Sự Dảy Chết Của Một Thành Phố
nguồn : http://ongvove.wordpress.com/2009/04/28/s%E1%BB%B1-d%E1%BA%A3y-ch%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%99t-thanh-ph%E1%BB%91/
Thứ Hai, ngày 28 tháng Tư, 1975
Sàigòn thật sự đã ở trong tình trạng hấp hối ngay trong buổi chiều
ngày thứ hai 28 tháng 4 với cái trò bắn súng lăng nhăng tiếp theo sau
bài diễn văn của vị Tân Nguyên Thủ Quốc Gia..
Khi những trái bom đầu tiên rơi xuống Tân Sơn Nhứt và khi mà các loại
súng bắn lên khắp nơi trong môt thành phố đang sắp có một cơn giông bão
đổ ập xuống, thì dân chúng vì chưa có được một lời giải thích nào nên
hốt hoảng nằm sấp xuống các rãnh bên lề đường hoặc chạy vào nấp bên các
cửa phố. Nhưng dân chúng cũng biết là chiến cuộc thường tránh xa thủ đô
từ 30 năm giặc giã, thì nay “nó”đã đến đây rồi… và sớm muộn gì trong vài
ngày nữa đây, hay trong vài giờ nữa thôi, bàn tay sắt máu của Cộng Sản
sẽ ập xuống nghiền nát Sài Gòn để bắt thành phố nầy phải tùng phục họ.
Hai giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn cũng vẫn chưa đưa ra được một
lời giải thích nào rõ ràng cho dân chúng đang hấp tấp trở về nhà mình
sau khi có lệnh thiết quân luật 24/24.Do đó, trong cơn giông bão của một
buổi hoàng hôn đầy sấm sét, người dân Sài Gòn bắt đài “MTGP”. Nhưng đài
Cộng Sản không hề nói đến chuyện “hòa bình”! Toàn là những điều kiện
đòi hỏi và những lời hăm dọa, nhắc đi nhai lại cứng rắn như một cối xay
lúa những luận điệu cũ mèm mà họ đã dùng mãi để lên án cựu Tổng Thống
Thiệu : ” chánh quyền Sài Gòn dù mang một nhãn hiệu nào cũng phải cáo
lui…. Bộ máy chiến tranh Mỹ Ngụy phải được chấm dứt… Chiến cuộc chỉ chấm
dứt khi nào tất cả quân đội Miền Nam bỏ súng xuống hết và tất cả các
chiến hạm Hoa Kỳ đã rời hết khỏi lãnh hải Miền Nam Việt Nam. Các binh sĩ
nào còn nghe lệnh chỉ huy của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm
gương…”
Cũng vào giờ nầy, ngay tại Paris (tính theo giờ địa phương), sau
những lời tuyên bố của tướng Dương Văn Minh, các “trung tâm quyền lực”
Pháp vẫn còn nói rõ là “viên đạn hiện đang ở trong doanh trại của
CPLTCHMN”, Vài giờ sau đó, hồi 4 giờ sáng (giờ địa phương) thì dân
chúng Sài Gòn mới nghe được câu trả lời của cái gọi là CPLTCHMN, để đáp
lại phần bình luận vô cùng lạc quan đến không thể tin được về tài ngoại
giao của người Pháp: đó là một trận mưa rốc-kết xuống thủ đô của Miền
Nam Việt Nam ! Và phi trường Tân sơn Nhất tiếp theo đó bị tấn công bằng
đủ các loại pháo lớn.
Thứ Ba, ngày 29 tháng Tư, 1975 Đài phát thanh Mạc Tư Khoa đã mỉa mai
ghi nhận là :”tướng Dương Văn Minh trên thực tế không còn gì nữa để mà
trị vì”
Vài giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi những lời phát biểu của Tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu như sau : – “
Chánh
Phủ Việt Nam Cộng Hòa hoan nghênh việc thi hành Hiệp Định Ba Lê, đặc
biệt là các điều khoản 1, 4 và 9 đã qui định là Hoa Kỳ phải tôn trọng
những quyền tự do căn bản của dân tộc Việt Nam về vấn đề “quyền tự
quyết” của mình trong việc quyết định và chấm dứt mọi giao tranh quân
sự, cũng như mọi sự can thiệp vào nội bộ của Miền Nam Việt Nam ”
Lời tuyên bố công khai nầy dù sao cũng đã được nói lên tiếp theo sau một thông cáo đòi “
Đại
Sứ Hoa Kỳ, ông Martin, phải đóng cửa tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng
đồng hồ và đồng thời phải làm mọi cách để tất cả những người Mỹ còn lại ở
Miền Nam Việt Nam cũng phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam trong
thời hạn đó”.
Và ngay sau đó ông M.Martin đã tức khắc cho biết là ông sẽ làm đúng
theo lời đòi hỏi đó. Cuộc hành quân di tản những người Mỹ cuối cùng và
những người Việt Nam “có liên hệ” với Hoa Kỳ, theo kế hoạch đã được Ngũ
Giác Đài thiết lập, lẽ ra sẽ được tiến hành cho đến ngày thứ tư tuần
tới, 7 tháng 5 / 1975. Nhưng tình hình diễn tiến quá nhanh. Từ thứ hai
29/4, Tổng Thống Ford đã có một buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia. Cầu Không Vận đã được thiết lập để di tản người Mỹ và người
Việt Nam từ phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị ngưng trệ: nhiều loạt rốc-kết
và đạn pháo nặng 130 ly, kể cả bom, đã được nã vào căn cứ Không Quân lớn
nhất nầy. Ngoài 11 chiếc phi cơ của Miền Nam bị phá hủy do bị dội bom
vừa qua, còn có 1 chiếc phi cơ vận tải C.130 của Hoa Kỳ bị cháy dưới
đất. Một chiếc trực thăng của Miền Nam chở 40 binh sĩ Dù trên đường bay
đi Tây Ninh đã bị trúng một hỏa tiển, bị nổ tung và cháy trên không thật
khủng khiếp. Có nhiều đạn rốc-kết đã rơi vào Chợ Lớn, một thành phố mà
cư dân hầu hết là người Hoa kiều, nằm sát Sài Gòn. Một phóng pháo oanh
tạc cơ Skyraider có nhiệm vụ đánh bom vào các vị trí của các đơn vị Cộng
Sản Bắc Việt ở 7 cây số về hướng Tây Bắc Sài Gòn đã bị trúng một hỏa
tiển tầm nhiệt S.A.7. của Cộng Sản.. Và có nhiều cuộc chạm súng thật dữ
dội đang diễn ra trong vùng ngoại ô thành phố.
Hoa Thạnh Đốn không còn thời gian chờ đợi nữa. Và Tổng Thống Ford đã
ra lệnh cho Hạm Đội VII tiến hành ngay cuộc hành quân di tản.
Vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ ba nầy, thủ đô Sài Gòn thật là hỗn độn
không tả được. Người Pháp cư ngụ ở các khu nằm ở chung quanh thủ đô
cũng đã bị “xơi” đạn pháo binh Cộng Sản nên họ phải đổ dồn về trung tâm
Thủ đô tìm ở với bạn bè đồng hương, vì không thể vào tạm trú ở trường
trung học Saint Exupéry theo đúng chỉ thị trước đây của tòa Đại sứ Pháp
được. Vị hiệu trưởng trường nầy đúng ra phải chịu trách nhiệm đón tiếp
những người Pháp nầy nhưng ông lại không nhận họ, viện cớ là “không có
đủ dự trữ nước uống và lương thực để bảo đảm sự sống cho họ”. Tất cả
những người Pháp cư ngụ ở thủ đô gồm các giáo chức, các nhà trồng tỉa đã
rút về đây, các nhà buôn, chủ tiệm ăn hay giám đốc xí nghiệp, đều đã
treo cờ Pháp trước nhà ở, văn phòng, tiệm tùng v.v.. Có nhiều người Việt
Nam bắt chước họ. Tất cả đều tin rằng lá cờ tam tài của Pháp có thể cứu
được sanh mạng và tài sản của họ nếu có xảy ra những cuộc đánh nhau
trên các đường phố. Và bất thình lình cờ xanh trắng đỏ được treo rợp
trời vào những giờ bi thảm của một sự sụp đổ nầy đã làm cho một vài khu
vực của thành phố có một bộ mặt lạ lùng khác thường của một ngày lễ 14
tháng 7 của Pháp.
Nhưng hỡi ôi ! đây chỉ là một ảo ảnh! một ảo ảnh quá đau lòng che đậy
những dấu hiệu lo âu sợ sệt đang tràn ngập cả thủ đô Miền Nam vốn đang
rơi vào tình trạng vô trật tự và vô Chánh Phủ.
Trên xa lộ Biên Hòa trước khi đến cầu Sài Gòn mà gần đó là những căn
cứ tối tân nhất của bến Tân Cảng, có 50 binh sĩ Dù dưới sự điều động và
chỉ huy của một đại úy, đang đánh nhau từ chiều thứ hai với một toán đặc
công để cố ngăn cản không cho họ đến được dạ cầu. Đặc công Cộng Sản đã 5
lần chiếm được cầu và cả 5 lần binh sĩ Dù đã chiếm lại cầu. Trên 50 xác
Cộng Sản Bắc Việt nằm đầy trên đường, mình mẩy đầy vết đạn, gần như họ
đã chết rồi mà vẫn còn bị tiếp tục ăn đạn của binh sĩ Miền Nam quá hăng
say và quá cẩn thận !
Bất chấp chiến trận đang diễn ra, một đám đông dân chúng, đông như
một đàn kiến đếm không xuể, đã tràn vào chiếm các kho hàng của Tân Cảng
để cướp bóc hôi của. Đó là đám dân đen khốn khổ ở các đồng lầy, đói
khát, và háu ăn. Họ chia ra làm 2 đoàn rõ rệt, những người mới tới, tay
không, và những người trở về mang đầy chiến lợi phẩm. Năm trăm người ?
một triệu người ? Không một ai có thể đếm được một cách chính xác, phần
lớn là đàn bà và trẻ nít, có rất ít đàn ông… họ càn quét đủ mọi thứ các
kho đầy ấp hàng viện trợ Mỹ. Đám đông xô đẩy nhau để chạy đến nơi cướp
bóc, giẫm bừa lên các xác chết của bọn đặc công Cộng Sản làm bật lên
tiếng kêu răn rắc của xương gãy như cành cây khô ! Để trở về, đám đông
dân chúng nầy phải vượt qua sông, lội lõm bõm trong bùn. Một em bé
khoảng 10 tuổi đầu toàn thân đầy bùn đen và thối, nhưng tay vẫn đưa cao
một bó cao su xốp rửa chén ! Hai bé gái khá hơn quần áo cũng đầy bùn
sình, mang một số nấm, pa-tê và trái cây đóng hộp. Một người đàn bà thu
nhặt được hai bịch thuốc lá thơm và một máy xay sinh tố. Một anh bạn
khác thì khệ nệ bê một cách khó khăn một thùng sốt cà chua. Một “chợ
chồm hổm” được tổ chức ngay bên đường: người ta mua bán, trao đổi trong
cơn sốt tiền bạc ngay trong một ngày có quá nhiều khủng khoảng quân sự
lẫn chánh trị. Binh sĩ trên các quân xa phải bắn chỉ thiên mới vạch
được lối đi cho đoàn xe. Tấn thảm kịch sắp buông màn, chấm dứt. Còn
chưa phải là một sự hoảng loạn nhưng là một cuộc tháo chạy toàn bộ…
Từ sáng nay, không một nhà báo nào còn được một tin tức gì từ giới
chức có “thẩm quyền quân sự” về tình hình, vì một lẽ rất đơn giản là các
giới chức nầy không còn ở đó nữa hoặc họ đã bị “mất chức” không biết
lúc nào.Tướng Minh đã cách chức tướng Bình, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát và An
Ninh Quân Đội. Kết quả là sáu chục ngàn (60.000) cảnh sát và mười ngàn
cảnh sát đặc biệt (10.000, hầu hết là các binh sĩ có tuổi từ các binh
đoàn thiện chiến), đang kiểm soát thủ đô, đã không còn ai để chỉ huy và
ra lệnh cho họ.
Vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miền Nam được thay đổi 3 lần trong
vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày hôm kia là tướng Cao Văn Viên, nhưng ông đã ra
đi cùng vị Tham Mưu Phó lẽ ra phải thay thế ông mới đúng. Ngày hôm qua
là tương Nguyễn Văn Minh, nhưng ông chỉ ngồi đó có mấy giờ trước khi
xách va-li chuồn mất. Chiều hôm qua là tướng Thiết Giáp Vĩnh Lộc, một
cây rượu mạnh, anh em họ hàng với cựu hoàng đế Bảo Đại. Ông ta đã cổ võ
binh sĩ trên đài phát thanh và yêu cầu họ đừng “chạy như chuột giống như
Tổng Thống Thiệu”.
Nằm gần sân bay Tân Sơn Nhứt, là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng giờ nầy rất
là vắng vẻ, chỉ thấy còn lưa thưa ra vào một vài sĩ quan cấp tá. Các
viên chức thì còn ở nhiệm sở nhưng không một ông tướng nào còn trả lời
khi điện thoại reo cả ở trong văn phòng hoặc ở nhà. Trên trận địa, các
đơn vị trưởng nào còn tiếp tục chiến đấu thì từ đây phải tự lo liệu lấy
cho mình thôi.
Ở trung tâm Sài Gòn, đột nhiên sự căng thẳng lên cao độ, vì mọi người bây giờ đều biết là người Mỹ sẽ bỏ đi hết.
Cuộc hành quân di tản của Hoa Kỳ bắt đầu từ 11 giờ. Người Mỹ và những
người “bạn” Việt Nam nào đã được giới chức ngoại giao Hoa Kỳ báo trước
đều nhận được lệnh phải đến tập trung ở 13 điểm hẹn đã được dự trù từ
trước: các sân thượng hoặc các vườn chơi công cộng. Và cuộc di tản bằng
trực thăng bắt đầu. Các chiếc trực thăng vận tải loại lớn của Thủy Quân
Lục Chiến từ Hạm Đội VII, các trực thăng riêng của Trung Ương tình báo,
và trực thăng màu trắng bạc của hãng Hàng Không Hoa Kỳ (Air America)
bay là là trên các nóc nhà trong thành phố, có trực thăng võ trang
(trang bị rốc-kết và đại bác tự động) bay theo yễm trợ. Trên không phận
lại có các chiến đấu phản lực cơ “Phantoms” lúc nào cũng sẵn sàng can
thiệp, nếu cần. Ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ người ta hấp tấp đốt các hồ sơ lưu
trữ cuối cùng. Ngay trên nóc tòa Đại Sứ các trực thăng Huey đáp xuống
bay lên trong khỏang thời gian cách nhau rất đều.
Tò mò đứng từ các nhà chung quanh để quan sát, thì đây là một cảnh
tượng hết sức lạ lùng. Phía trước những chiếc xe du lịch đến đậu sát
hàng rào sắt của tòa đại sứ, các chú tài xế mặc áo gi-lê chống đạn nhưng
đầu vẫn không quên đội mũ cát kết trắng, vì các viên chức Việt Nam vẫn
nhất định phải tôn trọng lễ nghi cho đến cùng. Không biết các anh tài xế
nầy sẽ nghĩ gì sau khi các ông chủ của họ đã lên trực thăng và họ phải
quay về các khu vực bình dân giữa những tiếng nổ của đạn rốc-kết?
Người Mỹ rời khỏi Sài Gòn bỏ lại xe của họ đầy đường. Tức khắc, có
những toán tháo gở từ vùng ngoại ô đến “làm thịt” ngay tại chỗ. Thời
gian cứ thế trôi qua và lần lần đám người tụ tập trước cửa rào của tòa
đại sứ cáng ngày càng đông, họ bu quanh sát tường và có người còn có ý
định trèo qua tường để vào bên trong tòa đại sứ. Trong số người cố bám
vào tường như những chùm nho với niềm hy vọng cuối cùng có thể “chạy”
khỏi đây để tìm tự do…, người ta thấy có đủ mọi hạng người, sinh viên,
công chức, lính cứu hỏa với mủ đồng còn trên đầu, các cô gái ăn sương,
các bà mẹ trẻ bồng con đưa lên thật cao, coi như họ trình lên một mẫu
giấy thông hành sống là các chú bé con lai mà cha của chúng là một anh
lính Mỹ da trắng hay da đen tóc nâu hay tóc đỏ nào đó… Các binh sĩ Thủy
Quân Lục Chiến canh gác vẫn bình thản và lạnh lùng dùng báng súng đẩy
đẩy họ ra.
Một cảnh tượng thiểu não khác đã xảy ra bên lề đường. Tướng Đặng Văn
Quang, mà mọi người đều tố cáo là kẻ cầm đầu đường dây buôn lậu ở Miền
Nam, lại không được có tên trong danh sách di tản do Hoa Kỳ thiết lập.
Khi ông ta đến trình diện trước cổng tòa đại sứ, binh sĩ canh gác đuổi
ông ra. Ông mới chạy lại gặp nghị sĩ Nguyễn Văn Ngãi để van nài giúp đỡ
ông ta được trực thăng bốc đi. Có ai ngờ được, một ông cựu cố vấn quân
sự của Tổng Thống, một người đầy ngạo mạn và kiêu căng chểm chệ tác oai
tác phúc hằng mấy năm liền ở Dinh Độc Lập, giờ đây chỉ còn là một đống
mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết lạy van, cầu khẩn rồi lại viện dẫn đến
mạng sống của vợ con và của chính bản thân ông sẽ bị Cộng Sản giết v.v…
xuống nước, kính cẩn, khúm núm van xin.. Động lòng thương hại, nghị sĩ
Ngãi đưa ông ta cùng đi với mình, cẩn thận không nói rõ tên họ ông ta là
ai, nghị sĩ Ngãi mới đưa ông ta lên được trực thăng.
Nhìn từ bên ngoài, với đám đông người khốn khổ đang khóc lóc, kêu la,
cầu xin một lối đi để ra khỏi hỏa ngục nầy, cuộc hành quân di tản nầy
coi như rất ồn ào náo nhiệt và vô trật tự. Nhưng đối với những người đã
được vào khuôn viên tòa đại sứ rồi, thì sẽ thấy bô máy di tản hoạt động
hết sức chính xác. Các hành khách được đưa lên lầu thượng, từng toán 3
người một, đưa lên trực thăng (chở được 12 người một chuyến). Từ đó bay
thẳng qua phi trường Tân Sơn Nhứt. Ở đây họ được đưa vào các dãy nhà
thuộc Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ, trên nóc vẫn phất phơ lá quốc kỳ
Mỹ. Các dãy nhà nầy lẽ ra là mục tiêu rất tốt của Cộng Sản, nhưng vẫn
còn nguyên xi, không hề hấn gì. Mặc dầu lửa đạn gần suốt đêm qua trong
khu vực phi trường, nhưng hình như các dẫy nhà nầy được Cộng Sản cố ý
chừa ra. Có nhiều trực thăng vận tải “Chinook” đến từng toán 4 chiếc
một, mỗi toán đỗ xuống một đại đội Thủy Quân Lục Chiến trang bị đại bác
không giật và hỏa tiễn chống chiến xa với đầu đạn “Tows” có hồng ngoại
tuyến. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm giữ an ninh cho khắp cả vùng
di tản. Mỗi chiếc “chinook” sau khi đổ Thủy Quân Lục Chiến và quân dụng
xuống rồi thì bốc luôn 45 hành khách Việt Nam, xong mới bay đi.. Thời
gian bay khoảng 1 giờ đến các chiến hạm của Hạm Đội VII và trên 20 chiếc
tàu vận tải đang đậu chờ rước họ ở 30 cây số ngoài khơi bờ biển Việt
Nam ngoài tầm tác xạ của pháo binh Cộng Sản Bắc Việt Hành trình không
gặp một trở ngại nào. Không có một viên đạn, một hỏa tiễn, một trái đạn
pháo binh nào được bắn đi từ dưới đất lên các trực thăng to lớn đang nối
duôi nhau rất đều đặn bay ra biển để đáp xuống một trong hai hàng không
mẫu hạm, chiếc Hancock hoặc chiếc Okinawa, từ đó họ đã cất cánh bay vào
Sài Gòn.
Sau khi đặt chân xuống các chiến hạm rồi thì người Việt Nam ai cũng
bị các binh sĩ Mỹ rất đứng đắn nhưng cũng rất lạnh lùng khám xét trong
người thật kỹ, để được bảo đảm là họ không có mang theo vũ khí, ma túy
hay các loại y dược nguy hiểm. Sau đó họ mới được chuyển xuống các
thuyền cao su hay thuyền máy để đưa họ sang các tàu vận tải. Các thuyền
máy nầy chạy qua chạy lại như con thoi giữa các các chiến hạm. và các
tàu vận tải. Và các tàu vận tải nầy sẽ đưa họ về các trại định cư ở đảo
Guam. Có nhiều chiếc tàu vận tải nầy được Hạm Đội gọi trở lại cả ban đêm
để “vớt” những người tỵ nạn Việt Nam khác đang lênh đênh ngoài biển cả
cách bờ biển Việt Nam hàng trăm cây số, trên các tàu đánh cá, các thuyền
buồm thô sơ, có đèn đốt sáng rực, người trên thuyền dùng đuốc và đèn
bấm, đèn lồng.. vừa vẫy gọi, vừa chạy lại các tàu chiến của Mỹ. Tất cả
các làng đánh cá dọc theo bờ biển từ Phan Thiết đến Bình Tuy đều ra khơi
và kêu cứu. Có hơn 20.000 dân tỵ nạn được đưa lên tàu và được cứu khỏi
nanh vuốt của Cộng Sản.
**** Tại Sài Gòn lưu lượng trực thăng của Mỹ vẫn tiếp tục đều đặn,
không ngừng.. ồ ạt bay suốt buổi chiều. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ có` đến
trên 20.000 người đang chen chúc nhau đứng chờ với va-ly cầm ở tay, và
nước mắt ràn rụa. Có một số người vào được cổng sắt và được bốc đi. Có
nhiều người dí hằng xấp đô la vào mũi các anh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ
nhưng họ vẫn lạnh lùng không lay chuyển.
Có hằng trăm xe chở đầy người mở còi nhấn kèn inh ỏi chạy vào phi
trường Tân Sơn Nhất, nhưng không có một chiếc phi cơ nào cất cánh. Và
trước cổng phi trường quân cảnh đã có thiết lập một hàng rào cản có bố
trí súng liên thanh. Lại có hằng ngàn người chạy xuống bến cảng để cố
gắng nhảy theo các tàu chiến, tàu buôn hay xà lan hoặc bất cứ một chiếc
thuyền nào đó để chạy khỏi thành phố nầy bằng đường sông.
Có khoản 200 người vừa sĩ quan vừa công chức hay con buôn xuống được
một chiếc tàu hàng còn tốt đang nhổ neo lúc 3 giờ chiều để chạy ra biển.
Họ không đi xa hơn được vì vừa mới qua khỏi Nhà Bè thì chiếc tàu bị
trúng đạn pháo, nổ tung và chìm. Những người may mằn còn sống sót lội
vào bờ lại bị cắt cổ hoặc bị súng liên thanh bắn chết hết. Dĩ nhiên đô
la và vàng họ mang theo đều bị vét sạch.
Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần Văn Đôn và con trai ông ta, một
bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài giờ, rất lịch sự
như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ Pháp… và luôn tiện cũng
để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có một vài
lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn
khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá
rất đắc lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp. Ông đã
trực tiếp thúc đẩy tướng Dương Văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng
Viện ông đã có một buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự.
Có một lúc nào đó, ông M. Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ
Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ hai, chấn động vì sự chống đối nhau
giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam, tướng Đôn đã có ý định tự tử.
Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an ủi…nên cuối cùng đã
quyết định nhờ Mỹ đưa đi. Trước khi lên trực thăng, tướng Đôn đã nói với
toán binh sĩ cận vệ của ông, những người đã không rời khỏi ông nửa
bước, rằng : “Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn Cộng Sản mà tóm
được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh, các anh
chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết… và các anh có thể lẫn
lộn được trong dân chúng.” Mấy anh binh sĩ nầy với gương mặt rắn rõi,
nắm chặt tay lại buồn bã nhìn chiếc trực thăng cất cánh mang theo ông
cựu tổng trưởng Quốc Phòng của mình lòng nặng trĩu không biết vì tức
giận hay vì khinh bỉ…
Không phải chỉ có một tướng Trần văn Đôn là sĩ quan cao cấp đã rời
khỏi Miền Nam Việt Nam. Đã có gần 60 vị tướng lãnh khác ra đi như vậy.
Như trung tướng Vĩnh Lộc, mới vừa sáng hôm qua đây đã từng kêu gọi binh
sĩ “đừng có trốn chạy như chuột” ; như tướng Bùi Thế Lân, một vị chỉ huy
của Thủy Quân Lục Chiến, một người hùng đã rút quân bằng đường bộ từ Đà
Nẵng về Sài Gòn vừa lui binh vừa đánh du kích ; như trung tướng Trưởng,
Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật; tướng Thắng, thuộc binh chủng Pháo Binh,
một cử nhân toán học và vô địch cờ, như tướng Toàn, tư lệnh Vùng III
Chiến Thuật, người đã giữ vững trong 4 tuần lễ mặt trận Miền Đông của
Sài Gòn; như tất cả các giám đốc An ninh và Tình Báo Quân sự, như vị Tư
lệnh Không quân; như tướng Lưỡng thuộc sư đoàn Nhảy Dù, người luôn luôn
được binh sĩ của mình ái mộ…. và tướng “thần phong” râu kẽm Nguyễn Cao
Kỳ, người đã từng thề sống chết với khẩu súng trên tay, và người đã chê
Tổng ThốngThiệu là quá nhát gan….
Ngo Quang Truong & Nguyen Cao Ky tren USS Midway
Tuy nhiên, cũng có một số người đã thẳng thừng từ chối không rời khỏi
vị trí chỉ huy và binh sĩ của mình khi được các tùy viên quân sự của
tòa đại sứ Mỹ trực tiếp liên lạc hay kêu gọi qua điện đài. Đó là Tướng
Nguyễn Khoa Nam, người có trách nhiệm phòng giữ đồng bằng sông Cửu Long,
Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, người đã giữ vững Xuân
Lộc và là người đã trả lời :“Các binh sĩ của tôi đã hăng say chiến đấu,
làm sao tôi nỡ bỏ họ được để đi trong lúc họ rất cần sự có mặt của tôi
bên cạnh họ ?”, Tướng Lý Tòng Bá, người chống giữ mặt trận phía Bắc, một
tướng Kỵ Binh Thiết Giáp, Tướng Lê nguyên Vỹ, người đã chiến đấu với
phần còn lại của sư đoàn 5 bộ binh ở Trảng Bom, Tướng Phú đang bị phạt
giam, người đã tuyên bố với vị Cố vấn Hoa Kỳ khi ông nầy đến tìm rước
ông đi : – “
Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công
khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần….. và ông ta đã
ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn sẳn….
Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở lại
vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc
của ông ta mà thôi”
**** Thủ đô Sài Gòn đã về đêm. Ở vài cây số về hạ lưu sông Sài Gòn,
để tránh những kẻ tò mò, có mấy chiếc tàu xà-lan đang bốc hằng ngàn
người toàn là đàn bà và trẻ con thuộc gia đình của anh em Hải Quân. Các
xà-lan nầy được các tàu lớn kéo đi, có thuyền máy võ trang hay các tàu
phóng ngư lôi hộ tống ra biển, ở đó có trên 30 chiếc tàu đang chờ họ.
Tất cả các tàu chiến thuộc các đơn vị lớn của Hải Quân Miền Nam Việt Nam
đều rút hết về đảo Guam.
Trong bầu trời tối đen như mực của thủ đô, những chiếc trực thăng Hoa
Kỳ với đầy đủ đèn hiệu sáng rực của mình đã dùng đèn pha chiếu thẳng
thành những vệt dài sáng rực cắt đứt hẳn màn đêm. Ở dưới đất thì những
cọc tiêu và những đèn rọi đánh dấu các nóc nhà mà trực thăng sẽ đáp
xuống bốc người đi.
Trên các sân thượng khác lại có những kẻ đau khổ lo âu đang đốt những
cuộn giấy hay giẽ có tẩm dầu. họ hy vọng lửa sẽ dẫn dụ được những con
chim sắt khổng lồ đến bốc họ ra khỏi nỗi lo sợ của họ và đưa họ ra khơi…
cốt chạy khỏi bọn Cộng Sản…. nhưng vô hiệu.
Đại sứ Graham Martin, người đánh giá cuộc hành quân di tản như là một
việc “không ra gì” thì muốn ở lại Sài Gòn và chết ở đó. Ông ta chỉ phải
rời khỏi thành phố nầy lúc 4 giờ sáng theo lệnh bắt buộc của Kissinger.
Với một tâm trạng đảo điên, quá mệt mỏi (ông thức suốt 72 giờ liền),
ông đáp xuống hàng không mẫu hạm “Blue Ridge” đang nằm chờ ông xa tít
ngoài biển cả… sau đó ông vào phòng đóng cửa lại ngay để không cho ai
thấy được nỗi thất vọng của mình.
Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng ra đi vào lúc rạng đông
sau khi đã phá hủy hết các dụng cụ điện tử ở tòa đại sứ và không quên
mang theo lá quốc kỳ. Mười tám ngày sau khi di tản khỏi Phnom Penh, Hoa
Kỳ lại rời khỏi Việt Nam bỏ lại một thành phố Sài Gòn mặc cho nỗi lo sợ
và những tai họa sẽ dồn dập đến với nó.
Hoa Kỳ chỉ có để lại nhà trống, vài nhà báo (vì họ muốn ở lại) và
khoảng 50 người có quốc tịch bị bỏ quên. Tức khắc các nhà đó đều bị cướp
phá. Trong khi còn những ánh lửa đỏ rực bay trên nền trời thủ đô và
các vùng chung quanh thành phố, đã có hàng trăm hàng ngàn người, vừa đàn
ông đàn bà và trẻ nít đua nhau “làm thịt” tất cả các vật dụng chết của
tất cả các nhà vô chủ thuộc người Mỹ trong dĩ vãng…. Từ những chiếc nệm
giường, tủ lạnh, máy đánh chữ, máy giặt máy sấy, máy rửa chén, máy thâu
thanh, truyền hình, máy ảnh, máy quay phim, quạt trần, quạt máy, điện
thoại, cho đến từng cuộn giấy vệ sinh… thượng vàng hạ cám không bỏ sót
một vật gì, vì món nào cũng là tốt… xài được hết. Từ trước đến giờ lúc
nào Chánh Phủ cũng nghiêm cấm mọi hành động cướp bóc, và tuyên bố là sẽ
xử bắn tại chỗ những kẻ hôi của cướp bóc. Nhưng bây giờ thì những người
lẽ ra có bổn phận phải xử bắn kẻ cướp lại đi về hùa với kẻ cướp để kiếm
chút chiến lợi phẩm cho mình.
Từ bên lề cuộc hành quân di tản ồ ạt của người Mỹ, từ những người quá
thất vọng cứ điên cuồng chạy rong cùng khắp, từ những tiếng gầm thét
của pháo nặng 130 ly Bắc Việt đang nã vào xóm làng công giáo ở Hố Nai và
những vùng lân cận, trong những giờ phút cuối cùng của ngày thứ ba cuối
tháng 4/75 nầy, Sài Gòn đã sống trong một hậu trường chánh trị quá sôi
động, không đo lường nổi một lối thoát khó tránh được của biến cố, nhưng
nhờ vậy người ta mới có thể thấy và hiểu thêm được không khí lố bịch
trong địa hạt chánh quyền mấy giờ trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
Một nhóm người bất mãn qui tụ các vị lãnh đạo giáo phái, một số đại
tá trẻ có liên lạc với các đơn vị còn đang chiến đấu và Phó Đô Đốc Chung
Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân… không tin tưởng khả năng và cơ may của tướng
Dương Văn Minh có thể đi tới cuộc thương thuyết được với bọn Cộng Sản.
Họ sẳn sàng đứng lên lật đổ tướng Minh để phòng thủ Sài Gòn và vùng đồng
bằng sông Cữu Long và tổ chức kháng chiến với bất cứ giá nào. Họ cũng
đã có dự trù sẵn một người để thay thế tướng Minh nếu cần.
Vào hồi 12 giờ 5 phúr trưa rgày thứ ba 29 tháng 4 nầy, một đoàn xe 3
chiếc Jeep với 12 binh sĩ đã hộ tống Phó Đô đốc Chung Tấn Cang có ủy
quyền của các đơn vị còn đang chiến đấu và một đại diện có thẩm quyền
của Phật Giáo Hòa Hảo thay mặt cho các giáo phái ở Miền Nam, đã đến gặp
tướng Minh tại nhà riêng của ông ta. Phó Đô đốc và vị lãnh đạo giáo
phái hùng mạnh Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây đã vào tới phòng khách lớn
của tướng Minh. Ông ta đang chờ hai vị nầy ở đó, có vẻ rất mệt mỏi, với
cặp mắt đầy âu nhấp nháy của một người hoàn toàn vừa bối rối vừa mất ngủ
từ hai ngày nay. Ông ta quá xúc động và bất ngờ về chuyện Cộng Sản ném
bom vào phi trường chiều ngày hôm qua. Ông thú thật với hai người khách:
-” Tôi rất nản lòng. Tôi đã nhận được những bảo đảm từ phía “bên kia”,
đại sứ Pháp đã xác nhận với tôi là Chánh Phủ Pháp đã có một kế hoạch
“hòa bình”, và tôi sẽ có một thời gian là 6 tháng để thương thuyết. Ông
ta đã thúc đẩy tôi phải từ chối không nhận chức vụ Thủ Tướng và phải cố
đòi cho được ghế nguyên thủ quốc gia. Tôi đã theo đúng những lời khuyên
bảo của ông ta. Tôi lại còn thỏa thuận để soạn thảo với ông ta một bản
tuyên bố nói rằng “nước Pháp phải giữ một vai trò quan trọng trong tiến
trình tái lập hòa bình” ở đây. Và sau đó thì có cuộc dội bom. Chỉ một
vài phút sau khi tôi nhận nhiệm vụ. Thật là một điều lăng nhục không thể
chịu được.
” Tướng Minh lắc đầu hai ba lần và chua chát ông
nói tiếp: – ” Ông Mérillon không còn lý gì đến tôi nữa! Ông ta đã đến
đây gặp tôi sáng nay. Và đây là tất cả những gì mà ông có thể nói được
và nhắc lại với tôi:” rằng ông ta không còn một giải pháp chánh trị nào
nữa hết…., không còn kế hoạch nào nữa hết.. và rằng các đơn vị Cộng Sản
Bắc Việt đã tiến đến rất gần thủ đô rồi và rằng chỉ còn cách tốt nhất là
nên đơn phương ra lệnh cho bên mình ngưng bắn mà thôi.” Đó là tất cả
những gì đại sứ Pháp đã nói với tôi sau khi đã bảo đảm với tôi trong bao
nhiêu ngày liên tiếp rằng kế hoạch của nước Pháp đã được “phía bên kia”
chấp thuận rồi ! ” – Và ông đã trả lời cho ông ta ra sao ? Phó Đô Đốc
hỏi Tướng Minh nhỏm dậy một lúc, cặp mắt đờ đẫn; – ” Tôi đã nói là:
tôi không thể ra lệnh cho binh sĩ đầu hàng vô điều kiện như vậy được.
Trái hẳn với danh dự… Dù sao thì tôi cũng từng là sĩ quan của quân đội
Pháp
” Vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo xẳng giọng chen vào: –
“Người Pháp là người Pháp. Còn ông là người Việt Nam, là nguyên thủ quốc
gia và có trách nhiệm với tương lai của đất nước. Ông đã nói với Tổng
Thống Hương, và mới đây ông cũng đã nói với chúng tôi là ông đã có nhận
được bảo đảm của “phía bên kia”. Vậy ông đã có liên lạc gì với Cộng Sản,
và họ đã bảo đảm với ông những gì? Tướng Minh dụ dự một lúc hình như
ông muốn nói ra, nhưng sau đó ông cứng rắn trả lời – “Tôi không thể cho
ông biết những chi tiết ngay bây giờ được”. Vị đại diện của Phật Giáo
Hòa Hảo đưa một ngón tay chỉ ngay ông Minh và nói gần như tố cáo – “
Không
phải chỉ có một mình ông thất vọng và bọn Cộng Sản nuốt lời đâu. Còn có
sự ngầm phá hoại đê tiện của người bạn của ông, là tướng Trần Văn Đôn,
đối với tinh thần của quân đội và của Quốc Hội. Trước hết ông ta đã bịp
Lưỡng Viện Quốc Hội để họ ra một quyết định trao quyền cho ông và cho
ông có toàn quyền hành động. Ông ta đã vận động can thiệp trước khi Quốc
Hội bỏ phiếu bằng cách trình bày cho Quốc Hội một bản thuyết trình gian
dối về tình hình quân sự, thổi phồng lực lượng Cộng Sản Bắc Việt mà
theo ông ta thì họ đã bao vây Sài Gòn rồi. Không duới 14 sư đoàn Bắc
Việt – con số nầy ông đã lập đi lập lại nhiều lần sau đó qua điện thoại
cho từng người trong lúc Quốc Hội đang thảo luận để quyết định cho lá
phiếu của mình.. Nhưng các con số đó không đúng. Chỉ có vỏn vẹn 4 sư
đoàn Cộng Sản đang trực tiếp đe dọa chúng ta từ mặt trận phía Đông. Các
sư đoàn khác thì còn cách đây ba bốn ngày đường và trên đường tiến quân
của họ, họ còn phải gặp 2 sư đoàn nguyên vẹn của ta còn đang chiếm giữ
trận địa. Các vị trí ở hướng Bắc thủ đô được tăng cường rất mạnh. Đồng
bằng sông Cữu Long vẫn chưa có hề hấn gì và chúng ta còn đến 6 sư đoàn
không kể gần trăm ngàn thuộc lực lượng địa phương quân. Tướng Đôn còn từ
khước không chịu cấp phát võ khí cho lực lượng Hòa Hảo, Cao Đài và Công
Giáo khi họ muốn chiến đấu. Chúng tôi có thể cung cấp thêm hàng trăm
ngàn người để chống giữ đất nước. Hãy mở cửa kho vũ khí cho chúng tôi.
Hảy hiệu triệu quốc dân đồng bào. Cần phải xác nhận quyết tâm của chúng
ta để phòng thủ Sài Gòn. Nếu ông muốn cuộc thương thuyết có được chút cơ
may thắng lợi, thì chớ nên ra lệnh vứt súng xuống hay nói rằng chúng
tôi đã ngừng bắn rồi ! Nếu ông không muốn kháng cự nữa thì hãy nhường
chỗ lại cho một nội các cứu quốc, hoặc là quân nhân và các giáo phái
chúng tôi sẽ tiến hành một cuộc đảo chánh.”
Tướng Minh ra vẻ suy nghĩ. Hiển nhiên là ông đã đi sau tình hình rồi.
Ông nhìn Phó Đô Đốc Cang như hỏi ý. Phó Đô Đốc Cang khẳng định: –
“Quân đội không muốn đầu hàng! – Tôi cũng không muốn như vậy. Tôi là
một quân nhân, và tôi không sợ chết. Và tôi rất chán cái màn hài bịch
nầy lắm rồi. Bây giờ thì tôi thấy là tôi đã bị lừa, và người ta đã lợi
dụng tôi! Tôi sẳn sàng rút lui, với điều kiện là phải tìm được một cái
đầu thật sự biết làm chánh trị.
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo đưa ngay lá bài ra: – “Đây, cái đầu đó
có đây rồi:đó là ông thủ tướng Trần Văn Hữu. Các giáo phái sẽ ủng hộ
ông ta vì ông ta luôn luôn có một đường lối chánh trị khoan dung đối với
họ. Các sĩ quan sẽ theo ông vì chính ông đã thành lập quân đội quốc gia
năm 1951, khi ông ta là Thủ tướng của nước Việt Nam. Bộ chánh trị của
Hà Nội biết ông ta và đánh giá cao ông ta. Ông ta là một nhân vật của
Quốc Gia có kinh nghiệm và là một người Miền Nam chính cống. Hãy kêu gọi
ông ta!
Ông Minh có vẻ nghe theo đề nghị nầy. Và ông nói với một giọng thành
thật: – “Tôi biết ông ta nhiều. Tôi đã từng là sĩ quan tùy viên của
ông. Tôi kính trọng ông. Và tôi biết là các công chức vẫn giữ nhiều kỷ
niệm tốt về ông: vào thời kỳ ông làm Thủ tướng, mọi người đều được trả
lương hậu hỉ và đồng bạc Việt Nam rất có giá.
Phó Đô Đốc Cang tiếp lời: – “Vậy thì hãy gởi cho ông một công điện đi.
Tướng Minh gật đầu và nói; – “Rất đồng ý. Tôi sẽ tuyên bố trên đài
phát thanh và đài truyền hình trong một giờ nữa. Chúng ta hãy cùng nhau
thảo bản tuyên bố nầy đi.” Bản tuyên bố viết : “Tôi yêu cầu ông Thủ
Tướng Trần văn Hữu, một người yêu nước chân thành và đáng kính, hãy chấp
nhận lãnh đạo đất nước và đưa đất nước đến con đường hòa bình chân
chính và trong danh dự.”
Lúc nầy đã 13 giờ hơn. Hai người khách của ông Minh đứng dậy. Ông
Minh tiễn họ ra ngoài cổng, thân mật bắt tay và còn nói : – “Tôi sẽ
tuyên bố công khai, Tôi hứa với các ông như thế” Phó Đô Đốc Cang trả
lời: – “Phần tôi, tôi sẽ lo các chuyên viên truyền hình và truyền thanh
để phối hợp loan báo lời tuyên bố của ông”.
Phó Đô Đốc Cang và vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo sau đó đi ngay đến
Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Phó Đô Đốc gọi ngay được các chuyên viên cần thiết
cho công tác truyền thanh và truyền hình. Vào lúc 14 giờ trưa thì tất cả
sự bố trí về mặt kỹ thuật và chuyên viên đều đã sẳn sàng.
Nhưng, tướng Minh không đến. Thật ra, sau khi ông bắt tay từ giả 2
người khách, thì ông bước ngay sang phòng bên cạnh với những người cộng
sự chánh yếu của ông là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông Tin Lý
Qúy Chung, những người nầy đã ngăn không cho ông trao quyền lại cho ai
hết.
Nhất là ông Vũ Văn Mẫu, đặc biệt đã tỏ ra rất là cay đắng khi ông xác
nhận: – “Tất cả các điều kiện của họ chúng ta đã thực hiện, để có thể
mở ra một cuộc nói chuyện với “phía bên kia”. Người Mỹ đã đi khỏi nước
Việt Nam hết rồi. Tôi đã loan báo là tất cả bộ máy hành chánh từ trung
ương đến địa phương sẽ nhanh chóng được cải tổ để cho hợp với một chế độ
tự do thật sự. Ông Trần văn Hữu ở tận Ba Lê, mà không có một phi cơ nào
có thể hạ cánh lúc nầy được. Chúng ta có chánh quyền và chúng ta phải
giữ nó. Phía những người cách mạng sẽ chấp thuận thương lượng cho một
thỏa ước. Tôi tin chắc như vậy.” Trong cuộc thương thuyết mà ông dự trù
với “phía bên kia”, ông Vũ Văn Mẫu định xử dụng lá bài chủ: “sự ra đi
của tất cả người Mỹ”, điều mà ông ta đã bắt buộc họ phải rời khỏi nước
Việt Nam.
Nhưng khổ cho ông, là ông không hề biết là con bài đó đã không còn nằm trong tay ông nữa.
Vì “người Mỹ phải rút hết khỏi nước Việt Nam” đã là đề tài của một thỏa hiệp bí mật giữa Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội từ lâu rồi!
Tại Bộ Tư Lênh Hải Quân, Phó Đô Đốc Cang vẫn tiếp tục chờ đợi… Đã hai
lần ông cố gắng gọi tướng Minh, nhưng cả hai lần, ở Dinh Độc Lập và cả ở
tư dinh người sĩ quan tùy viên đều mhanh nhẩu trả lời lạnh lùng: “Ông
Trung tướng Tổng Thống không có ở đây”!
Đến 16 giờ, Phó Đô Đốc Cang mới quyết định báo động cho đại sứ Pháp
để nhờ ông chuyển về Ba Lê qua hệ thống vô tuyến điện, lời mời của trung
tướng Dương Văn Minh đến ông Trần văn Hữu. Nhưng tổng đài điện thoại
của Tòa Đại sứ trả lời là “ông Đại Sứ đang bận họp”. Phó Đô Đốc Cang gọi
lại 3 lần nhưng cả ba lần đều nhận được câu trả lời thoái thác tương
tự, có nghĩa là họ không muốn tiếp. Bực tức và phẫn nộ, Phó Đô Đốc Cang
gác điện thoại xuống một cách giận dữ và tức tối càu nhàu: – “Cái anh
mất dạy Mérillon nầy (nguyên tác “Ce salot….de Mérillon”) không muốn
dính vào nữa rồi đây. Khi mà mọi việc êm xuôi thì ông ta đi đến đây ngay
để gặp mình, hay cho xe riêng đến đón mình. Bây giờ thì anh lại nhờ một
anh “lon ton” đưổi khéo mình !”
Còn vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo thì rời khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi
thẳng tới gặp các thành viên của mình đang họp tại một biệt thự gần nhà
ga Sài Gòn. Vào buổi chiều ông điện thoại cho Phó Đô Đốc Cang, nhưng
ông nầy đã rời khỏi Bộ Tư Lệnh để đi tổ chức cho các tàu chiến của mình
rút ra biển.
Liên lạc giữa 2 người mất từ lúc đó.
Đến 9 giờ tối, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo nầy lại đến nhà tướng
Minh ở đường Chasseloup Laubat một lần nữa. Nhưng ông thấy vị nguyên thủ
quốc gia Miền Nam lúc bấy giờ lại tỏ ra đần độn hơn buỗi trưa nay nữa:
– “Tôi chẳng biết làm gì bây giờ. Nhưng tôi không thể nào ra đi lúc
nầy. Tôi phải ngồi lại cho đến cùng…. để bảo vệ dân chúng và thủ đô khỏi
bị tàn phá.” Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo buông ra một câu hơi chối
tai : – “Ông là người không biết giữ lời hứa. Ông không có đến đọc lời
tuyên bố của ông trên đài phát thanh. Nhưng ông còn có thể làm việc đó.
Ông hãy bốc điện thoại lên và gọi ngay ông Hữu ở Ba Lê. Ông dừng có do
dự nữa…
Tướng Minh nhún hai vai: -”Đã quá muộn rồi ! người Mỹ đã cho nổ trung tâm điện đài hồi trưa nay rồi….
- Ông hãy nghe đây, vị đại diện giáo phái đáp lại ngay, hồi sáng nay
ông đã từ chối không chịu nói cho chúng tôi biết ông đã bắt liên lạc với
những ai ở “phía bên kia”. Bây giờ Phó Đô Đốc Cang không có ở đây, ông
không phải bối rối về chuyện “mất thể diện” nữa. Ông phải giải thích rõ
cho chúng tôi. Ông hãy nói cho tôi biết ai trong số những người của ông ở
đây đã có đủ tư cách đi bắt liên lạc với “bên kia” và họ đã nói chuyện
với ai ?
Tướng Minh do dự một lúc lâu và sau đó tuôn ra hết : – “
Đó là
con tôi, thằng Đức, nó đang là sinh viên khoa chánh trị, nó đã gặp Võ
Văn Sung, đại sứ Bắc Việt ở Ba Lê. Ông Sung đã nói với con tôi là Hà Nội
và CPLTCHMN không có gì chống đối tôi hết và họ chấp nhận sẽ thương
thuyết với điều kiện là trên căn bản của sự thi hành Hiệp Định Ba Lê ”
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo bực tức thốt lên : – Nhưng đó là trò
trẻ con ! Con của ông không có một tư cách chánh thức nào cả. không có
một sự ủy nhiệm nào hết để mà bàn cãi với Cộng Sản. Và ông đã căn cứ vào
một phúc trình đơn giản của một cuộc nói chuyện riêng tư để làm việc !
Ông đã thực hiện cả một chuỗi dài hành động chánh trị, ông đã làm áp lực
với Tổng Thống Hương và lưỡng viện Quốc Hội để đưa họ vào con đường vi
phạm Hiến Pháp, ông đã lừa bịp dân chúng Việt Nam và trước dư luận quốc
tế bằng cách bắn tiếng là ông đã nhận được những bảo đảm của “phía bên
kia” trong lúc ông không có được trong tay một mảnh giấy lộn nào từ
“phía bên kia”! Bản thân ông cũng chưa bao giờ gặp được một nhân vật
chính thức nào của phía “bên kia”.
Ông Minh còn cố chống chế: – ” Không phải chỉ có một mình con tô.
Tôi đã nhận được những khuyến khích từ ông đại sứ Pháp Mérillon, nhân
danh Chánh Phủ của ông và những chuyên viên ở Phủ Thủ tướng Pháp.
- “Và bây giờ thì ông ta bỏ rơi ông như một cái bị rách?”
Tướng Minh chấp nhận và đưa nắm tay lên tức tối : – ” Đúng vậy, tất
cả đều rất đúng…. Ông ta chả cần biết việc gì sẽ xảy ra nữa ! Nhưng mà
bây giờ tôi không có thề lùi được nữa rồi. Tôi đã cam kết là sẽ tiến tới
cuộc thương thảo. Và tôi sẽ gánh hết trách nhiệm của tôi.. Những người
có trách nhiệm ở phía bên kia bắt buộc phải nghĩ đến một Chánh Phủ hòa
hợp quốc gia.” – ”
Nhưng cuối cùng, xin ông cho biết xem ông trông chờ những gì ở người
Cộng Sản ? Ông cũng biết rõ là từ chiều hôm qua, đài phát thanh Hà Nội
nhắc đi nhắc lại không ngừng là CPLTCHMN và Bắc Việt không muốn bàn thảo
gì với bất cứ người nào đã từng ở trong “tập đoàn Diệm – Thiệu”. Và như
ông đã biết đó; vị Phó Tổng Thống của ông lại là Chủ Tịch Thượng Viện
của Tổng ThốngThiệu. Vị Thủ Tướng của ông đã từng là Tổng trưởng ngoại
giao của Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm liền. Và bản thân ông cũng đã
là cố vấn quân sự của ông Diệm !”
Tướng Minh có vẻ sững sốt: – Ở đâu lại có câu chuyện phát thanh đó vậy ?
- Ông đừng đùa nữa. Làm như ông không có bắt đài phát thanh Hà Nội
nghe vậy ? chuyện sơ đẳng quá mà ! Chỉ cần có nghe là sẽ thấy những gì
tôi nói là đúng hết. Cứ mỗi 15 phút là xướng ngôn viên nhắc lại cái tối
hậu thơ đó. Đây nầy…
Vừa nói xong vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo liền đứng phắt dậy, đi lại
máy thâu thanh để trên bàn và vặn kim điều chỉnh đài. Một bài hát cách
mạng nổi lên, tiếp theo đó là thông báo các chiến thắng, kế tiếp là
tiếng nói đanh thép của xướng ngôn viên Bắc Việt đọc một bản thông cáo:
-” CPLTCHMN không sẵn sàng để thương thuyết. Nguyễn văn Thiệu đã bỏ
chạy. nhưng những người thay thế hắn, được biết là tập đoàn Minh – Huyền
– Mẫu vẫn còn ngoan cố vừa lớn tiếng kêu gọi quân đội tiếp tục chiến
đấu, nhằm giữ vững lãnh thổ còn lại, vừa đòi hỏi phải có thương thảo.
Thật quá rõ ràng là tập đoàn nầy đang ngoan cố tiếp tục muốn kéo dài
chiến tranh với hy vọng là giữ lại bọn thực dân mới Hoa Kỳ. Nhưng họ
đừng có hòng đu đưa trong ảo vọng ! Họ không có đại diện cho ai được hết
và không lừa bịp được ai đâu. ”
Xem chừng như tướng Minh rụng rời cả chân tay… ông thều thào: – Tôi
không biết được chuyện nầy, Không có ai báo cáo cho tôi biết chuyện phát
thanh nầy hết.”
- Bây giờ thì ông đã biết rồi đó, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo vừa
nói vừa đứng lên. Chỉ có một chuyện duy nhất mà Cộng Sản đang chờ ở ông,
đó là “đầu hàng không điều kiện.” Không cần phải mất sức để nói chuyện
với ai nữa hết mới đi đến chuyện đầu hàng ! Phần chúng tôi, trong bất cứ
trường hợp nào, chúng tôi cũng không thể nào buông súng xuống được “.
Trong lúc vị đại diện các giáo phái đi ra cửa, mất hút trong bóng tối
của một hành động bí mật mới nào đó thì ông Minh ngã người trong ghế
dựa xét đi xét lại với một tinh thần bấn loạn. Có một chuyện mà ông đã
không có nói được cho người vừa đối thoại với ông. Đó là: Vào lúc trước 7
giờ tối, ông đã gởi một phái đoàn đến “trại Davis”, một doanh trại ở
giữa lòng sân bay Tân Sơn Nhứt, là nơi trú đóng từ tháng 2 năm 1973 của
hai phái đoàn quân sự của Bắc Việt và của CPLTCHMN thuộc Ban Liên Hợp
Quân Sự 4 Bên (và sau nầy là Hai Bên), với nhiệm vụ kiểm soát sự ngưng
bắn theo Hiệp Định Ba Lê. Nhưng các sĩ quan Cộng Sản đã từ khước không
chịu tiếp phái đoàn đại diện của tướng Minh, làm cho họ phải qua đêm đến
sáng sớm hôm sau trong một hầm trú ẩn. Ông Minh cũng không dám cho vị
đại diện các giáo phái biết là trong suốt hai cuộc hội kiến với ông ta
trong ngày, vị đại sứ Pháp lúc nào cũng có mặt ở ngay phòng bên cạnh.
Ông Jean Marie Mérillon đã ở nhà tướng Minh gần suốt ngày thứ ba nầy.
Ông ta chỉ vắng mặt có một lúc khi ông phải đi vào Tân Sơn Nhứt với một
vị tổng trưởng của ông Minh. Các đại diện Cộng Sản ở đó đã xác nhận với
hai người là “trong trường hợp tướng Minh ra lệnh cho quân đội Miền Nam
ngừng bắn thì chừng đó Cộng Sản mới sẽ không bắn vào thủ đô Sài Gòn
nữa.” Đại sứ Pháp đã chuyển câu trả lời đó cho tướng Minh và hối thúc
ông Minh sớm có quyết định.
Tối hôm đó, Tổng Thống Minh ngã người xuống ghế trường kỷ, nằm thao
thức suốt đêm trước bể nuôi cá của mình, nhìn cặp mắt tròn xoe của con
cá để tự xét lại hành động của mình trong thời gian qua…
CHƯƠNG 23 SỰ DẢY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ
MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ?
(VIETNAM, QU’AS TU FAIT DE TES FILS?)
Tác giả: Pierre Darcourt
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa