thấy nhiều cơ hội cho những nước chậm phát triển có thể sẽ dàng hội nhập được thế giới. Sau khi đi nhiều nước tham khảo các mô hình, đặc biệt ở các nước đang phát triển, tôi biết Việt Nam đang là mảnh đất lý tưởng.
Khác biệt giữa hai môi trường Úc - Việt Nam, làm sao anh thích nghi và áp dụng chiến lược quản trị?
Qua kinh nghiệm thực tế làm việc tại các nước đang phát triển, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á và Đông Âu trong thập niên 80, tôi đã phải chuẩn bị cho mình những cách thức tiếp cận, thu thập và phân tích thông tin, giải quyết vấn đề... khác biệt nhiều so với các nước phát triển như Úc, Mỹ hay Nhật Bản. Tuy nhiên dù đã chuẩn bị rất nhiều, tôi vẫn phải mất hơn 3 năm để thật sự hiểu môi trường phức tạp của nước mình.
Lúc mới về Việt Nam, anh bắt đầu công việc ra sao?
Tôi chọn hai lĩnh vực: hệ thống quản lý của tổ chức, và chiến lược quản trị. Nhưng lúc bấy giờ, các tổ chức ở Việt Nam không bao giờ, hoặc rất ít khi dám chia sẻ các thông tin nội bộ, nên không thể làm được gì nhiều. Cùng lúc đó, công nghệ thông tin của Việt Nam còn quá hạn chế, với vài trăm nghìn điện thoại, vài nghìn máy vi tính. Tôi đã quyết định nhảy qua lĩnh vực này, vì truyền thông và thông tin quan trọng không kém gì giao thông. Dưới góc độ quản trị, đây là lĩnh vực thách thức nhất, bởi nó đòi hỏi rất nhiều yếu tố khách quan, khi đó vẫn là “vùng kín”, người nước ngoài không thể tiếp cận được. May mắn là đã có những người như anh Mai Liêm Trực chủ động tiếp xúc, tạo điều kiện cho tôi và một số anh em khác làm việc.
Biết anh không thích nói, nhưng phải có con số thì người nghe mới tin. Xin anh tiết lộ một vài cột mốc trong nghề nghiệp của anh ở Việt Nam?
Thật sự ra những đóng góp của tôi, dù có những giá trị nhất định, nhưng vẫn ở mức độ sơ khai bước đầu, rất nhỏ bé. Có thể nghĩ đến ở đây mấy công việc mà tôi đã làm ở cấp độ quản trị:

1) Giới thiệu những công nghệ số mới, môi trường hoạt động quản lý và kinh doanh mới cho lĩnh vực viễn thông;

2) Các giải pháp hỗ trợ phát triển “Cách mạng truyền dẫn Điện thoại và Internet”;

3) Gần đây là mạng vô tuyến cho Điện thoại & Internet về các địa phương, chính nó sẽ là thử thách và thay đổi về Truyền thông trong tương lai gần. Tuy nhiên, ở cấp độ các nhà quản lý của Việt Nam, họ chưa hiểu hết sự thiết yếu và phức tạp của ngành này. Ngay cả những người chịu trách nhiệm chính cũng chưa hiểu hết, kết quả là nhiều dự án thất bại, gây thất thoát rất lớn. Ngành quản trị có thể cứu được nhiều người, và tất yếu, nó cũng có thể gây tổn hại đến nhiều người – nếu làm không đúng.
Mô hình công việc được triển khai như thế nào?
Có 3 cấp độ: 1) Có môi trường kết nối để thông tin được trao đổi, cập nhật; 2) Có thông tin để có chia sẻ; 3) Có đủ các tiêu chuẩn chất lượng, độ chính xác của thông tin và kết nối để hỗ trợ các hoạt động thiết thực hơn cho cuộc sống hàng ngày.

Nhưng cũng vì sợ chi phối đến lối sống đó, nên những nhà quản lý vĩ mô đã rất e dè?

Người ta hay hỏi một cách ngây ngô rằng: bọn trẻ lên mạng coi phim sex, người lớn chơi cờ bạc – cá độ, bọn tội phạm lợi dụng... thì phải làm sao? Nhưng họ quên mất rằng: nước nào cũng vậy, vấn đề là phải ứng xử với nó như thế nào mà thôi. Về mặt quản lý, phải kết hợp với thế giới để cùng quản lý, phải làm sao để đáp ứng được mức độ quản lý bằng mức độ ứng xử văn hóa. Không thể vì những tiêu cực bé nhỏ mà quên đi những mặt tích cực rộng lớn.
Xin anh đơn cử thêm vài vướng mắc mà ta có thể đúc kết thành quy tắc?
Thiếu tầm nhìn ở cấp lãnh đạo vì họ không có những kiến thức và kinh nghiệm cụ thể trong khi đó các nhóm tư vấn cho họ thì không có đủ tầm nhìn hay chuyên môn để tư vấn đúng tầm cỡ vĩ mô này. Thiếu khả năng và kinh nghiệm ở cấp triển khai, có lẽ đây là trở ngại lớn nhất hiện nay.

Trong thành tích của mình, anh đã giúp thành lập 7 công ty tại Việt Nam, có 5 công ty khá thành công, nhất là ở lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin. Anh có thể cho biết tên những công ty này được không?

Xin thứ lỗi, tôi tuyệt đối không thể trả lời câu hỏi này trên báo chí, vì như vậy, có thể sẽ gây “bất bình” và tổn hại đến quyền lợi của các công ty ấy. Với lại, trong giới thì người ta đã biết rồi, nói lại cũng chẳng để làm gì, đã giúp đỡ thì không nên kể thành tích. Biết đâu sau này, khi tạp chí Mỹ Thuật tiếp xúc với các giám đốc, các doanh nhân nổi tiếng bên đó, chính họ nói sẽ thú vị hơn.
Ung thư di hạch và cơ hội sống = 5%Click the image to open in full size. Trở lại với cây đàn, anh nghĩ giữa âm nhạc và quản trị, chúng có nhiều sự tương đồng không?
Logic, tính học thuật và nghệ thuật của âm nhạc đã đem lại cho tôi rất nhiều ích lợi cho kỹ năng quản trị, quản lý của tôi. Trong những chương trình quản lý dài hơi, tôi hay chia ra thành những phân khúc như các chương của một concerto hay một bản symphony, có dẫn nhập, lắng đọng, cao trào, kết thúc... Có khi kết thúc là cao trào, và có khi là lắng đọng. Nhiều thuộc tính và motif trong âm nhạc rất giống với ngành quản trị. Nói vậy, nhưng đây cũng chỉ là những chuyện vui và kinh nghiệm của cá nhân thôi. Cũng đã đến lúc tôi muốn đánh đổi một lần nữa!
Tính ra thì anh cũng đã bỏ cây đàn trên 20 năm, nay anh định bỏ viễn thông, vậy anh đi đâu?
Sau cơn bạo bệnh từ tháng 08/2005, khi đối diện với cái chết một cách rõ ràng, tôi gần như bị buộc phải thay đổi quan điểm về cách sống. Có những chuyện trước đây là ưu tiên, bây giờ lại không. Trước đây, tôi sẵn sàng diễn đạt cho anh em hiểu trước khi làm, còn bây giờ, tôi sẵn sàng làm rồi mới giải thích cho anh em biết. Trước đây có những chuyện bực dọc, bây giờ cũng những chuyện đó lại thấy không cần thiết. Trước đây có những mối quan hệ phải giữ, còn bây giờ thì lại xem nhẹ như không. Nói chung, tôi đã có quá nhiều thay đổi.
Phải qua đến tận Mỹ, lại vào bệnh viện rất đặc biệt để thay máu, thay tủy sống, căn bệnh đó có thể nói tên ra được không anh?
Non-hodgkin Lymphoma, tiếng Việt gọi là ung thư dị hạch. Cơ hội sống cho các bệnh nhân khoảng 5-6%, phải thay tủy sống và cấy tủy mới. Nói chung là tốn rất nhiều tiền, nhiều công sức. Tôi chữa bệnh bằng tiền công ty + tiền bảo hiểm + tiền túi, may mắn là tôi chưa bị “cháy túi”.
Sau 3 năm, bệnh của anh đã đi vào quỹ đạo yên tâm chưa?
Mức yên tâm của căn bệnh này là 5 năm, mức yên tâm trung bình là 10 năm. Ống cấp cứu vẫn còn nằm trên ngực tôi thêm 1 năm nữa, và mỗi lần 2 tháng phải ra nước ngoài để theo dõi diễn biến... Nhưng dù thế nào đi nữa tôi vẫn thấy mình may mắn, vì những người có bệnh giống tôi, nằm chung bệnh viện đã “đi” hết rồi. Mỗi ngày bây giờ với tôi là một sinh nhật, và cũng là ngày cuối cùng. Nhiều khi tôi nghĩ, giá như ai cũng sống theo cách suy nghĩ này thì chắc là trần gian này đẹp biết bao, vì có quá ít thời gian cho những chuyện “linh tinh”, những hiềm khích, nghi kị, chiến tranh...
Để Qualcomm chọn anh làm Trưởng Đại diện cho họ, rồi giúp rất nhiều trong việc chữa bệnh cho anh, rõ ràng họ có lý do để làm những việc này. Anh có thể cho biết những lý do đó? Anh thấy sao khi anh quyết định nghỉ như thế này đối với công ty và cá nhân anh?
Sự lựa chọn của một công ty về một cá nhân làm việc cho họ cũng tương đương với sự lựa chọn của cá nhân đối với công ty này. Tôi rất vui vì được Qualcomm thấy được khả năng và thái độ sống của mình, cũng như tôi thấy được ở Qualcomm những giá trị tất yếu để mình có thể phần nào làm được những điều mong muốn trong khi ở Việt Nam. Tôi tin là họ đã hài lòng với những đóng góp của tôi đối với các mục đích chính của công ty tại Việt Nam. May mắn hơn nữa là quan điểm chuyên nghiệp của công ty và quan hệ giữa các nhân sự trong công ty của Qualcomm và cá nhân tôi rất rõ ràng, tốt đẹp.

Với những phát triển nhanh chóng của công nghệ 3G tại Việt Nam và nhu cầu hỗ trợ phát triển cho ngành này từ phía Qualcomm, so với sức khỏe, quỹ thời gian còn lại và sự mong ước của tôi, tôi chỉ có thể đóng góp rất ít cho công ty, cũng như công ty cũng chỉ có thể giúp tôi rất ít cho mong ước của mình. Từ đó, việc nghỉ làm cho công ty là một điều hợp tình và hợp lý cho cả hai phía. Tôi biết là cả Qualcomm lẫn cá nhân tôi sẽ vẫn còn tiếp tục có những quan hệ khá mật thiết trong các lĩnh vực chuyên môn trong nhiều năm tới.
Sau hư vô, là thực dụng – theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này, rốt cuộc, anh nghĩ đời người là gì?
Chỉ là một móc xích của hàng triệu, hàng tỷ móc xích khác. Có móc xích to, có móc xích nhỏ, có những móc xích đơn lẻ, có những móc xích phức tạp. Cuộc đời đã qua của tôi là một móc xích khá phức tạp. Móc xích đó đã hình thành rồi, không thay đổi được nữa và tôi chỉ muốn nó hiệu quả hơn cho những móc xích khác mà thôi. Bây giờ, tôi sợ nhất cảnh ngồi máy bay, luân chuyển múi giờ, sợ phải di chuyển từ máy bay về hotel và ngược lại, quá cô đơn và bận rộn một cách vô ích. Bây giờ, tôi vẫn khổ vì cùng lúc phải sử dụng 3, 4 máy di động, không số này reo, thì số khác gọi, khó có một giờ yên ổn. Chính vì thế, tôi lại muốn thay đổi, để kiếm tìm thêm những ngày giờ yên ổn và ý nghĩa hơn.
Huyền Thoại Một Nhà Thơ ,
Tác Giả: Trần Việt Trình
Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim ...
tím chiều hoang biền biệt ...

Một ngày sau năm 1975, sau khi hai miền Nam Bắc “được” giao thông, một ông già tóc râm đang thả bộ trên đường phố Sài Gòn bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ một người đàn ông cụt chân với cái đàn guitar cũ kỹ hát xin tiền
Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
khi còn tóc buối vai
Mấy lúc xong pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về
rồi một chiều mây bay
Từ nơi chiến trường đông bắc đó lần ghé về thăm xóm
hoàng hôn tắt sau đồi
Lời ca nghe sao quen quá! Ông lão mới mon men đến hỏi. Thì ra là bài “Những Đồi Hoa Sim” và đó lần đầu tiên ông được nghe. Ông yêu cầu người hành khất hát lại một lần nữa. Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc” rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ …
Ông lão già tóc râm đó là Hữu Loan.
Nhắc đến nhà thơ Hữu Loan là chúng ta nhắc đến bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã làm say lòng không biết bao nhiêu thế hệ yêu thơ. Bài thơ chân thực và xúc động ấy có một sức sống kỳ lạ. Bài thơ kể lại mối tình của chính nhà thơ với người phụ nữ đầu tiên trong đời đầy bi kịch. Bài thơ được làm để khóc người vợ mà nhà thơ hằng yêu quý vừa bị chết thảm.
Nỗi đau vợ chết thảm ông phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Ông như một cái xác không hồn. Càng đè nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. Một buổi trưa năm 1949, trong thời kỳ theo kháng chiến, lúc đang đóng quân ở Nghệ An, cơn đau trong lòng ông được bung ra, ông ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt ông đẫm ướt, ông lấy bút ra ghi chép. Không cần phải suy nghĩ nhiều, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Tự chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại !
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ bé bỏng chiều quê
*
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Mẹ tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh…
Viết bài thơ vào cái quạt giấy để lại cho người bạn, người bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” ra đời như vậy đó. Người vợ hiền của nhà thơ mất đi, đứa con tinh thần này của nhà thơ ra đời.
Tuy không ấn hành, nhưng bài thơ đã được truyền miệng rộng rãi và sau đó được Nguyễn Bính đăng trên tờ “Trăm Hoa”. Rồi bi kịch chiến tranh trong bài thơ đã góp phần trở thành bi kịch của đời nhà thơ.
“Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về”. Đó là lời ông tự thuật. Năm 1988, khi có sự “Đổi mới”, ông đã viết bài “Lời Tự Thuật” gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được đăng. 19 năm sau, nhà thơ lúc ấy đã 91 tuổi, đồng ý để Talawas công bố bài trên.
“Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!”. Đó cũng là tâm tình của ông trong “Lời Tự Thuật”.
Những năm 1955-1956, phong trào văn nghệ sĩ miền Bắc bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, ca ngợi này kia để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó thì ông lại đề cao tình yêu, khóc vợ, bị cho là tình cảm tiểu tư sản, phản động. Bất mãn, Hữu Loan bỏ đảng, bỏ cơ quan, bỏ về quê để trút bỏ mọi phiền muộn, làm công việc của một người thồ đá, nặng nề về thể xác nhưng thanh thản cho đầu óc.
Về quê cũng không yên, “bọn họ” (từ ông dùng) tịch thâu xe của ông, ông phải đi xe cút kít, loại xe bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước và 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, nên ông phải gánh bộ. Gánh bằng vai, ông cũng cứ gánh, không chịu khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản. Đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại ông. Nhưng lúc nào cũng có người cứu ông. Thơ của ông đã có lần cứu sống ông. Có một tên công an mật được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát ông, nhưng tên ấy đã tìm gặp và nói với ông rằng, hắn sinh ở Yên Mô, rất thích bài thơ Yên Mô của ông viết về tỉnh Yên Bình quê hắn. Hắn thường đem bài thơ Yên Mô của ông ra đọc cho đỡ nhớ, và mỗi lần định giết ông, hắn lại nhớ đến quê mình nên lại thôi, không nỡ giết ông, từ bỏ ý định ám sát.
Lúc còn là chính trị viên của tiểu đoàn, chứng kiến tận mắt những chuyện đấu tố, ông đâm ra chán nản, không còn hăng hái kháng chiến nữa. Kháng chiến khiến chán. Ông thú thật, lúc đó ông thất vọng vô cùng.
Ông thuật lại chuyện một trường hợp một địa chủ bị đấu tố có liên quan trực tiếp đến đời ông như sau:
Lúc ấy, trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, gần nơi ông ở, có một gia đình địa chủ rất giàu. Ông địa chủ đó rất giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông địa chủ thấy bộ đội sư đoàn 304 của Hữu Loan thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Lúc đó Hữu Loan là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải đại diện cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Hữu Loan được tin gia đình ông địa chủ bị đấu tố. Hai vợ chồng ông địa chủ bị đem ra đình làng cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để lòi ra hai cái đầu, xong họ cho trâu kéo bừa qua bừa lại hai cái đầu, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, họ còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, dân chúng còn bị cấm đoán cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ, biết cô bé lúc còn nhỏ, Hữu Loan trở về xã để xem tình trạng cô con gái của họ sinh sống ra sao. Ông về bắt gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc, đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, ông đến gần hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc nức nở và cho biết ai cũng xua đuổi, không dám gần gũi cô. Cô cho hay hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong miếu hoang. Hữu Loan mủi lòng, bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Đó là bà Phạm Thị Nhu, sống cùng ông từ đó cho đến ngày ông qua đời, có với nhau 10 người con: 6 trai, 4 gái và hơn 30 cháu nội ngoại.
Cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Trong mấy chục năm dài, ông về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, vậy mà “bọn họ” vẫn trù dập, không chịu để ông yên. Ông chỉ còn biết đổ đau thương lên đá. Ông tưới rượu lên mặt đá và thề sẽ bám đá mà sống. Ngày ngày, ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các nơi làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Thời gian trôi qua, Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen đúa, chân tay chai sần, rắn rỏi, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ hơn xưa. Cặm cụi vật lộn với núi đá, ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Hơn mười năm sau cùng, tuổi đã lớn, Hữu Loan thôi không còn sức để bám núi đá nữa. Ông lui về nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi nhâm nhi rượu và ngóng đợi con cháu về thăm, ngóng đợi những chuyển động đổi thay phận mình, đổi thay cho gia đình, cho làng xóm, cho nước nhà.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty ViTek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim” của ông với gía 100 triệu đồng VN. Đây là một sự kiện được coi chưa từng xảy ra. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến như vậy. Vì sao một doanh nghiệp thương mãi lại đi mua bản quyền một bài thơ? Có nguồn tin cho rằng đây là một sự sắp xếp, mua chuộc, để đền bù những mất mát thiệt thòi trong mấy chục năm của ông. 100 triệu đồng đủ để ông trang trải cuộc sống, bớt đi những khó khăn về vật chất trong những năm cuối đời, và mong ông “tái xuất giang hồ”. 100 triệu đồng trừ thuế còn 90 triệu, ông chia cho 10 người con hết 60 triệu, trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan và ông giữ lại 30 triệu phòng đau ốm lúc tuổi gìa. Sau đó cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng ông từ chối “Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Đó là con người và bản tính bất khuất của một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam.
Màu Tím Hoa Sim là màu tang thương của một tình yêu định mệnh, một tình vợ chồng ngắn ngủi. Màu Tím Hoa Sim còn là một nỗi ám ảnh khôn nguôi của cả dân tộc về chiến tranh, về những bi kịch trong chiến tranh. Điều đó giải thích vì sao bài “Màu Tím Hoa Sim” ngay từ khi đất nước còn bị chia cắt đã được độc giả cả hai miền Bắc-Nam cùng yêu thích.
Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi hoa sim” của Dzũng Chinh, “Áo anh sứt chỉ đường tà” của Phạm Duy và “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng. Mỗi ca khúc một vẻ, tất cả đều đều tôn vinh thi phẩm.
Hữu Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Đó là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Thơ của ông có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi vào ngày 18 tháng 3 năm 2010, cách đây đúng 2 năm, nhưng bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” và khí phách của ông còn ở lại mãi mãi với chúng ta và sẽ còn tím mãi màu hoa sim trên dương thế. Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, Hữu Loan đã nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.
18 tháng 3 năm 2012
__._,_.___
Trùng tang là gì
Hiểu theo nghĩa rộng thì trùng tang là trong thời gian còn để tang người thân (3 năm) mà có thêm tang mới nữa.
Cách tính trùng tang sau đây chỉ kể đến việc khi người quá cố qua đời xem có phạm trùng tang hay không. Có nghĩa là sau đó có người thân nào nữa chết hay không để biết cách khắc phục xử lý ngay từ ban đầu.
Để cắt được trùng tang thì phải mời vị pháp sư cao tay đến làm lễ Giải oan Đoạn Kết và trấn trùng. Mỗi địa phương có một cách cắt trùng tang khác nhau nhưng phương pháp của các pháp sư vùng đồng bằng bắc bộ là đầy đủ và phức tạp nhất. Tùy vào hoành cảnh của từng nhà và tính chất của Thần trùng mà người ta làm lễ cắt dài hay ngắn, chia của nhiều hay ít.
Phần chính của lễ cắt giải trùng tang là khoa cắt kết. Khoa cắt kết gọi là Lục giải kết Ba La mật gồm 6 bạ.
Đối với Mật tông thì Người ta dùng cát Mạn đà La để rải lên mộ
Đối với Môn Lỗ ban thì dùng vải đỏ vẽ bùa và dấm phủ lên mộ.

Trong diễn đàn này, tôi đã giới thiệu bộ bùa trừ trùng, bộ bùa trị quan.
Cách tính trùng tang thì đã đăng ở nhiều diễn đàn, nay chỉ đăng lại.
Phàm là nam hay nữ, lớn nhỏ gì đều như nhau.
nếu năm tháng, ngày giờ phạm các cung:
- Dần _Thân _ Tỵ _ Hợi thì phạm trùng tang: Nhất định có người chết theo.
- Tý _ Ngọ _Mão _Dậu thì phạm Thiên di: con cháu ly tán.
_Thìn_Tuất_Sửu_Mùi thì được Nhập Mộ: đại cát.
Còn nếu người chết trong 4 cung chết đều phạm vào năm tháng ngày giờ là: dần thân tỵ hợi thì không cần tính nữa.
Tính liên tục hết hàng chẵn chục cho đến hàng lẻ tuổi, ví như 53 tuổi thì tính 10 - 20 - 30 - 40 - 50 - 51- 52 - 53.
sau đó tính đến tháng chết, bắt đầu từ tháng giêng cho đến tháng chết.
Tương tự ngày và giờ cũng tính thế.
Đối với nam thì bắt đầu tính từ cung Dần đếm xuôi: Đối với Nữ thì tính từ Thân đếm ngược: Thân
Ví như người đàn ông chết 51 tuổi, tháng 3, ngày 13, giờ dần.
cách tính như sau
· bắt đầu tính trùng tang năm: 53 tuổi
10 tuổi (dần) - 20 (mão) - 30 (thìn) - 40 (tỵ) - 50- (ngọ) Khi đếm hết hàng chẵn chục thì ta đếm tiếp vào hàng tuổi lẻ của hàng chục cuối cùng - 51 (mùi) - 52 (thân) - 53 (dậu). Người này chết pham cung dậu: Thiên di.

Kế đến tính trùng tang tháng: tính từ tháng giêng vào cung ngay sau cung tính năm chết, như thế tháng giêng (tuất) - tháng hai (hợi)- tháng 3(tý). Tháng chết phạm cung Tý: Thiên di.
Kế đến tính cung ngày từ mùng 1 kế vào cung tính tháng: mống 1, 13 (cung sửu): nhập mộ.
Kế đến tính cung giờ chết vào sau cung tính ngày, bắt đầu tính từ giờ Tý.
Giờ tý (cung dần) giờ sửu (cung mão) giờ dần (cung thìn). Giờ chết được cung Nhập mộ.
đã đi xa vào năm T. Mão, tháng 5 (G. Ngọ), ngày 3( C. Dần), lúc 14g 20 (Quý Mùi) ( ngày 4/6/2011) hưởng thọ 84 tuổi.
Bá sinh đôi với mẹ tôi vào năm Mậu Thìn 1928, thọ 84 tuổi. Một cuộc đời gian khó bá đã traỉ qua, thương bá , thương mẹ vô cùng, theo cách tính của cổ nhân, sự chết của Bá được: Năm thiên di, tháng nhập mộ, ngày nhập mộ, giờ trùng tang.
Theo lẽ đời Tử Vi con cái sẽ li tán, được hai nhập mộ cũng tốt lắm. Rồi ngẫm mọi sự thế nào?
Mẹ tôi đi xa vào năm 2006(B. Tuất), tháng 2(T. Mão), ngày 7(G.Ngọ), 18g 50(Q. Dậu) hưởng thọ 79 tuổi, tính thì: nămTrùng tang, tháng Thiên di, ngày Trùng tang, giờ nhập Mộ.
Đến nay thấy em trai (cậu Tụ) mất năm2008, chị(bá Xưa) mất năm T. Mão.
Mọi sự sẽ tiếp theo dõi để sáng việc người xưa dạy!