Tại sao giáo dục Việt
Nam khủng hoảng và đâu là
lối thoát?
Nguyễn
Đình Đăng
Thưa TS Nguyễn đình Đăng và các bạn ,
Bài sau đây lấy từ blog cũa TS , tôi xin phép đăng lại trên blog cũa mình để dễ tìm . Cám ơn TS . (Tài) .
Nguồn :http://ribf.riken.go.jp/~dang/education.htm
(Bài
này được viết xong cách đây
một năm về trước, giữa lúc
các cuộc tranh luận về cứu
nguy hay chấn hưng giáo dục trong nước
diễn ra sôi nổi. Tuy nhiên, ngay cả sau
khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật
Giáo dục đến nay đã 5 tháng,
đọc lại bài
viết thấy vẫn còn nguyên tính
thời sự, tác giả đã quyết
định gửi đăng sau khi sửa
lại và bổ sung chú giải [3] và
[6].)
1. Tại
sao?
Có lẽ chưa bao giờ khủng
hoảng về giáo dục ở Việt
Nam lại
được nói đến
với nhiều bức xúc như hiện
nay. Có người
đã ví hiện trạng giáo dục
Việt Nam
như một cơ thể ốm yếu với
những “khối u dị dạng”[1]
mà nếu không cắt bỏ bây giờ
thì cơ thể sẽ không còn cách
nào để thoát khỏi lưỡi
hái của Thần Chết.
Người
ta nói nhiều đến căn bệnh này
nhưng phần lớn các
cuộc
thảo luận phần nhiều chỉ liệt kê
các hiện tượng và hậu quả.
Để giải quyết triệt
để một bài toán đau đầu,
điều tối quan trọng là phải nhận
cho ra những nguyên
nhân sâu xa đưa đến những
hiện tượng đó.
Vậy nguyên nhân dẫn đến
tấn bi kịch hiện nay của giáo dục
Việt Nam nằm
ở đâu?
Phải chăng gốc
rễ của vấn đề nằm ở hai
điểm chính sau đây:
- Thứ nhất là truyền thống học để làm quan của người Việt. Điều này đã bắt đầu từ xa xưa, có thể là từ khi đạo Nho của người Tàu thâm nhập vào nước Việt. Toàn bộ tình trạng học gạo, học vẹt, thi cử nặng nề, học chỉ để cốt thi đỗ đại học v.v. ngày nay là hậu quả của hệ thống thi cử “lều chõng” xưa kia của Việt Nam - một hệ thống mà qua bao cuộc “bể dâu”, tuy có nhiều thay đổi về hình thức, nhưng thực chất vẫn y nguyên. Người Việt phần nhiều học để ra “làm quan” chứ không phải vì tò mò, vì nhu cầu tự thân của những sung sướng do hiểu biết đem lại.
- Thứ hai đó là thái độ không tôn trọng (nếu không nói là coi rẻ) cá nhân con người trong xã hội Việt Nam, đặc biệt là thái độ chưa thực sự tin tưởng trí thức, những người một thời từng bị xếp vào tầng lớp “tiểu tư sản” và hay “giao động”, và chịu sự miệt thị của một số tầng lớp khác[2].
Bước
ngoặt trong chính sách giáo dục ở
Bắc Việt Nam xảy ra vào khoảng những
năm 70
khi ông Tạ Quang Bửu làm Bộ
trưởng Đại học và Trung học
chuyên nghiệp. Từng là
một trí thức học ở Pháp, ông
là người đầu tiên đề ra
hình thức thi vào đại học
của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trước đó, học sinh vào đại
học chỉ được chọn
theo thành phần và lý lịch, không
hề có thi cử. Với chính sách
mới, yêu cầu về
lý lịch dần dần được nới
lỏng, yêu cầu về điểm số cao
đạt được trong các kỳ thi
được chú trọng. Các học sinh
đạt điểm cao trong kỳ thi đại
học được nhà nước gửi
đi học tại các nước xã hội
chủ nghĩa thời bấy giờ.
ông Tạ Quang Bửu
(1910 - 1986)
Nhưng cũng từ lúc đó
xã hội Viêt
Nam bước
vào một giai đoạn
mới sau chiến tranh với khủng hoảng
lớn nhất bắt đầu từ sự mất lòng tin. Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975
người dân dần dần mất lòng tin
vào phát
ngôn của các chức sắc. Nhiều
cán bộ bắt đầu mất lòng tin
vào chính những gì
mình từng tin trước đó. Bên
cạnh đó cuộc sống với các nhu
cầu về vật chất càng
ngày càng tăng của con người
làm cho người ta thấy rằng những
điều người ta tin
theo trước kia chỉ là “đạo
đức giả”, rằng một khi đã sinh
ra làm người thì ai cũng
thích giàu sang vinh hoa phú quý.
Điều này làm lung lay nền tảng
cơ sở “mình vì
mọi người mọi người vì
mình”, “làm theo năng
lực hưởng
theo lao động”, v.v.
Xã
hội có sự chuyển biến về chất.
Thay vì phải che giấu xuất thân gia
đình tư sản
hay tiểu tư sản như trước kia, tầng
lớp “tư bản mới” bắt đầu khoe
giàu khoe
sang công khai, bắt đầu lấy tiền ra
làm thước đo mọi giá trị.
Thái độ đó xa lạ
với giới trí thức chân chính,
và phản ánh trình độ văn
hóa đạo đức chung thấp
kém của toàn xã hội. Xã hội
không có luật pháp rõ ràng,
chỉ được điều hành dựa
trên các chính sách và nghị
quyết. Mang tiếng là có một nhà
nước vì dân, do
dân, nhưng thực chất là nhân dân luôn bị
coi là phải phục vụ nhà nước
chứ không phải ngược lại. Tất
cả các bản nhận
xét người dân tốt đều phải
có câu “chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối chính
sách...”, v.v. Vì thế việc các cơ
quan hành pháp, an ninh lộng quyền, dọa
nạt,
hà hiếp nhân dân, trong đó có
trí thức, trở thành một tệ
nạn… Sự ổn
định của xã hội được duy
trì không phải bằng ý thức tự
giác của cộng đồng của
những con người tự do, mà bằng
nỗi sợ hãi của người dân
đối với bộ máy quan lại
và công an.
Trong
cơn “gió giục mây vần” này hệ
thống giáo dục lại thay đổi rất
ít, ngoại trừ một
số “cải lùi” hình thức, phản
tự nhiên như việc cải cách chữ
viết năm nào. Thay
vì có một chương trình để
dạy trẻ làm Con Người toàn
diện, nhà trường vẫn chỉ
chú trọng dạy học sinh để trở
thành những công cụ cho bộ máy
nhà nước, tức là
ra làm quan, y như xưa. Vì thế xã
hội bắt đầu bỏ tiền ra “mua
tước mua quan”
đưa đến nạn mua bằng cấp, lạm
phát học hàm học vị, nạn “học
giả bằng thật” mà nhiều
người đã nói đến, v.v. Trong
tình trạng “phó tiến sỹ nhiều
như lợn con”[3]
- như
câu nói cửa miệng trong dân gian -
loại “trí thức rởm” đã làm
giới trí thức
trong nước nói chung bị mất uy tín
trầm trọng. Hiện tượng này cộng
với đồng
lương ít ỏi của giáo viên trong
tình trạng “nhà nước giả vờ
trả lương, cán bộ
giả vờ làm việc”, tham nhũng tăng
lên, đạo đức xã hội tụt
xuống (cũng chính do
giáo dục khủng hoảng), đã sản
sinh ra các lớp học “thêm” đầu
tiên, dẫn đến quốc
nạn học thêm ngày nay. Khủng hoảng
giáo dục lại dẫn đến sự suy
đồi về đạo đức.
Đạo đức suy đồi tác
động ngược lại hệ thống
giáo dục vốn đang khủng hoảng.
Cái
vòng luẩn quẩn tưởng như sẽ
không bao giờ dứt.
2. Lối thoát
Gần
đây nổi lên phong trào “tìm
người tài”, “sử dụng người
tài”, được thảo luận rầm
rĩ trên báo chí, bên cạnh các
cuộc tranh cãi làm thế nào để
ra khỏi khủng hoảng
giáo dục. Nếu đây là biểu
hiện của một giác ngộ thực sự
về giá trị và vai trò của
trí thức chứ không phải một
“Trăm hoa đua nở III” thì có thể coi
đó là một điều
đáng mừng chăng?
Tuy
nhiên các cuộc thảo luận nói
trên vẫn chưa thoát khỏi triết
lý đào tạo để phục
vụ - cái thứ triết lý đã
làm cho xã hội – hay ít nhất
các phương tiện thông tin
tuyên truyền - ngộ nhận các giải thi
Olympic toán, lý quốc tế với sự
tài giỏi của
học sinh Việt Nam, ngộ nhận việc nhạc
sỹ dương cầm Đặng Thái Sơn
đoạt giải
Chopin cách đây 1/4 thế kỷ (năm 1980)
với sự ưu việt của đào tạo
âm nhạc nước
nhà, v.v.
Pháp
luật của một xã hội văn minh
phải tôn trọng dân chủ và quyền
của con người. Nhà nước
và mọi tổ chức chính trị là
do dân tạo ra và có nghĩa vụ
phục vụ nhân dân chứ không phải
ngược lại.
Ngân sách nhà nước, trong đó
có ngành giáo dục, là do nhân
dân đóng thuế mới
có. Quan điểm “nhân tài phải
phục vụ nhà nước” nay cần
được đổi thành “nhà
nước
và các công ty tư nhân (hay cổ
phần) phải biết cách trọng dụng
nhân tài”, tức
là phải đối xử tử tế với
họ về mọi mặt để họ có
thể tự do phát triển tất cả tài
năng của họ, qua đó đem lại
lợi ích cho đất nước, nhà
nước và các công ty. “Đối
xử tử tế" ở đây cần
được hiểu đầy đủ bao gồm
tiền lương, trách nhiệm, quyền
hạn v.v. tương xứng với tài năng
của trí thức. Người tài không
có lỗi nếu họ rời
bỏ quê hương ra nước ngoài
vì ở nước đó họ thấy
được đối xử tốt hơn.
“Đất lành
thì chim đậu". Con người cũng
vậy. Họ có quyền tự do đi lại,
tự do lựa chọn
chỗ ở, tự do thay đổi quốc
tịch.
Một
nền giáo dục ưu việt phải lấy
phương châm cung cấp cho mỗi học sinh
đầy đủ điều
kiện để phát triển thành con người toàn
diện. Như thế nào
là một con người toàn diện?
Không phải xưa nay người ta không
nói đến vấn
đề này. Tiếc rằng những tiêu
chuẩn
mà chúng ta thường nghe rao giảng như
“vừa hồng vừa chuyên”, “tài
đức song
toàn”, “con người mới xã hội
chủ nghĩa”, và gần đây, cái
“tâm” thời thượng, thực
ra rất mơ hồ, duy ý chí, đôi khi
sai lạc, và khó có thể đưa
đến những biện pháp
cải cách cụ thể hữu hiệu.
Người
viết bài này cho rằng một con
người toàn diện ngày nay phải
là con người có “đất
dụng võ” trong mọi xã hội văn minh,
tỉ như, để sau khi lĩnh bằng thạc
sỹ hay tiến
sỹ của trường đại học ở
Việt Nam, nếu sang Hoa Kỳ người
đó sẽ không cần phải học
lại để lấy bằng master hay PhD cuả Hoa
Kỳ nữa.
Nhà
tâm lý và giáo dục học Mỹ
giáo sư Howard Gardner[4]
đã cụ
thể hóa các tiêu chuẩn về
đức, trí, mỹ, dục,… của một con
người toàn diện là một
con người có đầy đủ 7 lĩnh
vực của trí năng (gọi là seven types
of
intelligences) tạm dịch dưới
đây:
1- Ngôn ngữ: là
khả năng dùng ngôn ngữ để
mô tả các sự kiện một cách
thuyết phục, hùng biện và hình
ảnh. Cần cho các nghề
nghiệp như báo chí, hành chính,
luật sư, thày giáo, các nhà
văn, nhà thơ, viết
kịch v.v.
2- Logic-toán học:
là khả năng dùng các
con số để tính toán và mô
tả, dùng các quan niệm toán học
để kết nối, ứng dụng
toán học vào đời sống, vào
phân tích các số liệu, xây
dựng các luận điểm, nhạy
cảm với tính đối xứng, với
thẩm mỹ toán học, giải quyết
các vấn đề trong thiết
kế và mô hình hóa v.v. Cần cho
các nghề nghiệp như các nhà khoa
học, kỹ sư, thiết
kế, nhà buôn v.v.
3- Âm nhạc: là
khả năng hiểu và phát triển
kỹ năng âm nhạc, rung động
trước âm nhạc, hợp tác để
dùng âm nhạc thoả mãn nhu
cầu của người khác, diễn giải
các hình thức và ý tưởng
âm nhạc, biểu hiện qua
sáng tạo âm nhạc và trình
diễn âm nhạc. Cần cho các nghề
nghiệp liên quan tới
âm nhạc.
4- Không gian: là
khả năng cảm thụ và
trình bày thế giới một cách
chính xác bằng hình ảnh trong không
gian, khả năng
sắp xếp màu sắc, đường
nét, hình dáng đáp ứng nhu
cầu của người khác, khả năng
diễn giải các ý tưởng bằng
hình ảnh, khả năng chuyển các
ý tưởng bằng không
gian hay hình ảnh thành các biểu
hiện sáng tạo. Cần cho các nghề
nghiệp như:
nghệ sỹ, họa sỹ, nhiếp ảnh, trang
trí nội thất, thiết kế thời trang,
kiến trúc,
xây dựng, phê bình mỹ thuật,
điện ảnh v.v.
5- Thể hình (như
trong các vận động viên
hoặc vũ công): là khả năng dùng
cơ thể và dụng cụ để tạo
nên các hành động hữu
hiệu, để xây dựng hay sửa chữa,
giúp đỡ người khác, cảm
thụ thẩm mỹ của cơ thể
và dùng các giá trị đó
để tạo nên các hình thức
biểu hiện mới. Cần cho các nghệ
nghiệp như cơ khí, huấn luyện
viên, vận động viên, điêu
khắc, vũ đạo, v.v.
6- Giao cảm: là
khả năng tổ chức mọi người,
truyền đạt rõ ràng những gì
cần giải quyết, khả năng đồng
cảm để giúp đỡ người
khác và giải quyết các vấn
đề vướng mắc, khả năng
động viên kêu gọi mọi người
tham gia thực hiện một mục đích chung.
Cần cho các nhà tổ chức, các
nhà chính
trị, các nhà lãnh đạo, các
nhà hoạt động xã hội, bác
sỹ, hộ lý, thầy giáo, xã hội
học, tâm lý học, cố vấn, nghệ
sỹ, các nhà hoạt động tôn
giáo v.v.
7- Nội cảm: là
khả năng hiểu được chính
mình, các chỗ mạnh chỗ yếu của
mình, tài năng của mình, các
mối quan tâm của
mình, và dùng các yếu tố
đó để đặt ra mục đích
phấn đấu, để hiểu chính
mình có
ích cho người khác đến đâu
và như thế nào, khả năng tạo
nên các quan niệm và lý
thuyết dựa trên soi xét chính bản
thân mình, khả năng dùng trực
giác và nhiệt
tình của mình để tạo ra và
bộc lộ quan điểm riêng. Cần cho
các nghề nghiệp như
người phác kế hoạch, kinh doanh nhỏ,
tâm lý học, nghệ sỹ, hoạt
động tôn giáo,
nhà văn, v.v.
Tính
đa trí năng nói trên cần
được đưa vào hệ thống
giáo dục để tạo nên các
học sinh
toàn diện. Cụ thể là các môn
học, ngoài toán, lý, hoá, sinh,
văn, sử, địa, cần
có các giờ ngoại ngữ, thể thao,
mỹ thuật, âm nhạc. “Cần có” ở
đầy phải được hiểu
theo nghĩa rất “nghiêm chỉnh” tức là
phải có đầy đủ thầy cô
chuyên môn, giáo cụ,
chương trình chính quy, chứ không
thêm vào chỉ để cho gọi là
có.
I. Chương trình
đào tạo toàn diện này cần
bao gồm cả:
- Môn học âm nhạc phải có các thầy cô được đào tạo về âm nhạc để dạy cho trẻ về xướng âm, nhạc lý, lịch sử âm nhạc, tiếp xúc với các kinh điển âm nhạc của nhân loại như các tác phẩm của Bach, Beethoven, Mozart, Chopin, v.v., tổ chức cho học sinh có các buổi biểu diễn ca nhạc. Mỗi trường cần được trang bị các nhạc cụ cơ bản như đàn piano (một upright một grand piano), đàn organ điện tử (vài chiếc), đàn guitar (vài chiếc), bộ trống, một số kèn (như trumpet, trombonnes, cornes, saxophones, clarinettes v.v.) để có thể lập một dàn nhạc của trường, v.v.
- Môn học mỹ thuật cần có các thầy cô được đào tạo về hội họa để dạy cho trẻ những kiến thức cơ bản về mỹ thuật, về hoà sắc, về hình họa, cách vẽ bằng màu nước, màu bột, sơn dầu, acrylic, nặn tượng, làm tranh khắc (khắc gỗ, khắc kim loại, v.v.), lịch sử mỹ thuật, tiếp xúc với các kiệt tác tiêu biểu của nhân loại như các pho tượng và kiến trúc Hy Lạp, La Mã, các đại danh hoạ và các trường phái hội hoạ thế giới v.v. Mỗi trường học cần được trang bị một phòng vẽ với nhiều giá vẽ, tượng thạch cao, và một số họa cụ cần thiết khác để học sinh học vẽ v.v.
- Về thể thao: Cần có các câu lạc bộ thể thao trong trường cho các học sinh (có thể từ trung học trở lên) tự chọn như: bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, karate, judo, v.v. Mỗi trường cần có một phòng thể thao, một bể bơi, và một sân vận động nhỏ.
- Giáo dục giới tính, bao gồm cả những vấn đề như quan hệ tình dục an toàn, v.v.
- Phương pháp giáo dục cần đổi theo hướng khuyến khích học sinh tư duy độc lập, phát biểu quan điểm riêng của mình về mọi vấn đề, tránh chỉ nhai lại một đáp án duy nhất, bất kỳ đó là của ai hoặc cơ quan nào đưa ra. Trong khi tiến hành, tránh hết sức mọi hình thức chụp mũ, quy kết, mà cần đưa ra chứng minh khách quan cho học sinh thấy đâu là chân lý, và để các em tự đi đến kết luận. Điều mấu chốt là phải cung cấp cho học sinh những phương pháp tư duy logic, chứ không đơn thuần là chỉ nhồi nhét cho các em những kiến thức đã xơ cứng và cũ rích, nhiều khi nhầm lẫn, sai lạc, mà lối học gạo học vẹt không thể nào phát hiện ra[5].
- Tin học hoá toàn bộ hệ thống nhà trường: Các trường từ trung học trở lên được trang bị phòng máy vi tính và được nối mạng internet.
II. Toàn bộ sách
giáo khoa phải được “chế
tạo” lại, đảm bảo đẹp cả
về nội dung lẫn hình thức, có
màu và nhiều hình ảnh
minh họa. Học sinh cầm trên tay quyển
sách giáo khoa đẹp cũng cảm thấy
tò mò, hứng
thú học hơn. Để có sách
giáo khoa tốt nên
tư nhân hoá toàn bộ việc xuất
bản sách giáo khoa, tạo điều
kiện cho các nhà
sách cạnh tranh, mời các tác giả
hay nhất viết sách giáo khoa, các
họa sỹ, nhà
nhiếp ảnh, nhà thiết kế giỏi
trình bày sách giáo khoa. Sách
giáo khoa cần được
biên soạn lại hàng năm để
bổ sung những kiến thức mới nhất
của nhân loại, và loại
bỏ những gì đã lỗi thời.
Các trường có toàn quyền tự
lựa chọn sách giáo khoa
cho các học sinh của mình. Bộ Giáo
dục chỉ đưa ra các yêu cầu
về chương trình mà
các nhà viết sách giáo khoa cần
đảm bảo, sau đó lập hội
đồng xét duyệt để công
nhận các bộ sách giáo khoa nào
đạt yêu cầu để có thể
dùng cho giảng dạy[6].
III. Tại các
trường công, nhà nước cần đảm bảo cho
các thày cô có thu nhập nuôi
sống
được gia đình họ để họ
có thể
chuyên tâm nghề dạy học tại
trường mà không phải “kiếm thêm
ngoài giờ”[7].
Các
thày cô sau khi đã nhận lương
cao, không được phép dạy thêm
ở bất cứ trung tâm
dạy thêm nào. Người vi phạm sẽ
bị thải hồi. Như vậy, những
người dạy tại các
trung tâm dạy thêm sẽ không đồng
thời là giáo viên của các
trường phổ thông hoặc
giáo sư các trường đại học.
Thường xuyên có các đợt
sát hạch trình độ của giáo
viên, cán bộ giảng dạy, để duy
trì một đội ngũ các thày
cô giáo thực sự có
trình độ cao.
IV. Bãi
bỏ toàn bộ kỳ thi vào đại
học. Các trường đại học
tuyển sinh dựa trên kết
quả của học sinh trong suốt 3 năm cuối
trường phổ thông trên cơ sở
các tiêu chuẩn
về đa trí năng nói ở trên,
và qua phỏng vấn nếu cần. Các
kỳ thi học kỳ trong
trường đại học sẽ là các
đợt sàng lọc sinh viên cho tới khi
tốt nghiệp. Như vậy
số người tốt nghiệp đại học
sẽ ít hơn số người vào
đại học, vì sẽ có một số,
do
học kém (do kém thông minh, kém
tài, lười học, v.v.), không qua
được các kỳ thi
học kỳ, bị loại ra giữa chừng,
tránh được tình trạng vào bao
nhiêu ra bấy nhiêu
của đào tạo đại học hiện
nay.
3. Kết
luận
Trên
đây là một số ý kiến của
cá nhân người viết bài này
về nguyên nhân của khủng hoảng
giáo dục ở nước ta hiện nay và
đề nghị giải pháp nhằm thoát
khỏi khủng hoảng
đó. Đây là một công việc
không đơn giản và cần phải
được tiến hành đồng thời
với
các cải cách trong các lĩnh vực
khác của xã hội ta. Trì hoãn, do
dự, bảo thủ,
suy tính cá nhân, v.v. trong việc này
chỉ góp phần làm trầm trọng
thêm hiện trạng.
Nền văn minh của một đất nước
không phải là được đo bằng
đồng tiền, bằng thu nhập
của một số người giàu có,
nhất là lại do làm ăn bất
chính, do tham nhũng mà có.
Nền văn minh của
một đất nước thực chất
được thể hiện trong các giá
trị tinh thần và tri thức mà nhân
dân của đất nước
đó tạo ra. Trong sự nghiệp này
giáo dục, văn hóa, nghệ thuật
và khoa học giữ
vai trò quyết định.
Nếu
ví nền văn minh của một quốc gia
như một khu rừng thì trí thức
là những ngọn
cây cao nhất trong khu rừng đó.
Người ta nhận ra khu rừng lớn từ
đằng xa bởi
trông thấy những ngọn cây đó
đầu tiên.
Viết xong
ngày 28 tháng 9
năm 2004 tại Tokyo
(Bản
đăng tại talawas ngày 20 tháng 10
năm 2005)
[1] Theo GS
Hoàng Tụy tại hội
thảo về chất lượng giáo dục,
Bộ GD-ĐT, tháng 12 năm 2003.
[2] Tại lớp
nghiên cứu chính
trị khóa 4 Trường Đại học
Nhân dân tổ chức vào năm 1958,
giảng viên Nguyễn Văn
Ch… liên hệ tới nhãn hiệu Tiếng
Chủ (La Voix de Son Maitre) vẽ một con chó
ngồi
trước loa máy hát cuả hãng
đĩa hát (bây giờ là nhãn
hiệu của hãng Victor) đã
phê bình các trí thức học
viên là: “Đến một con chó còn
nhận ra tiếng chủ nó
(Il reconnait la voix de son maitre) nữa là con
người mà lại không nhận ra tiếng
của mẹ mình!” (Mẹ ở đây
chỉ Tổ quốc).
nhãn hiệu Tiếng Chủ (La Voix de Son Maitre)
Ngày
hôm sau
nhà giáo Nguyễn Đình Nam (sinh năm
1921) đã sáng tác bài thơ sau
đây dán bích
báo:
Tiếng chủ
“L’homme
n’est
qu’un roseau,
le plus
faible
de la nature mais c’est un roseau pensant”
(Con
người chỉ là một
cây sậy, cái thứ yếu đuối
nhất của tự nhiên,
nhưng
đó là một
cây sậy biết suy nghĩ.)
B.
Pascal
Chó
nghe tiếng chủ nhận ra ngay,
Cải
tạo
chúng ta lại hóa gay!
Âm
nhạc
chó nghe còn thích thú,
Thuyết
trình người học chửa mê
say.
Phải
chăng người chẳng bằng loài
chó?
Hay
lẽ
chó còn kém bọn
thày?
Điều
khiển óc người xem khó
thật
Bởi
người
biết nghĩ, chó không hay.
Câu
chuyện của gần nửa thế kỷ về
trước đó đến nay vẫn chưa
mất tính thời sự. Cuối
tháng 9 năm 2005 tại Hà Nội, một
nhà khoa học nước ngoài nổi
tiếng, nhiều năm sống
ở Việt Nam, đã nói với
người viết bài này như sau:
“Tôi yêu đất nước này, nhưng
mặt khác tôi thấy bộ máy quan
lại ở đây tham nhũng nặng nề
còn trí thức thì
không được tôn trọng, thậm
trí bị khinh rẻ”.
[3]
Sau một
cải cách về học hàm chức danh
gần đây “phó tiến sỹ”
được gọi là “tiến sỹ”,
còn
các tiến sỹ trước kia thì nay
được gọi là “tiến sỹ khoa
học”. Tác giả Lại
Nguyên Ân đã ví cải cách
này như sự kiện “các phó tiến
sỹ sau một đêm thức dậy
bỗng đồng loạt trở thành tiến
sỹ”. Văn hóa thuyết trình tại
hội thảo khoa học
và cách chuẩn bị một báo cáo
khoa học như thế nào để hấp
dẫn người nghe - một
việc mà các sinh viên đại học
ở Mỹ hoặc châu Âu được
hướng dẫn chi tiết - bị
nhiều người, kể cả một số
giáo sư tiến sỹ ở Việt Nam, xem
nhẹ. Thay cho việc tiếp
thu ý kiến xây dựng là các
phản ứng tự ái, sửng cồ, nổi
nóng, không chịu tiếp
thu, trả lời lạc đề, v.v.. Đó
là chưa kể đến rào cản về
Anh ngữ vẫn còn lù lù đứng
đó đòi hỏi nhiều nỗ lực
phấn đấu để vượt
qua.
Theo
Tiền
Phong Online ngày 24/8/2005 “trong số
13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học
của Việt Nam chỉ có khoảng 500
người (3.7%)
có sản phẩm được quốc tế
ghi nhận. Việt Nam đào tạo khối
lượng lớn cử nhân
nhưng không thành trí thức. Ví
dụ cay đắng nhất là mỗi năm
hàng ngàn trí thức
trẻ bước vào bộ máy hành
chính. Nhưng nền hành chính công bao
nhiêu năm tiếp tục
trì trệ, lạc hậu, hành dân.
Đội ngũ cán bộ công chức
đang bị coi là khâu yếu nhất
trong tiến trình cải cách hành
chính.”
[6]
Cuốn
sách giáo khoa môn “Luân lý mới”
của học sinh năm thứ 3 cao học ở
Nhật (tương
đương lớp 12 của ta) do 6 tác giả
biên soạn, trong đó có 3 giáo
sư đại học và 3
thày giáo cao học. Ngoài bìa sách
in bức tranh “Viện Hàn lâm Athens” của
đại
danh họa phục hưng Rafael vẽ các triết
gia cổ đại ở Athens, với Platon, tay chỉ
lên trời - đại diện cho ý thức
hệ duy tâm, và Aristotle, tay chỉ xuống
đất, đại
diện cho ý thức hệ duy vật, đứng ở
trung tâm. Sách dày 200 trang, dạy khá
kỹ về các triết gia của nhân
loại và các
học thuyết của họ, từ các triết
gia phương Tây với Socrates (470 – 399 tr CN),
Platon (427 – 347 tr CN), Aritstotle (384 – 322 tr CN), Zenon
(335 – 263 tr CN)
, Epikouros (341 tr CN – 270 tr CN) đến các
nhà tư tưởng phương Đông
như Khổng
Tử (551 – 479 tr CN), Mạnh Tử (372 – 289 tr
CN), v.v. Trong phần các học thuyết
của xã hội hiện đại, học sinh
được học các tư tưởng
thời Phục Hưng, rồi D.
Erasmus (1466 – 1536), M. Luther (1483-1546), J. Calvin (1509
– 1564) , M. E.
Montaigne (1533 – 1592), B. Pascal (1623 – 1662) , F. Bacon
(1561 – 1626), R.
Descartes (1596 – 1650), kế đến các tư
tưởng dân chủ tự do với J. Locke (1632
–
1702) , J. J. Rousseau (1712 – 1778), I. Kant (1724 – 1804),
G. Hegel (1770 –
1831), J. Bentham (1748 – 1832) , J. S. Mill (1806 – 1873), K.
Marx (1818 –
1883), S. A. Kierkegaard (1813 – 1855), S. Freud (1856 –
1939), K. Jaspers
(1883 – 1969), F. W. Nietzsche (1844 – 1900), M. Heidegger
(1889 – 1976), J. P.
Sartre (1905 – 1980) v.v. Mỗi một triết gia
ít thì cũng được bàn luận
trong 1
trang, nhiều thì vài ba trang (như Platon,
Aristotle, Kant và Hegel). Tất cả 5
vị K. Marx, F. Engels, I. Bernstein và hai vợ
chồng S. J. và B. Webb cộng lại
được 3 trang. Sách còn dạy về
lịch sử các tôn giáo của nhân
loại như đạo Thiên
Chúa, đạo Phật, đạo Hồi
v.v.
Có
bao nhiêu học sinh lớp 12 của Việt Nam
hiện nay biết Kant, Hegel, Kierkegaard
là ai, hoặc thuyết phân tâm học
của S. Freud nói gì, kể cả bằng con
đường tự đọc
sách?
[7]
Theo
tin VietNam Net ngày 28 tháng 3 năm 2004, tại
hội thảo về chấn hưng giáo dục
gần
đây, một đại biểu tham dự
hội thảo nêu ra con số 4 tỉ USD nhà
nước ta chi cho
giáo dục (với 22 triệu học sinh)
hàng năm, tức là số chi bình
quân cho mỗi học
sinh là 182 USD. Để thấy con số này
là nhiều hay ít chỉ cần so sánh
với ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục
của Nhật Bản 13 năm trước đây
(1992) (với 25 triệu
học sinh) là khoảng 50 tỉ USD, tức
là số chi bình quân cho mỗi học sinh
ở Nhật
Bản là 2000 USD, gấp hơn 10 lần của
Việt Nam. Ngoài ra, chi phí gia đình
phải
trả cho một học sinh học cấp 3
trường công ở Nhật là vào
khoảng 4000 – 5000 USD
mỗi năm. Lương một giáo viên
độc thân 23 - 24 tuổi mới vào
nghề của Nhật bản là
khoảng 3 triệu yen (27 ngàn USD) mỗi năm.
Một giáo viên 40 tuổi có một
vợ và 2
con hưởng lương khoảng 5.5 triệu yen (50
ngàn USD) mỗi năm, tương đương
lương
phó giáo sư đại học (khoảng 35
tuổi) khoảng 5 triệu yen (45 ngàn USD) mỗi
năm.
NÓI THÊM VỀ TUYẾN XE LỬA ĐÀ LẠT - THÁP CHÀM .(BÀI 2)
Nguồn: báo nước ngoài, báo trong nước như SGGP, và một số blog như "Cộng đồng những người yêu thích đường sắt Việt Nam ", v.v...
A. Đặc điểm của đầu máy hơi nước: tốc độ ở đồng bằng: 45 km/h, leo núi: 20 km/h, nặng: 60 tấn, dài : 8,75 m. Đầu máy có 4 trục xe/cầu (essieu), khoảng cách (empattement) giữa trục đầu và trục cuối là 5,325 m. Khi chạy thì chỉ có 3 trục được kết nối với động cơ hơi nước. Để đun nóng nồi hơi (chaudiere), phải dùng những ống có đường kính 118 ly và dài 2,95 m. Xử dụng các loại thắng như thắng hơi, thắng tay, v.v...
Hãng SLM ở Wintherhour, Thụy Sĩ đã sản xuất 10 đầu máy loại này và đánh số từ HG 3/4 # 1 đến HG 3/4 #10. Các chiếc từ số 1 đến 8 được chế tạo NĂM 1913 (cách nay ĐÚNG 100 NĂM). Hai chiếc số 9 và 10 thì năm 1914.
Các chiếc số 1, 2, 9, và 10 đã được mua và xử dụng cho tuyến Đà Lạt - Tháp Chàm (40 NĂM từ 1932 đến 1972).
Khoảng năm 1990, sau khi đưa (4 đầu máy này) về Thụy sĩ với rất nhiều khó khăn về kỹ thuật cũng như thủ tục hành chánh, thì hội Furka - thành lập năm 1983 với khoảng 7 NGÀN hội viên trên khắp thế giới - đã tháo tung các đầu máy rỉ sét này (qua 18 năm phơi mưa nắng). Họ đã phối hợp chặc chẻ với nhau, đo đạc chính xác từng chi tiết, chụp hình và LÀM MỚI HOÀN TOÀN chi tiết đó - theo như nguyên mẫu; sau đó ráp các chi tiết lại với nhau và cho vận hành đầu máy. Hội gồm những người có chuyên môn về cơ khí, làm việc rất chăm chỉ và đặc biệt là TỰ ĐÀI THỌ (mua vé máy bay, tự túc ăn ở, làm ko công cho dự án phục hồi này).
Hiện nay hội chỉ phục hồi được 2 chiếc và đưa vào xử dụng trên tuyến vượt đèo Furka và Oberalp, 2 chiếc còn lại thì đang phục hồi.
(còn tiếp)