Bóng
hồng trên đất Bắc . mythanh
Nguồn : http://motgoctroi.com/StVChuon/BonghongtrenDatBac.htm
Bài
thứ hai của chủ đề Tôi Yêu Những Anh Hùng, tôi dự
định sẽ viết về Trưng Nữ Vương, viết về niềm hào
hãnh và sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch
sử giữ nước chống ngoại xâm. Nhưng một tình cờ đúng
ý đã xoay đổi dự định của tôi. Tôi đọc được một
loạt bài viết với rất nhiều dữ kiện khả tín, quý
báu về một nữ sĩ. Bà đã từng trong nhiều năm, vẫn
thầm lặng mơ hồ sống cùng những nghi vấn cộng với
niềm ngưỡng mộ ở một góc sâu kín trong tâm tưởng
tôi. Tôi hoàn toàn không biết nhiều và cũng không biết
tìm đâu ra những tin tức về bà, ngoài bút danh Thuỵ An,
bị bắt trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm với một kỳ
thuyết. Nó chính là nguyên nhân gây ấn tượng khiến tôi
không thể quên được nhân vật “nữ sĩ Thuỵ An.” Bà
đã tự chọc mù một mắt trong thời gian bị Cộng Sản
cầm tù với lời tuyên bố, “Chế độ này chỉ đáng
nhìn bằng một con mắt.” Ôi, đúng là câu nói để đời,
uy vũ có một không hai.
Tôi chọn viết về bà thay
vì Trưng Nữ Vương, ngoài lý do hai vị Trưng Vương là
những anh thư đã làm nên lịch sử sáng chói, được
toàn dân Việt kính ngưỡng, trong khi nữ sĩ Thuỵ An, vị
anh thư bất hạnh, thân bại danh liệt, đã bị vùi giập,
bị bôi bẩn thành một tội phạm suốt mấy mươi năm
dưới chế độ cộng sản, ít người biết đến; còn
một lý do chính là vì, đối với tôi chế độ cộng sản
mà bà chống lại là một bọn giặc nội xâm, trên thực
tế vẫn đang cỡi đầu cỡi cổ dân tộc Việt. Tôi hy
vọng mọi người đều nhận ra sự thật này. Bài viết
cũng xin là một nén hương, thắp tỏ lòng thương tiếc
nữ sĩ Thụy An, người nữ tù kiên cường, bất khuất,
người đã hy sinh hạnh phúc riêng mình trong mưu cầu đòi
hỏi tự do cho dân tộc.Cuộc
Đời
Thụy
An, còn bút hiệu khác nữa là Thụy An Hoàng Dân, tên khai
sinh là Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội. Thuở nhỏ
bà học trường Hàng Cót, Hà Nội, có thơ đăng trên tạp
chí Nam Phong từ năm 13 tuổi. Năm 16 tuổi bà đoạt giải
thưởng văn chương của triều đình Huế. Năm 1934, 18
tuổi, bà kết hôn với nhà báo Bùi Nhung – làm báo, viết
văn bút hiệu Băng Dương – (em
ruột Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim),
hai lần làm Giám đốc đài phát thanh Hà Nội, lần cuối
ở Hải Phòng năm 1954.
Ngay khi lập gia đình, Thụy
An cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới tại Sài gòn,
và ba năm sau, 1937, sáng lập tuần báo Đàn Bà tai Hà Nội.
Năm 1939, bà chủ nhiệm cho Phụ Nữ Tân Văn tại Sài gòn.
Trong chiến tranh Việt - Pháp, bà trở thành phóng viên
chiến trường, từng nhảy dù ra mặt trận để lấy tin
tức cho báo chí. Năm 1954, trước khi chia đôi đất nước
bà đã đứng chức vị Quyền Giám đốc Việt Tấn Xã.
Trang bià báo
Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Muà Xuân
Nguồn Ảnh: DR
--------------------------------------------------------------------------------
Nhân
Văn Giai Phẩm (nguồn
của bài viết này) chính
là do hai người con này, và người bạn thân của bà là
Trinh Tiên cung cấp.
Thụy An sống ly thân với chồng
từ năm 1949, nhưng không ly dị vì hai người đều theo
đạo Thiên chúa giáo. Bà có quan hệ mật thiết với Đỗ
Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc
Dân Đảng, nhưng hai người chưa từng kết hôn. Họ đã
chia tay từ năm 1952, nhưng khi ông Đỗ Đình Đạo bị đầu
độc chết vào năm 1954, bà bị dư luận đồn thổi là
giết chồng. Sau này Cộng sản đã dùng những lời đồn
này để thổi phồng, vu cáo, bôi xấu bà.
Xin trích
nguyên văn câu trả lời phỏng vấn của các con bà hầu
sáng tỏ gia cảnh của nữ sĩ Thụy An thời đó.
Bùi
Thụy Băng cho biết về hoàn cảnh gia đình và tình trạng
sức khỏe của người mẹ:
Là
đứa con trai thứ nhì, tôi là người gần mẹ tôi nhất
vì từ năm 1943 trở đi mẹ tôi bệnh tật luôn luôn. Mới
6 tuổi tôi đã trông nom mẹ tôi. Anh cả tôi là Bùi An
Dương bị bệnh hen suyễn từ khi mới sinh ra nên rất yếu
đuối và mẹ tôi đã cho anh An Dương khi chưa đầy một
tuổi, làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim (cụ
Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim là anh, chị ruột của ba
chúng tôi)”.
(Điện
thư ngày 15/12/2004)
Thụy
An và Băng Dương ly thân từ năm 1949. Tại sao?
‒ Vì
cha tôi không trung thành, ông có nhiều bà khác. (Bùi
Thư Linh, điện thoại, 17/10/2009)
Sau khi
ly thân, ai nuôi các con?
‒ Mẹ
nuôi các con, nhờ bà ngoại giúp đỡ, bác (gái)
Trần
Trọng Kim cho vay tiền, nhưng mẹ vất vả lắm. (Bùi
Thư Linh, nt)
Khi
nào thì gia đình vào Nam?
‒ Năm
1952, đi bằng tàu thủy. Mẹ thường đi về Sàigòn-Hà
Nội bằng máy bay, nhưng vé máy bay cho cả nhà đắt lắm,
Mẹ mua vé tàu thủy cho các con, nhờ người cậu dẫn vào
Sài-gòn. (Bùi
Thư Linh, nt)
Đến
năm 1954, Bùi Thư Linh (16
tuổi) đi
Pháp, tại sao?
‒ Tôi
bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày
20/5/1954.
Nhưng
gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
‒ Đi
theo diện Pupille de la Nation (Nghiã
tử Quốc gia),
chính phủ Pháp lo hết. (Bùi
Thư Linh, nt)
Tại
sao Thụy An đem gia đình vào Saigon năm 1952?
Bùi
Thụy Băng:
Vì ông Đỗ Đình Đạo. (Có
thể hiểu là năm 1952 Thụy An đã chia tay với Đỗ Đình
Đạo, và muốn tránh, bà đem các con vào sống tại Sài
Gòn).
Ông Bùi
Thụy Băng, con trai bà còn cho biết, Thụy An và cụ Phan
Khôi là hai người bạn vong niên (Thụy
An kém Phan Khôi 29 tuổi).
Bút hiệu Thụy An Hoàng Dân, và bút hiệu Chương Dân của
cụ Phan Khôi là do hai người cùng tưởng niệm một người
anh hùng tên Chương Hoàng Dân (hay
Hoàng Chương Dân.)
Thụy
An bị kết án nặng nhất trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm.
Cùng với Nguyễn Hữu Đang bà bị tuyên án 15 năm tù với
tôi danh “gián
điệp quốc tế.”
Cộng sản còn dành cho bà những lời thóa mạ cay độc
nhất, “Con
phù thủy xảo quyệt”
hoặc: “Như
vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu
lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ
ta bần cùng hoá nhân dân”
(Bàng Sĩ
Nguyên, Bọn NVGP Trước Tòa Án Dư Luận, trang 120).
Tại
sao Thụy An, một phụ nữ yếu đuối, không hề viết bài
cho NVGP lại bị chúng thù ghét và xử nặng nhất như
vậy? Xin nhân đây, lược qua bối cảnh và một số nhân
vật liên quan chung quanh NVGP.
Nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm
Tháng
1/1956, khởi đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm,
Lê Đạt chủ trương gồm những bài chính của Văn Cao,
Lê Đạt, Trần Dần. Bài Nhất Định Thắng nổi tiếng
qua những câu “Tôi
bước đi /Không thấy phố, thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ” đã
gây cho tác giả của nó bị bắt và suýt tự tử bằng
dao cạo cứa vào cổ.
Tháng 2/1956, Giải Phẩm Mùa
Xuân bị tịch thu. Trần Dần, Tử Phác
(1) bị
bắt, Lê Đạt bị kiểm thảo.
Ngay sát thời gian
này, bên Nga, Krouchtchev tường trình tội ác của Staline,
chủ trương “Sống chung hoà bình.” Tại Trung Quốc, Mao
phát động phong trào Trăm Hoa Đua Nở. Hồ Chí Minh và
Đảng Lao Động theo gót đàn anh nới rộng tự do.
Tháng
8/1956, Nguyễn Hữu Đang trong một bài tham luận tại Hội
Văn Nghệ gay gắt chỉ trích đường lối chỉ đạo tư
tưởng văn nghệ sĩ của Đảng. Giai Phẩm Mùa Thu phát
hành với bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan
Khôi.
Tháng 9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời với bài
phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở
rộng tự do và dân chủ. Sau đó, Nhân Văn tiếp tục ra
được 5 số với những bài viết nảy lửa có, bóng gió
có, chỉ trích các chính sách của Đảng của các cây
viết nổi tiếng Phan Khôi, Lê Đạt, Văn Cao, Phùng Cung,
Phùng Quán, Trần Duy, Hoàng Cầm, etc…
Tháng 12/1956,
Giai Phẩm Mùa Đông xuất bản với bài Tự do tư tưởng
của văn nghệ sĩ và và sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và
hình thức tự do của Trần Đức Thảo,...
Ngày
09/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do
báo chí.
Ngày 15/12/56: Nhân văn số 6 đang in, bị
đình chỉ.
Nhân
Văn và Giai Phẩm liên quan với nhau như thế nào?
Nhân
Văn và Giai Phẩm do hai nhóm bạn hợp tác điều hành:
Nguyễn
Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo
ba người bạn thân, trong kháng chiến, đã từng chủ
trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị
thời tiền chiến. Và Lê Đạt, Hoàng Cầm, là hai người
bạn thân đã làm tờ Giai Phẩm mùa xuân. Nhân Văn do
Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, trách nhiệm bài vở. Giai phẩm
do Trương Tửu trông nom. Giai phẩm xuất hiện trước
nhưng Nhân Văn vẫn được coi là “đầu não” của
phong trào. Phần lớn những người viết cho Nhân Văn đều
có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại. (RFI,
Nhân Văn Giai Phẩm phần V: Nội bộ báo Nhân Văn)
Không
phải tất cả các nhà văn viêt bài cho Nhân Văn Giai Phẩm
đều chống đối chính sách của Đảng thời bấy giờ.
Theo nhận định của tác giả Thụy Khê trong loạt bài
Nhân Văn và Giai Phâm, có ba dòng tư tưởng trong các bài
viết:
-
Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng:
Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng
(Mùa xuân
đến rồi đây của Hoàng Cầm),
thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ
qua đài phát thanh, Hoàng Cầm).
Thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa
đào vẫn nở, Nguyễn Sáng).
Thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi
ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt).
Thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi
sĩ và công nhân, Phùng Quán).
Văn tả cảnh đói khổ của người dân lao động, sự
bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng,
từ nay, trời sẽ “trong sáng vĩnh viễn” (Sổ
tay, Sỹ Ngọc).-
Khuynh hướng vừa chống vừa theo:
Trần Dần (Nhất
định thắng).
-
Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác:
Văn Cao (Anh
có nghe thấy không) và
Lê Đạt (Làm
thơ và Mới).
Tóm
lại, sau khi được sự cổ vũ của rất nhiều tầng lớp
sinh viên, trí thức và cả các đảng viên quân đội, có
nguy cơ đe dọa đến sự độc tôn độc quyền của nhà
cầm quyền, những nhà văn có tư tưởng đòi tách rời
văn nghệ ra khỏi sự chỉ đạo của Đảng, không cần
phải là có bài viết chống đối (như
Hoàng Cầm) đều
bị “đánh”.
Qua những lời tự khai của các
thành viên NVGP thời bấy giờ và những lời thuật lại
của một vài nhân vật sau này tại Pháp thì hầu hết
các văn nghệ sĩ chỉ muốn đòi hỏi tự do sáng tác,
nhưng Nguyễn Hữu Đang chính là người đầu não khai sinh
tờ báo và là “phần tử nguy hiểm” chủ trương dùng
tờ báo để tranh đấu cho quyền lợi chính trị, cho một
xã hội dân chủ. Lê Đạt và Trần Đức Thảo cũng cùng
lý tưởng và Phan Khôi là vị thủ lĩnh tinh thần phía
sau. Do vậy Nguyễn Hữu Đang bị xử 15 năm không có gì
đáng ngạc nhiên, nhưng còn Thụy An?
Với quá trình
hoạt động, tư tưởng và tài năng của bà, nhà cầm
quyền CS tin chắc bà là người phải chống lại chúng,
và có đầy đủ gan dạ, khả năng, kinh nghiệm để làm
chuyện đó. Và trong một chế độ “Thà bắt lầm 10
người còn hơn thả sót 1 người”, là nền luật pháp
của chúng, thì không cần phải có chứng cớ phạm tội.
Chỉ cần có khả năng phạm tội ắt chúng sẽ nặn ra
chứng cớ buộc tội.
Thuỵ
An
Nguồn Ảnh: DR
--------------------------------------------------------
Âm
mưu của Đang sau này là biến thành nhà xuất bản Minh
Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập
họp nhóm Nhân văn quanh nhà Minh Đức. Cũng giai đoạn này
nổi bật vai trò Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như một
câu lạc bộ.
Về Hà nội tôi rất ghê tởm Thụy
An. Nhưng sau khi bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự
tử” Thụy An tìm gặp tôi rất niềm nở và mời đến
nhà bảo có nhiều sách mới.
Một thời gian dài tôi
không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”, tôi
bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới đó.
(...)
Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải,
may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi
cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc
với cả gia đình tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi
nói chuyện về tư sản, tiểu thương bất mãn, chuẩn bị
đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể chuyện
Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu
thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lãnh đạo
của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài năng.
Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy mình
tài giỏi thêm, oán Đảng thêm và chán nản thêm.” (Lời
tự thú của Lê Đạt, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, Số
đặc biệt thứ hai chống Nhân Văn Giai Phẩm)
“Còn
học Pháp và Anh văn thì tôi học với con mụ Thụy An, và
do đó tôi bắt đầu thân với mụ từ đấy. Khi được
tin tôi đã ra bộ đội thì hắn tỏ vẻ rất săn sóc đến
việc học của tôi. Tháng đầu tôi còn bận viết thì
mỗi lần gặp tôi hắn đều thúc dục sao không đi học
đi, tôi sẽ dậy cho Quán một tuần bốn tiếng đồng hồ.
Tháng thứ hai tôi đến học với hắn, cùng với một
người bạn của tôi là sinh viên. Trước khi đến học,
tôi có biết Thụy An trước đây đã giết chồng, làm
phóng viên chiến tranh cho Pháp, đã đi máy bay lên Điện
biên phủ. Nhưng đến lúc này thì bản chất cách mạng
của tôi đã không còn gì nữa, nên tôi thấy những việc
làm của mụ ta là việc thường. Đến học với hắn,
tôi tỏ ý phục, và mỗi ngày một cảm tình hơn. Tôi gọi
hắn là chị với tất cả nghĩa của nó.”
( Lời tự thú của
Phùng Quán, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958)
Trong
phiên tòa 19/1/1960 tại Hà Nội bà bị xử 15 năm tù và 5
năm quản chế với lời buộc tội chính thức, “Con
gián điệp nguy hiểm”, “Cùng với Nguyễn Hữu Đang,
Thụy An trở thành bộ phận đầu não của bọn gián điệp
phản cách mạng.”
Và nửa thế kỷ sau, ngừoi
ta có thể nghe tiếng nói thật, tiếng nói trong một thế
giới tự do của nhà văn Lê Đạt về bà trên RFI 2004:
“Chị
Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả, đó
là dứt khoát. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em
trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với
tôi.”
“Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không
phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp
thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai?
Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ
tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa
trả lời tôi được.”
“Tôi vẫn khao khát và
thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị
Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, đối
với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. (...) Riêng tôi
không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với
tôi cả.”
Về
việc bà chọc mù mắt, xin trích nguyên văn lời tường
trình của nhà văn Thụy Khê trong loạt bài NVGP về Thụy
An:
Chúng tôi hỏi nhà thơ Lê Đạt, người rất
thân với bà trong suốt hành trình Nhân Văn Giai Phẩm: có
phải trong Hỏa Lò chị Thụy An tự chọc mù mắt ? Lê
Đạt lặng lẽ gật đầu, không thêm một lời nào
cả.
Bùi Thụy Băng cho biết: “Trong
số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần
Minh, ở Bên Úc, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư
trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt
Báo) xuân
Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà
chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa
được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi
phải ra hỏi cung, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng,
người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ
không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, bà cụ tôi
lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng:
“Chọc
mù mắt để không phải nhìn thấy cái chế độ này
nữa.” Sau
này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc
được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này
trên sách báo.” (Điện
thoại, 16/12/2004).
Câu
hỏi tại sao Thụy An đã đưa cả gia đình vào Nam, gửi
các con cho mẹ, bà lại ra Bắc và ở lại với chế độ
CS làm gì đựoc Bùi Thụy Băng giải đáp: “
Bà
cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích. Về quê mình để thu
thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại
tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống
lại chính quyền ở Hoà Xá. (Điện
thoại, 16/12/2004).
Như
thế, xét qua những lời của các nhân chứng, bạn hữu,
thân nhân, và cả kẻ thù của bà, thì chúng đã giam cầm
bà là có lý của chúng. Bà đã mưu đồ chúng lại chúng.
Nhưng lời kết tội “làm gián điệp” là sai. Bà chống
lại chúng không theo lệnh, không lãnh lương của một thế
lực nào cả. Bà chống lại chúng xuất phát từ lý
tưởng, từ lòng yêu nước và mong muốn một xã hội tốt
đẹp.
Những bài thơ, những tác phẩm của bà còn
để lại là chứng tích quét sạch những tội ác nhơ bẩn
bọn CS đã gán ghép cho bà.Tác
phẩm
Thụy
An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc
Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm
Một
linh hồn
(xuất bản
1943).
Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ
Ngọc Phan nhận định: “Là
một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa
hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn”
và
ông kết luận “Một
linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc
nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả
đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách
vững vàng, chắc chắn.”
Tiếp
theo là những tác phẩm như: Bốn
mớ tóc, Vợ chồng …
Những truyện ngắn như Chiếc cầu chân chó (nguyên
tác tiếng Pháp do Hội Văn Bút Quốc Tế xuất bản
1954/hoặc 55),
Giết
chó
(kể lại
hiện tượng CS bắt dân chúng giết hết chó để vào
làng không bị phát giác, đồng thời kết án tội ác thủ
tiêu đàn chó vô tội)
Một
số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai
Phẩm, đã công bố trên talawas, gồm những bài: “Nhân
xem phim ‘Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện
thực’,
tiểu luận phê bình điện ảnh” (Văn
Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện
bố, mẹ, bé và con búp bê,
truyện ngắn (Trăm
Hoa, 25/11/56), Chiếc
lược, thơ (Trăm
Hoa, 2/12/56). Trường
hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...
Đặc
biệt, cuối năm 1988, 6 tháng trước khi chết, Thụy An đã
viết một bài “Thụy
An, mẹ chúng tôi”
mượn giọng của các con tự thuật về mình trong thời
gian ở tù, phản ánh được nỗi thương nhớ các con và
lòng yêu nước rất cao sâu như sau:
“…Khởi
sự bị giam cầm, Mẹ chúng tôi trong một thời gian ngắn
có bị khủng hoảng tinh thần trước tai biến bất ngờ
quá ư to lớn đối với một người đàn bà. Song Mẹ
chúng tôi đã kịp thời trấn tĩnh lại, nhận tai biến
như một cái Nghiệp (...) Mẹ chúng tôi coi tai biến như
một cái giá phải trả cho cho sự may mắn được làm
người, mà lại làm người Việt Nam có một thứ ngôn
ngữ “đẹp nhất trần đời", dễ học nhất thế
giới, có sức diễn đạt truyền cảm, thẩm thấu suốt
tâm hồn dân tộc đến nỗi một người mẹ không biết
một chữ A cũng biết hát những lời thơ hay nhất…”
Các
văn phẩm của Thụy An còn rất nhiều, phần thất lạc,
phần chưa in, vì giới hạn bài viết không đề cập hết
(các bạn
quan tâm có thể tìm hiểu rõ hơn từ nguồn RFI và
talawas)
Nhưng
chính những lời thơ của bà bộc bạch rõ nét nhất tính
cách một người quyết liệt, thiết tha yêu người, và
hòa mình với vận mệnh đất nước. Cũng lý do giới hạn
của bài viết nên chỉ xin trích một số đoạn nhỏ
trong số rất nhiều bài thơ “loáng
lửa”
của bà.
Rồi
anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán
hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng
cơm nghẹn họng nhân sinh...(Trích:
Sao lại mùa thu).
“Năm
đi cho tháng theo lần,
Mà trong êm đã ngấm ngầm phong
ba.
Gió cuốn lật úp sơn hà,
Màn che trướng rủ
bỗng ra dãi dàu,
- Tình nhà, tình nước bời bời
Mẹ
năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha.
Đã đành nghiã
nặng mẹ cha
Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa
nghiêng?
Chịu sinh làm gái vô quyên,
Nỡ mang cái
tiếng yếu mềm, bó tay?”(Trích
trường thi “Tôi về quên mất cả xuân sang”, 1951)
Và
những câu thơ về nàng Tô Thị, đồng tâm sự của bà
“Tôi
cũng vậy, tôi còn cha mẹ già, đàn con nhỏ trên vai, tôi
không được chết, phải cố mà sống, đợi cái ngày Tô
Thị:”
Mặc
gió rụng tóc xanh từng sợi
Tung ra xa bay với mây
trời
Mặc cho nắng dãi mưa phơi
Mặc cho muối đã
mặn mòi lòng sương
Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi
Vẫn
đăm đăm một đợi, một chờ
Mẹ con hoá đá trơ
trơ
Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.
Đó
là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của
tôi suốt 15 năm cho đến mãi mãi…(Thụy
An, thơ gởi Trần Sĩ Lương)
Phiên tòa tại
Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Từ trái sang
phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan
Tại và Lê Nguyên Chí.
Nguồn Ảnh: DR
------------------------------------------------------------------
Thụy
An được phóng thích tháng 10/1974 cùng với Nguyễn Hữu
Đang. Bà bị trả về quản thúc Tại Hòa Xá, bị ném đá
trên đường giải về làng khi bị bị đẩy xuống xe tù.
Năm 1976, nhờ em trai Lưu Duy Trác xin cho được vào Nam
đoàn tụ với mẹ già. Lúc đó các con bà tất cả đã
ra khỏi nước. Bùi Thụy Băng đã làm thủ tục bảo lãnh
mẹ, nhưng bà chết trước khi được gặp lại con vào
tháng 10/1989 tại nhà riêng, Saigon.
Thụy An cùng với
các thành viên thuộc Nhân Văn Giai Phẩm là biểu hiện
cao đẹp của giới trí thức Việt Nam, biểu hiện cho sức
sống mãnh liệt của dân tộc, đã bị một chế độ phi
nhân phản dân tộc nghiền nát một cách không thương
tiếc.
Chế độ đó vẫn tiếp tục tồn tại. Các
tội ác vẫn đang tiếp diễn.
Tôi muốn nói vài lời với người đả đăng hình ảnh trong bài này, là không biết là người nghiêng về phía bên nào? nhưng dù ở phía bên nào thì cũng vậy, ít ra cũng phải có tối thiểu một chút xíu tôn trọng.. NGƯỜI DẢ CHẾT...vả lại mình là người VIỆT NAM mà, bên nào cũng là người VIỆT NAM thôi. tôi muốn nói tới tấm hình ở phía trên có hàng chử..TRẺ EM SÀI GÒN LÀM ĐÁM MA GIẢ CHO VNCH....và....TRÊN 1 ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN , XỬ DỤNG QUÂN TRANG VỨT BỎ CỦA QUÂN ĐỘI VÀ 1 LÁ CỜ VNCH , CÁC TRẺ EM ĐẢ CÙNG NHAU DỰNG 1 ĐÁM MA GIẢ ĐỂ ĐÁNH DẤU SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHẾ ĐỘ VNCH....
phái dưới nửa là một xác chết phủ lá cờ của VNCH. Tôi xin thưa là hảy nhìn kỷ lại coi, hình ảnh đó không phải hình ảnh mà mấy trẻ em lượm đồ quân trang dựng lên đâu, mà đó là xác của...
Cố Đại Tá HỒ NGỌC CẨN bị cs xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Su đó người dân Cần Thơ mới lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về ... và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa ... mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.
Lần sau nếu có muốn trang trí cho bài viết của mình thì hảy lựa tấm hình nào cho nó họp tình họp cảnh một chút xíu nhé, đừng có lấy mấy tấm hình của những người đả hy sinh vì tổ quốc mà làm đề tài nữa nhé.