P.3/ SỰ TRỔI DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING .
Đăng trên nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 – 108) .
Tác giả : Perry Garfinkel
Hình ãnh : Steve McCurry
Hình ãnh : Steve McCurry
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .
.
Khi
đạo Phật rời khỏi Ấn độ , đã đi theo ba đường . Về hướng nam , các nhà
sư đã đi bộ hay bằng thuyền tới Sri Lanka và vùng Đông Nam Á . Về phía
bắc , họ đã truyền đạo qua vùng Trung Á và đi dọc theo Con đường Tơ
lụa vào Trung quốc , từ đó cuối cùng đã truyền tới Hàn quốc và Nhật bản
. Sau đó , đạo Phật đã vượt qua rặng Hy mã Lạp sơn để vào Tây tạng .
Trong mọi nước , phong tục địa phương và vũ trụ học (cosmology) đã hợp nhứt
(integrate) với phần căn bản cũa đạo Phật : ma thuật (magic) và những
mặt nạ cũa các lạt ma đeo khi đánh nhau với ma quỷ tại Tây tạng , sự
khổ hạnh (austerity) cũa một sư ông thuộc Thiền tông (Zen) ngồi tĩnh
lặng như một hòn đá trong một ngôi vườn Nhật mà sạn cát được cào rất
đẹp (perfectly raked Japanese garden) .
Qua nhiều thế kỹ , đạo Phật đã phát triển thành một phong cách toàn diện (inclusive style) , một lý do khiến nó tồn tại rất lâu và trong nhiều nền văn hóa khác nhau như thế (in such different cultures) . Nhiều người đôi khi so sánh đạo Phật như nước : nó tĩnh lặng , trong suốt , lấy hình dạng và màu sắc cũa cái bình mà nó được đổ vào .
VƯỜN CÁT ĐƯỢC CÀO RẤT KỸ TẠI NHẬT |
Qua nhiều thế kỹ , đạo Phật đã phát triển thành một phong cách toàn diện (inclusive style) , một lý do khiến nó tồn tại rất lâu và trong nhiều nền văn hóa khác nhau như thế (in such different cultures) . Nhiều người đôi khi so sánh đạo Phật như nước : nó tĩnh lặng , trong suốt , lấy hình dạng và màu sắc cũa cái bình mà nó được đổ vào .
Và tuy vậy ngay từ lúc bắt đầu , sự truyền bá cũa đạo Phật –
một quá trình hòa bình – đã định kỳ gặp sự thù nghịch (periodically met
with hostility) . Tại Trung quốc , vào năm 842 sau Công nguyên , hoàng
đế Vũ Tông ( Wuzong , 814-846) đời nhà Đường
(Tang) bắt đầu bách hại (persecuted) các tôn giáo ngoại lai . Vào
khoảng 4.600 tu viện bị tiêu hủy (annihilated) , nhiều công trình nghệ
thuật vô giá bị phá hủy (destroyed) , và khoãng 260.000 sư ông và sư nữ
bị buộc phải hoàn tục ( were forced to return to lay life) .
Lịch sử đã lập lại khi đãng Cộng sãn Trung quốc đàn áp đạo Phật – rỏ ràng nhứt là ở Tây tạng . Theo Chiến dịch quốc tế vì Tây tạng
(International Campaign for Tibet) , kể từ 1949 , hơn 6.000 tu viện ,
tu viện dành cho nữ , và đền đã bị phá sập (destroyed) và ít nhứt
500.000 người Tây tạng đã chết vì tù đày , tra tấn , đói và chiến tranh .
Nhưng ngày nay đạo Phật tại Trung quốc , giống như bông sen mọc lên từ
bùn , đang tái xuất hiện (resurfacing) . Với hơn 100 triệu tín đồ , đấy là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhứt tại nước này .
Bà Trần hiểu Húc (Chen Xiaoxu) là một nhân vật nổi bật - mà ko ai ngờ được (unlikely poster child) - cho sự phục sinh này . Ở tuổi 39 , bà lãnh đạo một trong những hảng quảng cáo hàng đầu cũa Bắc kinh , Công ty Quảng cáo Thế bang Bắc kinh (Beijing Shipang Lianhe Advertising) (doanh thu hàng năm trên 31 triệu đô -. người dịch) , nhưng bà được biết nhiều hơn như là một cựu ngôi sao cũa truyền hình Trung quốc . Bà bắt đầu hảng này vào đầu thập niên 1990 , khi nghành quảng cáo ở Trung quốc ở giai đoạn phôi thai (infancy) , sau đó sự thành công đã vượt quá ước vọng cũa bà . “Một khi đã nếm mùi vị cũa thành công (once I got the taste) , tôi luôn luôn muốn những biểu tượng cũa đẵng cấp (status) ngày càng nhiều hơn , ngày càng lớn hơn , “ bà kể lại cho tôi , trong khi chúng tôi ngồi trong phòng họp cũa công ty cũa bà , nằm trong một cao ốc hiện đại ở Bắc kinh . Cổ dài và nét mặt thanh tú (delicate) cũa bà làm tôi nhớ tới (nữ tài tử Mỹ) Audrey Hepburn , mà ãnh chân dung treo trên tường sau lưng bà , nhưng cặp mắt ấm áp , đồng cãm cũa bà lại làm tôi nghĩ tới những bức tranh và tượng , mà tôi đã thấy , cũa Quan Âm (Guanyin) , vị Phật bà cũa Trung quốc , tượng trưng cũa sự thương xót/lòng từ bi (compassion) .
Bà Trần hiểu Húc (Chen Xiaoxu) là một nhân vật nổi bật - mà ko ai ngờ được (unlikely poster child) - cho sự phục sinh này . Ở tuổi 39 , bà lãnh đạo một trong những hảng quảng cáo hàng đầu cũa Bắc kinh , Công ty Quảng cáo Thế bang Bắc kinh (Beijing Shipang Lianhe Advertising) (doanh thu hàng năm trên 31 triệu đô -. người dịch) , nhưng bà được biết nhiều hơn như là một cựu ngôi sao cũa truyền hình Trung quốc . Bà bắt đầu hảng này vào đầu thập niên 1990 , khi nghành quảng cáo ở Trung quốc ở giai đoạn phôi thai (infancy) , sau đó sự thành công đã vượt quá ước vọng cũa bà . “Một khi đã nếm mùi vị cũa thành công (once I got the taste) , tôi luôn luôn muốn những biểu tượng cũa đẵng cấp (status) ngày càng nhiều hơn , ngày càng lớn hơn , “ bà kể lại cho tôi , trong khi chúng tôi ngồi trong phòng họp cũa công ty cũa bà , nằm trong một cao ốc hiện đại ở Bắc kinh . Cổ dài và nét mặt thanh tú (delicate) cũa bà làm tôi nhớ tới (nữ tài tử Mỹ) Audrey Hepburn , mà ãnh chân dung treo trên tường sau lưng bà , nhưng cặp mắt ấm áp , đồng cãm cũa bà lại làm tôi nghĩ tới những bức tranh và tượng , mà tôi đã thấy , cũa Quan Âm (Guanyin) , vị Phật bà cũa Trung quốc , tượng trưng cũa sự thương xót/lòng từ bi (compassion) .
Dần dần , bà nói , tôi nhận ra cãm giác trống rổng
mà rất nhiều người trải nghiệm khi họ có những thứ gì mà họ muốn .
Trong đạo Phật , sự tham lam/thèm muốn (desire) có một biệt danh : Ma Đói , một sự thèm muốn (appetite) mà bạn ko thể nào thõa mãn được .
“ Dù tôi có tất cã – xe to , nhà đẹp , du lịch bất cứ nơi nào
tôi thích , được bao quanh bởi sự nổi tiếng và rất nhiều hàng xa xỉ
(luxury) , mà tôi chia sẽ với gia đình tôi – Nhưng không biết làm sao
(somehow) , tôi vẫn cảm thấy không hạnh phúc .”
Thế rồi , có người đã cho bà Chen một quyển sách về cuộc đời và
giáo lý cũa đức Phật , và bà đã trở nên một người nghiên cứu chăm chĩ
về đạo Phật . Giờ đây , một bức tường cũa văn phòng chĩ toàn màu trắng
cũa bà được dành riêng để treo hình cũa sư phụ cũa bà , Chin Kung ,
cũng như những tượng và tranh về đạo Phật . Các nhân viên cũa bà đã
biết cách xin-gọi-lại-sau với những cú phone trong giờ ăn trưa , khi bà
bỏ ra một thời gian ngắn để thiền định hay nghe nhạc Phật giáo .
Một người Phật tử trong một nghề nghiệp mà mục tiêu là kích
thích lòng tham muốn cũa Ma Đói ? Một điều ít ai chú ý (what's no less
remarkable) là một con người cũa công chúng như Chen Xiaoxu lại đang
công khai theo đạo Phật trong một Trung quốc cộng sản .
(Chú thích cũa người dịch : Hai năm sau cuộc phỏng vấn này (2007) , bà đã qua đời vì ung thư vú ở tuổi 41 . Muốn biết thêm về cuộc đời bà , một minh chứng hùng hồn về lẽ vô thường cũa cuộc đời , xin đọc ở phần cuối bài viết này) .
(Chú thích cũa người dịch : Hai năm sau cuộc phỏng vấn này (2007) , bà đã qua đời vì ung thư vú ở tuổi 41 . Muốn biết thêm về cuộc đời bà , một minh chứng hùng hồn về lẽ vô thường cũa cuộc đời , xin đọc ở phần cuối bài viết này) .
Trong khi đạo Phật trở lại Trung quốc , đạo lại mất sự hấp dẫn/lôi cuốn/appeal ở Nhật , nơi được xem là nguồn suối/wellspring (cũa đạo Phật) đối với một số người phương Tây .
“Nếu đạo Phật tại Nhật không đạt được những nhu cầu đang thay đổi
(changing needs) cũa xã hội hiện đại , đạo này sẽ tàn lụi , Giáo sĩ
(Rev.) Yoshiharu Tomatsu cũa Viện Nghiên cứu Phật giáo Jodo Shu ở Tokyo
nói .
Thuộc thế hệ thứ ba cũa Tịnh độ Tông Jodo Shu (Jodo Shu Pure Land) – một giáo phái đã có ở Nhật 800 năm và đặt niềm tin vào sức mạnh cứu độ cũa Phật A Di Đà
, một bậc đã giác ngộ , hơn là thông qua thiền định - vị thày tu tuy
50 tuổi nhưng vẽ mặt trẻ con này hiện cai quãn ngôi đền Shinko-in .
Chúng tôi hớp (sip) trà xanh trong một ngôi đền gỗ làm từ thế kỷ 16 ,
nằm dưới chân cũa tháp Tokyo , hình ãnh biểu tượng (iconic image) cũa
sự hiện đại về kỷ thuật (technological modernity) cũa nước Nhật . Là
một DJ (disk-jockey , người giới
thiệu đĩa hát) cho một club lúc ở đại học , Tomatsu đã nuôi dưỡng
(harbour) giấc mơ trở thành một người điều hành trong kỷ nghệ âm nhạc ,
nhưng thay vào đó , ông đã có bằng cao học về thần học
(divinity) tại Đại học Harvard . Khi ông không mặc 'com-lê' hay áo
choàng (robe) đen , ông ta mặc quần ka ki (khakis) và quấn quanh cổ
cái áo len dài tay màu lam (pastel crewneck sweaters) với tay áo cột
vào nhau , kiểu Ivy League .
(Chú thích cũa người dịch : Ivy League là một thuật ngữ ám chĩ các sinh viên cũa 8 đại học nổi tiếng ở vùng đông bắc cũa nước Mỹ gồm Brown University, Columbia University, Cornell University, Dartmouth College, Harvard University, Princeton University, the University of Pennsylvania, và Yale University. Bãy trong tám trường này đã được thành lập từ thời kỳ thuộc địa , chĩ có Cornell , thành lập năm 1865 .
Các công ty và các đại gia ở Mỹ đã đóng góp cho các đại học
thuộc Ivy League như sau : từ 2,2 tĩ đô cho ĐH Brown tới 32 tĩ cho ĐH
Harvard , đã khiến Harvard đứng đầu thế giới về số tiền đóng góp ũng
hộ/financial endowment. ) .
Phần lớn người Nhật là “Phật tữ khi có đám tang” , ông nói , ám
chĩ họ chĩ tham dự trong các nghi lễ Phật giáo khi có ai chết . Với sự
tiến triển nhanh chóng (fast pace) và tính cạnh tranh cũa xả hội Nhật ,
giới trẻ tìm thấy rất ít sự hổ trợ dể xúc cãm (little emotional
support) hoặc ý thức (sense) cộng đồng trong những nghi lễ cổ xưa cũa
Phật giáo truyền thống .
“Thật mĩa mai (it's ironic) , “ Tomatsu nói , Trong khi nước Nhật học hỏi phương Tây cách xử lý về văn hóa
(cultural cues) , họ lại ko tiếp thu (embrace) Phật giáo phụng sự xã
hội – một điều rất quan trọng trong giới Phật tử ở phương Tây . “
Thực vậy , rất mĩa mai : Nhiều người phương Tây đầu tiên
biết đến Phật giáo qua Thiền tông (Zen) , nhánh Nhật bãn cũa Thiền
tông Trung quốc . Thiền tông hay Zen
được phổ biến bởi Thế hệ Beat ở Mỹ vào thập niên 1950 : tiểu thuyết
gia Jack Kerouac , tác giả Alan Watts , các thi sĩ Alan Ginsberg và
Gary Snyder , và nhiều người khác . Kế đó bạn có thể dự các lớp dành
cho người lớn về các dạng nghệ thuật Zen như thư pháp (calligraphy) và ikebana (cách cắm hoa) hoặc các nghi lễ như trà đạo hay bắn cung . Một khi Madison Avenue khám phá sự hấp dẫn cũa đạo Phật , Zen trở thành đồng nghỉa với sự tuyệt hão (cool) , sãn sinh ra hàng tá sản phẩm mang tên Zen từ mỹ phẩm dưỡng da tới máy MP3 .
Ông Tomatsu còn cho tôi xem những dấu hiệu cho thấy , dù sao đi
nữa , trái tim cũa Phật giáo Nhật bản vẫn còn đập . Một dấu hiệu là
một tổ chức mà ông đã giúp thành lập năm 1993 . Có tên là Ayus
, có nghĩa "cuộc sống" , tổ chức này đóng góp (channel) 300.000 đô mổi
năm cho các nhóm tại Nhật hay quốc tế hoạt động cho hòa bình và nhân
quyền . Hai phần ba (two-thirds) cũa 300 hội viên cũa tổ chức này là các
tu sĩ Phật giáo .
Cũng có một giáo phái có tên Rissho Kosei-kai ,
thành lập năm 1938 và khoe (boast) rằng hiện có 1.800.000 thành viên .
Trong khi tuân thủ chặc chẽ (firrmly planted) các giáo lý Phật giáo ,
tổ chức này lại khác biệt . Đó là một tổ chức ko theo giáo hội/thế
tục/lay group – chĩ nhấn mạnh vào việc phục vụ tha nhân/người khác .
Các thành viên bỏ (forgo) hai bửa ăn mỗi tháng , qua việc đóng góp tiền
cho quỹ hòa bình cũa giáo phái . Rissho Kosei-kai đã đóng góp gần 60 triệu đô cho Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) trong 25 năm qua .
Ở tổng hành dinh toàn cầu của giáo phái này tại Tokyo , phòng
thiền định trung ương bề thế (imposing) có một dàn đàn ống cao tới trần
(ceiling-high pipe organ) và những cửa sổ bằng kính màu
(stained-glass) – trông giống một nhà thờ Thiên chúa giáo hơn là một
đền Phật giáo . Tomatsu và tôi ngồi dự một lớp , tiếng Nhật gọi là hoza , (dharma session) ,
tập chú vào những vấn đề xã hội đang gây khó khăn (beset) cho nước
Nhật nhưng vẫn là những cấm kỵ – ít được nói tới như : ly dị , nghiện
ma túy , bịnh trầm cãm , tự tử . Trong một căn phòng lớn , sáng trưng
(brightly lit) , được xử dụng cho nhiều mục đích , những người tham dự ăn mặc thường phục
(casually dressed) , phần lớn là phụ nữ , ngồi trên những ghế xếp bằng
kim loại tạo thành một vòng tròn không đều chung quanh một người hướng
dẫn/facilitator , để cùng chia sẽ những tình trạng khó xử (dilemma)
cũa cá nhân như rắc rối về hôn nhân , con cái ko nghe lời , và cha mẹ
già lão . Sau mổi câu chuyện , cã nhóm cho một tràng vỗ tay (round of
applause) ũng hộ . Nên nhớ rằng đạo Phật mới ko chĩ luôn luôn bàn
luận/chăm lo những vấn đề cũa toàn cầu (address global issues) ; bàn ăn
nhà bếp cũng có thể là chiến trường .
Ông Tomatsu cũng giới thiệu tôi tới giáo sĩ (Rev.) Takeda Takao
, một tu sĩ Phật giáo – mà tôi đã thấy cầm đầu một cuộc phản kháng
(protest) trước tòa nhà quốc hội Nhật tại trung tâm Tokyo . Hàng trăm
người biểu tình (demonstrator) đã tụ họp để phản đối sự tham dự cũa Lực
lượng Tự vệ Nhật tại Iraq . Trong cuộc biểu tình này , ông Takao ,
trong áo tu sĩ , đứng trên vỉa hè (curbside) với những tu sĩ khác mang
loa (bullhorn) , trống , và một biểu ngử (banner) .
Ông Takao thuộc Nipponzan Myohoji ,
một tổ chức Phật giáo quốc tế thành lập năm 1918 mà những tu sĩ , nam
và nử , tổ chức (conduct) những cuộc tuần hành cho hòa bình (peace
march) , vừa hát và đánh trống từ đầu đến cuối (all the way) (cũa cuộc
biểu tình) .
“Biểu tình hòa bình là cách duy nhứt để tạo nên một hành tinh
hòa bình , “ ông nói . Đó là một kết luận mà ông có sau khi tham gia
những cuộc biểu tình chống việc xây dựng sân bay Narita tại Tokyo .
Trong thập niên 1970 vài cãnh sát và người biểu tình đã chết , và hàng
ngàn người bị thương , khi bảo vệ quyền cũa các nhà nông trồng rau mà
đất đai bị chánh quyền lấy làm phi đạo (runway) . Để ghi nhớ thảm kịch
này , dòng tu (order) Nipponzan Myohoji đã dựng một ngôi chùa hòa bình
vào năm 2001 nằm bên ngoài hàng rào cũa sân bay .
Sau buổi trưa đó , khi máy bay cất cánh từ sân bay Narita ,
tôi thoáng thấy (catch a glimpse) ngôi chùa nhỏ xíu màu trắng . Nó đối
chọi (stand out) với sự phát triển cũa khu kỹ nghệ màu xám ; (và là)
một đài tưởng niệm sáng chói (bright memorial) cho thông điệp ngàn đời
cũa đức Phật .
Thật vậy , từ Tokyo tới San Francisco , từ lớp học trong trại tù tới lớp học cũa người giàu , một cộng đồng trên toàn cầu
cũa những Phật tử phụng sự xã hội đã bảo đãm rằng truyền thống này vẫn
là một sức mạnh đáng nễ . Trở lại San Francisco , một ai đó đang nằm
trên giường ở viện dưỡng lão , mà trước kia Carl Taylor đã nằm . Và bên
cạnh người này là một người Phật tử thiện nguyện khác , chĩ ngồi chứ
ko nói gì hết (just sitting) ./.
Phần nói thêm : về cuộc đời cũa bà Trần hiểu Húc:
Từ năm 1985 đến năm 1987, Trần Hiểu Húc tham gia đoàn làm phim Hồng Lâu Mộng, một loạt phim truyền hình của CCTV với vai diễn Lâm Đại Ngọc và trở nên nổi tiếng[2].
- Năm 1988, Trần Hiểu Húc tham gia đoàn làm phim Gia Xuân Thu của Đài Truyền hình Thượng Hải với vai diễn Mai biểu thư.
- Từ năm 1991 đến năm 1993, Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn quảng cáo quốc tế Trường Thành.
- Từ năm 1993 đến năm 1996, Trần Hiểu Húc làm phó tổng giám đốc Công ty quảng cáo quốc tế Trường Thành.
- Năm 1996 , Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn quảng cáo Thế Bang Bắc Kinh.
- Năm 1998, Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn phát triển văn hoá Thế Bang Bắc Kinh và làm tổng giám đốc. Thế Bang trở thành tập đoàn hàng đầu của ngành công nghiệp quảng cáo Trung Quốc với doanh thu hàng năm lên tới 200 triệu nhân dân tệ (trên 31 triệu đô) . Đến năm 1999, Hiểu Húc đã có tên trong danh sách sách các triệu phú trẻ của Trung Quốc.
- Năm 2004, Trần Hiểu Húc được bình chọn là một trong 30 nữ doanh nhân xuất sắc nhất trong làng quảng cáo Trung Quốc.
- Ngày 23 tháng 2 năm 2007, Trần Hiểu Húc xuống tóc đi tu tại Bách Quốc Hưng Long Tự (Trường Xuân, Cát Lâm), với pháp hiệu Diệu Chân, ngày 8 tháng 3 chồng cô là Hác Đồng cũng xuất gia tại Thâm Quyến.[3]
- Vào 18 giờ 57 phút ngày 13 tháng 5, Trần Hiểu Húc qua đời vì ung thư vú tại Thâm Quyến[4].
- Vào 12 giờ trưa ngày 17 tháng 5, thi hài Trần Hiểu Húc được hoả táng tại Thâm Quyến. Ngày 16 tháng 5, gia đình đã theo di nguyện của Trần Hiểu Húc sáng lập Quỹ từ thiện Trần Hiểu Húc và thu được 50 triệu nhân dân tệ. Quỹ được dùng để trợ giúp sinh viên nghèo, bệnh nhân không đủ tiền chữa trị...
- Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Hi%E1%BB%83u_H%C3%BAc )
San Jose ngày 16 Sep 2012 lúc 07:39 pm .