Tuesday, November 5, 2013

P.3/ SỰ TRỔI  DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING  .

Đăng trên nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 – 108) .
Tác giả         :  Perry Garfinkel
Hình ãnh      : Steve McCurry
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .
 
.
            Khi đạo Phật rời khỏi Ấn độ , đã đi theo ba đường . Về hướng nam , các nhà sư đã đi bộ hay bằng thuyền tới Sri Lanka và vùng Đông Nam Á . Về phía bắc , họ đã truyền đạo qua vùng Trung Á và đi dọc theo Con đường Tơ lụa vào Trung quốc , từ đó cuối cùng đã truyền tới Hàn quốc và Nhật bản . Sau đó , đạo Phật đã vượt qua rặng Hy mã Lạp sơn để vào Tây tạng . Trong mọi nước , phong tục địa phương và vũ trụ học (cosmology) đã hợp nhứt (integrate) với phần căn bản cũa đạo Phật : ma thuật (magic) và những mặt nạ cũa các lạt ma đeo khi đánh nhau với ma quỷ tại Tây tạng , sự khổ hạnh (austerity) cũa một sư ông thuộc Thiền tông (Zen) ngồi tĩnh lặng như một hòn đá trong một ngôi vườn Nhật mà sạn cát được cào rất đẹp (perfectly raked Japanese garden) . 

VƯỜN CÁT ĐƯỢC CÀO RẤT KỸ TẠI NHẬT

          Qua nhiều thế kỹ , đạo Phật đã phát triển thành một phong cách toàn diện (inclusive style) , một lý do khiến nó tồn tại rất lâu và trong nhiều nền văn hóa khác nhau như thế (in such different cultures) . Nhiều người đôi khi so sánh đạo Phật như nước : nó tĩnh lặng , trong suốt , lấy hình dạng và màu sắc cũa cái bình mà nó được đổ vào .
          Và tuy vậy ngay từ lúc bắt đầu , sự truyền bá cũa đạo Phật – một quá trình hòa bình – đã định kỳ gặp sự thù nghịch (periodically met with hostility) . Tại Trung quốc , vào năm 842 sau Công nguyên , hoàng đế Vũ Tông ( Wuzong , 814-846) đời nhà Đường (Tang) bắt đầu bách hại (persecuted) các tôn giáo ngoại lai . Vào khoảng 4.600 tu viện bị tiêu hủy (annihilated) , nhiều công trình nghệ thuật vô giá bị phá hủy (destroyed) , và khoãng 260.000 sư ông và sư nữ bị buộc phải hoàn tục ( were forced to return to lay life) .
          Lịch sử đã lập lại khi đãng Cộng sãn Trung quốc đàn áp đạo Phật – rỏ ràng nhứt là ở Tây tạng . Theo Chiến dịch quốc tế vì Tây tạng (International Campaign for Tibet) , kể từ 1949 , hơn 6.000 tu viện , tu viện dành cho nữ , và đền đã bị phá sập (destroyed) và ít nhứt 500.000 người Tây tạng đã chết vì tù đày , tra tấn , đói và chiến tranh . Nhưng ngày nay đạo Phật tại Trung quốc , giống như bông sen mọc lên từ bùn , đang tái xuất hiện (resurfacing) . Với hơn 100 triệu tín đồ , đấy là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhứt tại nước này . 


"Để thấy mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc quan sát " - là một mục tiêu cũa một sinh viên tại TQ đang cũng cố tinh thần và thể xác dưới sự theo dõi nghiêm khắc (rigorous tutelage) cũa một sư phụ về công phu Thiếu lâm . Đó cũng là mục tiêu cũa hàng triệu tín đồ mà cuộc đời dựa vào/tin vào (hang on) câu nói cũa đức Phật : " Với tư tưỡng chúng ta tạo nên thế giới"  (With our thoughts we make the world) .
          Bà Trần hiểu Húc (Chen Xiaoxu) là một nhân vật nổi bật - mà ko ai ngờ được (unlikely poster child) - cho sự phục sinh này . Ở tuổi 39 , bà lãnh đạo một trong những hảng quảng cáo hàng đầu cũa Bắc kinh , Công ty Quảng cáo Thế bang Bắc kinh (Beijing Shipang Lianhe Advertising) (doanh thu hàng năm trên 31 triệu đô -. người dịch) , nhưng bà được biết nhiều hơn như là một cựu ngôi sao cũa truyền hình Trung quốc . Bà bắt đầu hảng này vào đầu thập niên 1990 , khi nghành quảng cáo ở Trung quốc ở giai đoạn phôi thai (infancy) , sau đó sự thành công đã vượt quá ước vọng cũa bà . “Một khi đã nếm mùi vị cũa thành công (once I got the taste) , tôi luôn luôn muốn những biểu tượng cũa đẵng cấp (status) ngày càng nhiều hơn , ngày càng lớn hơn , “ bà kể lại cho tôi , trong khi chúng tôi ngồi trong phòng họp cũa công ty cũa bà , nằm trong một cao ốc hiện đại ở Bắc kinh . Cổ dài và nét mặt thanh tú (delicate) cũa bà làm tôi nhớ tới (nữ tài tử Mỹ) Audrey Hepburn , mà ãnh chân dung treo trên tường sau lưng bà , nhưng cặp mắt ấm áp , đồng cãm cũa bà lại làm tôi nghĩ tới những bức tranh và tượng , mà tôi đã thấy , cũa Quan Âm (Guanyin) , vị Phật bà cũa Trung quốc , tượng trưng cũa sự thương xót/lòng từ bi (compassion) .
          Dần dần , bà nói , tôi nhận ra cãm giác trống rổng mà rất nhiều người trải nghiệm khi họ có những thứ gì mà họ muốn . Trong đạo Phật , sự tham lam/thèm muốn (desire) có một biệt danh : Ma Đói , một sự thèm muốn (appetite) mà bạn ko thể nào thõa mãn được .
          “ Dù tôi có tất cã – xe to , nhà đẹp , du lịch bất cứ nơi nào tôi thích , được bao quanh bởi sự nổi tiếng và rất nhiều hàng xa xỉ (luxury) , mà tôi chia sẽ với gia đình tôi – Nhưng không biết làm sao (somehow) , tôi vẫn cảm thấy không hạnh phúc .”
        Thế rồi , có người đã cho bà Chen một quyển sách về cuộc đời và giáo lý cũa đức Phật , và bà đã trở nên một người nghiên cứu chăm chĩ về đạo Phật . Giờ đây , một bức tường cũa văn phòng chĩ toàn màu trắng cũa bà được dành riêng để treo hình cũa sư phụ cũa bà , Chin Kung , cũng như những tượng và tranh về đạo Phật . Các nhân viên cũa bà đã biết cách xin-gọi-lại-sau với những cú phone trong giờ ăn trưa , khi bà bỏ ra một thời gian ngắn để thiền định hay nghe nhạc Phật giáo .
        Một người Phật tử trong một nghề nghiệp mà mục tiêu là kích thích lòng tham muốn cũa Ma Đói ? Một điều ít ai chú ý (what's no less remarkable) là một con người cũa công chúng như Chen Xiaoxu lại đang công khai theo đạo Phật trong một Trung quốc cộng sản .
        (Chú thích cũa người dịch : Hai năm sau cuộc phỏng vấn này (2007) , bà đã qua đời vì ung thư vú ở tuổi 41 . Muốn biết thêm về cuộc đời bà , một minh chứng hùng hồn về lẽ vô thường cũa cuộc đời , xin đọc ở phần cuối bài viết này) .
         Trong khi đạo Phật trở lại Trung quốc , đạo lại mất sự hấp dẫn/lôi cuốn/appeal ở Nhật , nơi được xem là nguồn suối/wellspring (cũa đạo Phật) đối với một số người phương Tây .
        “Nếu đạo Phật tại Nhật không đạt được những nhu cầu đang thay đổi (changing needs) cũa xã hội hiện đại , đạo này sẽ tàn lụi , Giáo sĩ (Rev.) Yoshiharu Tomatsu cũa Viện Nghiên cứu Phật giáo Jodo Shu ở Tokyo nói .
       Thuộc thế hệ thứ ba cũa Tịnh độ Tông Jodo Shu (Jodo Shu Pure Land) – một giáo phái đã có ở Nhật 800 năm và đặt niềm tin vào sức mạnh cứu độ cũa Phật A Di Đà , một bậc đã giác ngộ , hơn là thông qua thiền định - vị thày tu tuy 50 tuổi nhưng vẽ mặt trẻ con này hiện cai quãn ngôi đền Shinko-in . Chúng tôi hớp (sip) trà xanh trong một ngôi đền gỗ làm từ thế kỷ 16 , nằm dưới chân cũa tháp Tokyo , hình ãnh biểu tượng (iconic image) cũa sự hiện đại về kỷ thuật (technological modernity) cũa nước Nhật . Là một DJ (disk-jockey , người giới thiệu đĩa hát) cho một club lúc ở đại học , Tomatsu đã nuôi dưỡng (harbour) giấc mơ trở thành một người điều hành trong kỷ nghệ âm nhạc , nhưng thay vào đó , ông đã có bằng cao học về thần học (divinity) tại Đại học Harvard . Khi ông không mặc 'com-lê' hay áo choàng (robe) đen , ông ta mặc quần ka ki (khakis) và quấn quanh cổ cái áo len dài tay màu lam (pastel crewneck sweaters) với tay áo cột vào nhau , kiểu Ivy League .
          (Chú thích cũa người dịch : Ivy League là một thuật ngữ ám chĩ các sinh viên cũa 8 đại học nổi tiếng ở vùng đông bắc cũa nước Mỹ gồm Brown University, Columbia University, Cornell University, Dartmouth College, Harvard University, Princeton University, the University of Pennsylvania, và Yale University. Bãy trong tám trường này đã được thành lập từ thời kỳ thuộc địa , chĩ có Cornell , thành lập năm 1865 .
         Các công ty và các đại gia ở Mỹ đã đóng góp cho các đại học thuộc Ivy League như sau : từ 2,2 tĩ đô cho ĐH Brown tới 32 tĩ cho ĐH Harvard , đã khiến Harvard đứng đầu thế giới về số tiền đóng góp ũng hộ/financial endowment. ) .
         Phần lớn người Nhật là “Phật tữ khi có đám tang” , ông nói , ám chĩ họ chĩ tham dự trong các nghi lễ Phật giáo khi có ai chết . Với sự tiến triển nhanh chóng (fast pace) và tính cạnh tranh cũa xả hội Nhật , giới trẻ tìm thấy rất ít sự hổ trợ dể xúc cãm (little emotional support) hoặc ý thức (sense) cộng đồng trong những nghi lễ cổ xưa cũa Phật giáo truyền thống .
        “Thật mĩa mai (it's ironic) , “ Tomatsu nói , Trong khi nước Nhật học hỏi phương Tây cách xử lý về văn hóa (cultural cues) , họ lại ko tiếp thu (embrace) Phật giáo phụng sự xã hội – một điều rất quan trọng trong giới Phật tử ở phương Tây . “
         Thực vậy , rất mĩa mai : Nhiều người phương Tây đầu tiên biết đến Phật giáo qua Thiền tông (Zen) , nhánh Nhật bãn cũa Thiền tông Trung quốc . Thiền tông hay Zen được phổ biến bởi Thế hệ Beat ở Mỹ vào thập niên 1950 : tiểu thuyết gia Jack Kerouac , tác giả Alan Watts , các thi sĩ Alan Ginsberg và Gary Snyder , và nhiều người khác . Kế đó bạn có thể dự các lớp dành cho người lớn về các dạng nghệ thuật Zen như thư pháp (calligraphy) và ikebana (cách cắm hoa) hoặc các nghi lễ như trà đạo hay bắn cung . Một khi Madison Avenue khám phá sự hấp dẫn cũa đạo Phật , Zen trở thành đồng nghỉa với sự tuyệt hão (cool) , sãn sinh ra hàng tá sản phẩm mang tên Zen từ mỹ phẩm dưỡng da tới máy MP3 .
       Ông Tomatsu còn cho tôi xem những dấu hiệu cho thấy , dù sao đi nữa , trái tim cũa Phật giáo Nhật bản vẫn còn đập . Một dấu hiệu là một tổ chức mà ông đã giúp thành lập năm 1993 . Có tên là Ayus , có nghĩa "cuộc sống" , tổ chức này đóng góp (channel) 300.000 đô mổi năm cho các nhóm tại Nhật hay quốc tế hoạt động cho hòa bình và nhân quyền . Hai phần ba (two-thirds) cũa 300 hội viên cũa tổ chức này là các tu sĩ Phật giáo .
      Cũng có một giáo phái có tên Rissho Kosei-kai , thành lập năm 1938 và khoe (boast) rằng hiện có 1.800.000 thành viên . Trong khi tuân thủ chặc chẽ (firrmly planted) các giáo lý Phật giáo , tổ chức này lại khác biệt . Đó là một tổ chức ko theo giáo hội/thế tục/lay group – chĩ nhấn mạnh vào việc phục vụ tha nhân/người khác . Các thành viên bỏ (forgo) hai bửa ăn mỗi tháng , qua việc đóng góp tiền cho quỹ hòa bình cũa giáo phái . Rissho Kosei-kai đã đóng góp gần 60 triệu đô cho Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) trong 25 năm qua .
      Ở tổng hành dinh toàn cầu của giáo phái này tại Tokyo , phòng thiền định trung ương bề thế (imposing) có một dàn đàn ống cao tới trần (ceiling-high pipe organ) và những cửa sổ bằng kính màu (stained-glass) – trông giống một nhà thờ Thiên chúa giáo hơn là một đền Phật giáo . Tomatsu và tôi ngồi dự một lớp , tiếng Nhật gọi là hoza , (dharma session) , tập chú vào những vấn đề xã hội đang gây khó khăn (beset) cho nước Nhật nhưng vẫn là những cấm kỵ – ít được nói tới như : ly dị , nghiện ma túy , bịnh trầm cãm , tự tử . Trong một căn phòng lớn , sáng trưng (brightly lit) , được xử dụng cho nhiều mục đích , những người tham dự ăn mặc thường phục (casually dressed) , phần lớn là phụ nữ , ngồi trên những ghế xếp bằng kim loại tạo thành một vòng tròn không đều chung quanh một người hướng dẫn/facilitator , để cùng chia sẽ những tình trạng khó xử (dilemma) cũa cá nhân như rắc rối về hôn nhân , con cái ko nghe lời , và cha mẹ già lão . Sau mổi câu chuyện , cã nhóm cho một tràng vỗ tay (round of applause) ũng hộ . Nên nhớ rằng đạo Phật mới ko chĩ luôn luôn bàn luận/chăm lo những vấn đề cũa toàn cầu (address global issues) ; bàn ăn nhà bếp cũng có thể là chiến trường .
         Ông Tomatsu cũng giới thiệu tôi tới giáo sĩ (Rev.) Takeda Takao , một tu sĩ Phật giáo – mà tôi đã thấy cầm đầu một cuộc phản kháng (protest) trước tòa nhà quốc hội Nhật tại trung tâm Tokyo . Hàng trăm người biểu tình (demonstrator) đã tụ họp để phản đối sự tham dự cũa Lực lượng Tự vệ Nhật tại Iraq . Trong cuộc biểu tình này , ông Takao , trong áo tu sĩ , đứng trên vỉa hè (curbside) với những tu sĩ khác mang loa (bullhorn) , trống , và một biểu ngử (banner) .
       Ông Takao thuộc Nipponzan Myohoji , một tổ chức Phật giáo quốc tế thành lập năm 1918 mà những tu sĩ , nam và nử , tổ chức (conduct) những cuộc tuần hành cho hòa bình (peace march) , vừa hát và đánh trống từ đầu đến cuối (all the way) (cũa cuộc biểu tình) .
       “Biểu tình hòa bình là cách duy nhứt để tạo nên một hành tinh hòa bình , “ ông nói . Đó là một kết luận mà ông có sau khi tham gia những cuộc biểu tình chống việc xây dựng sân bay Narita tại Tokyo . Trong thập niên 1970 vài cãnh sát và người biểu tình đã chết , và hàng ngàn người bị thương , khi bảo vệ quyền cũa các nhà nông trồng rau mà đất đai bị chánh quyền lấy làm phi đạo (runway) . Để ghi nhớ thảm kịch này , dòng tu (order) Nipponzan Myohoji đã dựng một ngôi chùa hòa bình vào năm 2001 nằm bên ngoài hàng rào cũa sân bay .
        Sau buổi trưa đó , khi máy bay cất cánh từ sân bay Narita , tôi thoáng thấy (catch a glimpse) ngôi chùa nhỏ xíu màu trắng . Nó đối chọi (stand out) với sự phát triển cũa khu kỹ nghệ màu xám ; (và là) một đài tưởng niệm sáng chói (bright memorial) cho thông điệp ngàn đời cũa đức Phật .
         Thật vậy , từ Tokyo tới San Francisco , từ lớp học trong trại tù tới lớp học cũa người giàu , một cộng đồng trên toàn cầu cũa những Phật tử phụng sự xã hội đã bảo đãm rằng truyền thống này vẫn là một sức mạnh đáng nễ . Trở lại San Francisco , một ai đó đang nằm trên giường ở viện dưỡng lão , mà trước kia Carl Taylor đã nằm . Và bên cạnh người này là một người Phật tử thiện nguyện khác , chĩ ngồi chứ ko nói gì hết (just sitting) ./.


             Phần nói thêm : về cuộc đời cũa bà Trần hiểu Húc: Từ năm 1985 đến năm 1987, Trần Hiểu Húc tham gia đoàn làm phim Hồng Lâu Mộng, một loạt phim truyền hình của CCTV với vai diễn Lâm Đại Ngọc và trở nên nổi tiếng[2]
Ãnh trên , trong vai Lâm đại Ngọc cũa bộ phim truyền hình Trung quốc Hồng lâu Mộng (thực hiện năm 1987) và  ãnh dưới  , ngày 23.07.2007 , bà làm lể thí phát/cắt tóc/take the tonsure tai Bách Quốc Hưng Long Tự , tĩnh Cát Lâm với pháp danh Diệu Chân . Chưa tới ba tháng sau đó , bà đã qua đời vì ung thư  .
 
  • Năm 1988, Trần Hiểu Húc tham gia đoàn làm phim Gia Xuân Thu của Đài Truyền hình Thượng Hải với vai diễn Mai biểu thư.
  • Từ năm 1989 đến năm 1991, Trần Hiểu Húc là diễn viên Đoàn ca vũ chiến hữu quân khu Bắc Kinh
  • Từ năm 1991 đến năm 1993, Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn quảng cáo quốc tế Trường Thành.
  • Từ năm 1993 đến năm 1996, Trần Hiểu Húc làm phó tổng giám đốc Công ty quảng cáo quốc tế Trường Thành.
  • Năm 1996 , Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn quảng cáo Thế Bang Bắc Kinh.
  • Năm 1998, Trần Hiểu Húc sáng lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn phát triển văn hoá Thế Bang Bắc Kinh và làm tổng giám đốc. Thế Bang trở thành tập đoàn hàng đầu của ngành công nghiệp quảng cáo Trung Quốc với doanh thu hàng năm lên tới 200 triệu nhân dân tệ (trên 31 triệu đô) . Đến năm 1999, Hiểu Húc đã có tên trong danh sách sách các triệu phú trẻ của Trung Quốc.
  • Năm 2004, Trần Hiểu Húc được bình chọn là một trong 30 nữ doanh nhân xuất sắc nhất trong làng quảng cáo Trung Quốc.
  • Ngày 23 tháng 2 năm 2007, Trần Hiểu Húc xuống tóc đi tu tại Bách Quốc Hưng Long Tự (Trường Xuân, Cát Lâm), với pháp hiệu Diệu Chân, ngày 8 tháng 3 chồng cô là Hác Đồng cũng xuất gia tại Thâm Quyến.[3]
  • Vào 12 giờ trưa ngày 17 tháng 5, thi hài Trần Hiểu Húc được hoả táng tại Thâm Quyến. Ngày 16 tháng 5, gia đình đã theo di nguyện của Trần Hiểu Húc sáng lập Quỹ từ thiện Trần Hiểu Húc và thu được 50 triệu nhân dân tệ. Quỹ được dùng để trợ giúp sinh viên nghèo, bệnh nhân không đủ tiền chữa trị...
  • Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Hi%E1%BB%83u_H%C3%BAc )


San Jose ngày 16 Sep 2012 lúc 07:39 pm .
P. 2/ SỰ TRỔI  DẬY CŨA ĐẠO PHẬT/BUDDHA RISING .
Đăng trên nguyệt san National Geographic tháng 12 , 2005 (từ trang 92 – 108) .
Tác giả         :  Perry Garfinkel
Hình ãnh      : Steve McCurry
Chuyễn ngữ : Trần anh Tú .
 
           Có một đạo Phật mới trên khắp thế giới ngày nay . Triết lý cũa đạo này hiện được áp dụng vào các cách điều trị về sức khỏe tâm thần và thể chất và vào những cải cách về chính trị và môi trường . Các lực sĩ dùng triết lý này để trau dồi các môn thi đấu cũa họ . Triết lý này giúp các nhà điều hành xí nghiệp quãn lý stress tốt hơn . Cãnh sát cũng trang bị cho họ triết lý này để tháo ngòi nổ những tình huống dể bùng nổ . Những người đau khổ vì bịnh kinh niên áp dụng triết lý này như là một sự xoa dịu . Sự thích ứng hiện thời này đang tạo nên một sự phục sinh cũa đạo Phật – ngay tại những nước như Ấn độ , nơi mà đạo này hầu như là biến mất , và tại Trung quốc , nơi mà đạo này đã từng bị đàn áp .
Để tìm hiễu về tình trạng vô gia cư , ông Jim Bastien đã tham gia một khóa thiền trong ba ngày 
bằng cách sống ko có đồng xu dính túi trên các đường phố cũa TP New York . "Tôi đã cãm nhận
 thế nào là vô 
 hình (vì ko ai biết mình là ai - TAT) " , ông Bastien nói ; là một người điều hành cũa một công
 ty , ông thường là tâm điễm cũa mọi chú ý (xem hình dưới) . Người Phật tử nhấn mạnh tính 
thống nhứt cũa cuộc đời . "Ảo tưỡng cũa sự chia ly/chia cắt , " ông nói , "là nguồn gốc cũa tất
 cã đau khổ cũa con người . "
         
         Đạo Phật hiện không chĩ dành cho các nhà sư hay các người ở phương Tây có thời giờ hay lợi tức dư dã để học hỏi những gì từ phương Đông . Các tín đồ Thiên chúa giáo và Do thái giáo thực hành triết lý này . Những người Mỹ gốc Phi châu ngồi thiền bên cạnh các người Mỹ gốc Nhật . Chĩ riêng tại nước Mỹ , một vài chuyên gia ước lượng rằng , có gần ba triệu người theo đạo Phật . Và theo một khảo sát năm 2004 , hơn 25 triệu người Mỹ tin tưởng rằng triết lý cũa đạo Phật đã có ãnh hưỡng quan trọng trên đời sống tâm linh cũa họ .
       Chương trình Dưỡng lão Thiền (Zen Hospice Project) là một ví dụ cũa “đạo Phật phụng sự xả hội” , một thuật ngữ tạo bởi sư ông Thích Nhất Hạnh , đã rời Việt nam từ thập niên 1960 vì những hoạt động phản chiến bất bạo động . Vẫn còn dấn thân ở tuổi 79 , ông đã về thăm quê hương ba tháng trong năm nay – kỹ niệm 30 năm ngày Cộng Sản làm chũ Việt nam – để truyền bá triết lý đạo Phật tại nơi mà ông từng là khất sĩ (pariah) .
        Tại miền Tây Nam nước Pháp , ở trung tâm thiền cũa Làng Mai , ông thường xuyên mời nhiều nhóm trong đó có các nhóm người Palestine và Do thái dự các buổi hội thảo để tìm giải pháp cho xung đột và hòa đàm . Những buổi hội thảo này thường bắt đầu với sự thù nghịch (animosity) , sư ông nói với tôi , và thường kết thúc bằng những ôm hôn .
        “ Những cuộc hội thảo này khởi đầu bằng một câu châm ngôn cỗ : ' Không làm điều gì hết , chĩ ngồi đó thôi', “ sư ông nói với giọng nhẹ nhàng . Dáng người mãnh khãnh với tai to và mắt sâu , sư ông ngồi trên hành lang cũa ngôi nhà tranh nhìn ra vườn nho giống Bordeaux xanh rì , “ Với công tác phụng sự xã hội này , đầu tiên bạn phải học những điều Phật dạy , là để tâm yên tĩnh . Kế đó , bạn đừng hành động gì cã ; hành động sẽ cuốn hút bạn .
         Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhartha Gautama) - sinh năm 563 và chết năm 483 trước Công nguyên , thọ 80 tuổi - người sau này được biết như là đức Phật , đã ra đời vào khoãng 500 năm trước Công nguyên gần chân rặng núi Hy mã Lạp sơn , là con cũa một vị vua trong khu vực . Trong những thế kỷ sau khi ngài qua đời , khi tiếng tăm ngày càng phát triển , sự thật và huyền thoại bện vào nhau , và nhiều truyền thuyết về đức Phật đã ra đời . Theo một truyền thuyết , đức Phật đã khoan thai bước ra từ hông cũa mẹ ngài khi mới sinh và đi bảy bước trong bốn hướng , với hoa sen xuất hiện dưới chân .
         Tuy nhiên , phần lớn các truyền thuyết đồng ý ở điểm , ở độ tuổi 29 , vị hoàng tử đã có vợ này , thoát khỏi ảo tưởng về sự giàu có cũa mình , mạo hiểm rời bỏ lâu đài và lần đầu tiên thấy được sự già lảo , bịnh tật , và chết chóc . Sau khi thấy được những thực tế đau khổ cũa cuộc đời , ngài quá xúc động đến độ ngài đã rời tòa lâu đài tiện nghi để tìm cách chấm dứt sự đau khổ cũa con người . Trong sáu năm , ngài đã chịu đựng những thiếu thốn mà những người tầm đạo như ngài đã áp dụng – như nhịn đói , chiêm nghiệm sự tĩnh lặng , sống một mình trong một cái hang – cho tới khi ngài nhận ra rằng ngài đã ko tìm thấy cái mà ngài muốn .
         Phải là một con đường khác , ngài nghĩ như vậy , một “con đường ở giửa “ lối tu quá sung sướng và lối tu quá khắc khổ . Ngài đã quyết định ngồi thiền định (meditation) dưới một trong những bóng cây đa lớn – mọc rãi rác trên bình nguyên sông Hằng cho tới khi tìm câu trả lời . Ngài đã xem xét những ý tưỡng cũa ngài để khám phá làm thế nào và tại sao con người thường tạo ra sự đau khổ về tâm thần cũa chính họ . Từ dưới bóng cây này , ngài đã trở thành Phật , với nghĩa đơn giản là “người đã giác ngộ” . (Cây này , tên khoa học là Ficus religiosa , hiện nay được biết như cây đồ đề/bodhi tree) . Cho tới khi ngài chết ở tuổi 80 , đức Phật đã đi lại theo hành lang mà nay là các bang Bihar và Uttar Pradesh cũa Ấn độ , và chia sẽ những hiểu biết cũa ngài với tất cã những ai muốn nghe .
       Những tư tưỡng cũa ngài đã ko dựa vào niềm tin , như trong các tôn giáo khác , nhưng dựa vào sự quan sát qua kinh nghiệm , đã bắt đầu có từ khi ngài đi ra khỏi hoàng cung . Ngài đã tìm ra Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths) :
  1. Có đau khổ trong thế giới này , hoặc là tinh thần hay là thể chất .
  2. Đau khổ xãy ra khi người ta bám víu/gắn bó với dục vọng cũa họ (too great an attachment to one's desires) .
  3. Khi triệt tiêu nguyên nhân này – sự bám víu/gắn bó - bạn có thể triệt tiêu đau khổ .
  4. Có một phương pháp đễ triệt tiêu nguyên nhân này , được gọi là Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) , một hướng dẫn để có được hành vi và tư tưởng “đúng” . Bát Chánh Đạo là một kim chĩ nam về tinh thần đưa ta tới : chánh kiến, chánh tư duy , chánh ngữ , chánh nghiệp , chánh mạng , chánh tinh tấn , chánh niệm , và chánh định .
       Một trong những thực hành quan trọng cũa Bát Chánh Đạo là thiền định . Dù cho kỷ thuật này khác nhau giửa các giáo phái – ngồi một mình hay trong một nhóm , nhìn vào tường (diện bích) hay người hướng dẫn về thiền , mắt nhắm hay mở hé , trong im lặng hay tụng kinh – các cách thức đều bắt đầu bằng cách chú ý sát sao từng hơi thỡ cũa mình . Không có bất cứ cái gì thần bí hay thuộc về thế giới bên kia (mystical or other-worldly) trong điều này , không có sự lơ lững trên không , không có kinh nghiệm xuất hồn (out-of-body experience) . Với mổi hơi thở ra và vào sự nhận thức/quán chiếu cũa chúng ta trở nên tinh tế hơn , tập trung hơn .
       Khi thở vào … bạn sẽ nhận thức được các cãm giác cũa cơ thể bạn , và bộ phận dể sao lãng nhứt cũa bạn , đó là ý nghĩ/tinh thần/niệm . Khi thở ra … bạn cãm nghiệm sự căng thẳng cũa cơ thể bạn được nhã ra/phóng thích , và bạn cố gắng để đưa cái ý nghĩ/tinh thần/niệm đang lang thang cũa bạn trở vào hơi thở . Khi thở vào … không khí mơn trớn đầu mũi cũa bạn . Khi thở ra … cơn đau ở đầu gối cũa bạn giảm đi , nhưng ý nghĩ/tinh thần/niệm vẫn còn đi lang thang . Khi thở vào …tôi có nên làm điều gì hữu ích hơn trong lúc này không ? Khi thở ra … ai là ”tôi” trong ý nghĩ vừa rồi ? Khi sự thiền định này càng tinh tế hơn , dù có lúc bạn đau đớn hay vui sướng , nhưng cuối cùng bạn sẽ nhận ra điều mà đức Phật đã nhận thức được . “Bạn là cái mà bạn suy nghĩ,” ngài nói .
        Đức Phật đã ko hề muốn ý tưỡng cũa ngài thành một tôn giáo ; thực tế ngài đã khuyên chúng ta ko nên đi theo bất cứ con đường hay sự hướng dẫn nào mà ko tự mình thử nghiệm . Những lời cuối cùng cũa ngài trước khi chết , được kễ như sau : “ Bạn hãy tự mình đốt đuốc soi đường cho chính bạn.” Tuy nhiên , trong vòng vài trăm năm sau khi ngài qua đời , những lời dạy cũa đức Phật ngày càng có nhiều người theo . Ngày nay , với 379 triệu tín đồ , Phật giáo là tôn giáo đứng hàng thứ năm trên thế giới , sau Thiên chúa giáo với 2,1 tĩ tín đồ , Hồi giáo với 1,3 tĩ , Ấn độ giáo với 870 triệu , và tôn giáo cổ truyền cũa Trung Hoa (Khỗng giáo) với 405 triệu . 










Tranh thủ giờ nghĩ từ một thế giới bận rộn , các người dân New York này đến Trung tâm Thiền Shambhala để thiền tập thể .









Thực phẩm đóng hộp , sô-cô-la , ngay cã chip khoai tây - hầu như mọi tặng phẩm làm từ đồ chay 
đều được đón nhận bởi các vị sư cũa tu viện Shasta ở bắc California  (gần ranh giới với bang Oregon) . 
Đổi lại , 
họ sống đơn giản và cố gắng đè nén những dục vọng khiến con người sa ngã .
 
       Một số người đã chĩ rỏ/chứng tỏ rằng Phật đã đúng , rằng ta không nên xem đạo Phật là một tôn giáo nhưng nên là một triết học hay một dạng tâm lý học . Sau cùng , ko như các tôn giáo khác , ko có nhân vật tối thượng , và đạo Phật khuyên bạn nên đặt câu hỏi/chất vấn – hay thách thức – giáo quyền/giáo hội/authority .
       Có nhiều người trong thế hệ cũa tôi , trưỡng thành từ nữa sau cũa thế kỹ 20 , đã bị lôi cuốn bởi những điểm trên cũa đạo Phật . Đạo Phật ko giáo điều (chúng tôi ko tin vào giáo quyền ; đạo Phật chĩ dựa trên bằng chứng mà bạn có thể kiểm tra với chính giác quan cũa bạn (chúng tôi đang ở thời đại mà khoa học là thượng đế mới) ; đạo Phật gợi ý rằng bạn , chứ ko phải quyền lực bên ngoài bạn , quyết định về hạnh phúc cũa bạn (chúng tôi là những người ở tuyến đầu cũa thập niên 1970 , còn được gọi là Me Decade) ; đạo Phật đã xem ý tưỡng/tinh thần cũa chúng ta vừa là chướng ngại vừa là chìa khóa để thực sự hiểu về chính chúng ta (chúng tôi xử dụng phân tâm học hay bác sĩ Freud) .
      Trong khi nhiều người Âu châu hay Mỹ bị lôi kéo những lễ nghi hoa mỹ và phức tạp cũa Phật giáo Tây tạng hay Thiền cũa người Nhật , những người khác hình như thích sự đơn giãn cũa Phật giáo Tiểu thừa (Theravada Buddhism) cũa vùng Đông Nam Á . Từ truyền thống này , tôi thực hành vipassana , thiền định “chánh niệm” . Điều này tuy ko giúp tôi đạt được giác ngộ – nhưng đã giúp tôi có cái nhìn rỏ hơn đối với các câu hỏi sau đây – mà tôi vẫn còn thắc mắc : Tôi là ai ? Tại sao tôi lại ở đây ? Làm thế nào tôi có thể đạt được hạnh phúc lâu dài ?
          Để minh chứng cho tính thích ứng cũa đạo Phật , kỹ thuật thiền định mà tôi đang áp dụng đã trở thành một chương trình cải tổ lao tù đầy sáng tạo đang phát triển khắp Ấn độ .
       “ Tôi ko ở tù , mà đang thực hành vipassana (thiền định chánh niệm) , “ tù nhân Hyginus Udegbe nói . Đã chờ đợi 4 năm rưởi để chờ kêu án về tội sỡ hữu cocaine , anh Hyginus , người Nigeria , bị giử tại Tổ hợp Lao tù Tihar ở New Delhi . Đây là một trong những trại tù lớn nhứt Á châu , với gần 13.000 tù nhân , hơn hai lần khả năng cũa nó . Cuộc sống quá chật chội , điều kiện vệ sinh ko đầy đũ , và một ban giám thị đôi khi phải dùng đến trấn áp và đối xử độc ác các tù nhân đã biến trại này thành một địa ngục sống với nhung nhúc tù nhân .
      Nhưng đối với Hyginus và hàng ngàn tù nhân khác ở Ấn độ , thực hành thiền định chánh niệm đã biến đỗi trại tù này thành một ốc đão đễ tự suy gẫm (self-reflection) và phục hồi . Cứ hai tuần thì có khóa học vipassana trong mười ngày ở một khu biệt lập và im lặng thuộc Trại tù số 4 . Tù nhân có thể tham dự khóa học mỗi ba tháng và nhiều người đã tham gia .
         “ Tôi bị áp huyết cao và mất ngũ , “ anh Hyginus , một người ngực to , đầu hói , cao sáu bộ Anh (1,83 m) có dáng dấp một đấu thũ hơn là một người học thiền . Sau lưng chúng tôi , được vẽ trên một bức tường cao là một bánh xe màu vàng , biểu tượng truyền thống cũa giáo lý cũa Phật , hay dharma (pháp) . “Sau khóa thiền đầu tiên ở đây, “ Hyginus nói , “áp huyết tụt xuống , và tôi đã ngũ 10 giờ mỗi tối . Trước kia , tôi thường nóng nãy ; nay tôi cảm thấy mình giống như bồ câu , rất hiền ; tôi rất hạnh phúc . “
       Tôi còn ngạc nhiên hơn khi nói chuyện với một người 14 năm làm giám thị trại tù Tihar . Ông ta đã dự ba khóa thiền ở đây , hoàn toàn tự nguyện . “ Tôi muốn tự tôi trải nghiệm những điều mà tôi nghe nói về vipassana , “ ông ta kể cho tôi . “ Trước khóa thiền này , tôi thường đánh tù nhân . Tôi đã căng thẳng đến độ đã biến mình thành một quái vật . Sau khóa thiền , tôi cãm thấy mình nhân đạo hơn . Giờ đây , nhiều tù nhân đến với tôi để hõi ý kiến (for counseling) .
      " Chúng ta đều là tù nhân – cũa ý tưỡng/tinh thần cũa chúng ta , " ông Satya Narayan Goenka , một doanh gia người Miến điện 80 tuỗi nay trở thành một thày dạy thiền ở Ấn độ ; ông là người dẩn đầu sự trổi dậy cũa vipassana ở Ấn độ . “ Có nơi nào để nhận ra điều này tốt hơn là sau chấn song sắt ? “ Thật vậy , trên các trại tù trên toàn thế giới , các nhóm thiền nay thường xuyên gặp nhau . Thực hành các kỷ thuật này , các khảo sát cho thấy , tù nhân sẽ giảm bớt nổi đau khổ cũa họ và ít gây sự với tù nhân khác .
       “Tôi ko thuyết giảng đạo Phật , “ Goenka nói với tôi một cách dứt khoát khi tôi gặp ông tại nhà ở Mumbai . Ông ta là một người to nhưng thanh nhã , với một giọng trầm oang oang . “ Tôi ko có ý chuyển đổi một người từ đạo này sang đạo khác . Tôi chĩ quan tâm chuyển đỗi người ấy từ đau khổ sang hạnh phúc , từ trói buộc sang giải thoát , từ độc ác sang sự thương cãm .
       “ Không có gì bí ẩn trong vipassana , “ ông ta tiếp tục với tiếng cười khúc khích với cái bụng to lắc lư . “ Vipassana có nghĩa " thấy mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc quan sát " . Sau khi theo dỏi hơi thở trong vài ba ngày , bạn bắt đầu để ý đến các cãm giác cũa bạn . Bạn nhận ra một cách nhanh chóng rằng bạn đã bị ám ãnh bởi những sự thèm muốn – thực phẫm , sự nồng hậu , tất cả mọi loại thèm muốn – và ác cãm với những điều mà bạn ko thích . Rồi bạn nhận ra tất cã đều là vô thường . Mọi sự đều thay đỗi . Từ những nhận thức đơn giản này , được khám phá bởi mọi người bắt đầu từ đức Phật , một triết lý cuối cùng được mở ra . “ (còn tiếp) 
 
San Jose ngày thứ hai 10 Sep 2012 lúc 0938 pm , sau ba ngày liên tiếp bỏ công sức để dịch thuật bài báo này .