Bạch hóa diễn biến trước và sau Hội nghị Thành Đô
Đôi lời: Về quá trình bình thường hóa quan hệ VN-TQ, nhiều năm qua đã có những tiết lộ về vai trò của TBT Nguyễn Văn Linh và đại tướng bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh qua 2 cuộc gặp riêng với đại sứ TQ Trương Đức Duy ngày 5 và 6/6/1990 *.
Thế nhưng mới đây, viên đại sứ này còn tiết lộ thêm mấy cuộc tiếp xúc
“bí mật” nữa ngay sau đó, theo nghi thức rất lạ, mà xem ra giới chức
chóp bu VN khi đó hoàn toàn không biết *. Để rồi chỉ mươi ngày sau đã có
cuộc gặp cấp cao Trung-Việt tại Thành Đô đầu tháng 9/1990, qua lời mời
cũng rất lạ của TQ với các vị “nguyên thủ” VN trước chuyến thăm chỉ có 5
ngày. Thực hư chuyện này tới đâu, tại sao phía TQ lại tung ra bản gọi
là “hồi ký” của họ Trương vào lúc này, đó là điều cần phải làm rõ.
(Những đoạn tô đậm là do Ba Sàm thực hiện để độc giả tiện theo dõi. Mời xem thêm các tài liệu liên quan ở cuối bài).
—
Mạng Báo buổi sáng Liên hợp, Trung Quốc – 中越高层成都会晤的前前后后
TRƯỚC VÀ SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ
21-11-2011
(Ghi lại việc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước [Trung-Việt])
Tác giả: Trương Đức Duy
Người dịch: Quốc Thanh
Tóm tắt về tác giả: Sinh năm 1930 ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng
Đông, từng là Hoa kiều học tại Việt Nam. Năm 1948 tham gia Đội công tác
chính trị thuộc Biên khu Việt Quế[1], năm 1949 được Tung đội Biên khu
Việt Quế điều vào tham gia bộ đội Việt Nam, sau đó điều vào làm trong
Đoàn cố vấn chính trị, quân sự giúp Việt Nam chống Pháp của Trung Quốc.
Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ
trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu. Năm 1964, lại được phái về
giữ chức Bí thư thứ ba ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Năm 1967,
giữ các chức Thư kí Tổ chăm sóc y tế cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và phiên
dịch cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ tháng 7 năm 1985 đến tháng 3 năm 1983, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền
tại Vương quốc Thái Lan kiêm Đại sứ tại Campuchia dân chủ, đồng thời là
Đại diện thường trú của Ủy ban Kinh tế và Xã hội Khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương của Liên Hiệp Quốc; từ tháng 4 năm 1989 đến tháng 3 năm 1993,
làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam. Từ tháng 6 năm
1993 về hưu cho đến nay, từng trải qua các chức vụ Phó chủ tịch Hội hữu
nghị Trung-Việt, Chủ tịch các khóa 3, khóa 4, khóa 5 và Chủ tịch danh dự
Hội hữu nghị Hoa kiều Việt Nam, Campuchia, Lào.
Lời người biên tập: Năm nay nhân dịp kỉ niệm 20 năm bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước hai Đảng Trung-Việt, xin đặc biệt đăng
tải một bài hồi ký của tác giả viết sau ngày rời bỏ chức vụ ở Việt Nam,
nhằm cung cấp cho độc giả một sự hiểu biết khá tường tận về sự kiện lịch
sử trọng đại này.
Chuyến bay huyền bí
Sớm ngày 3 tháng 9 năm 1990, Hà Nội – Thủ đô Việt Nam, mưa phùn lất phất.
8 giờ 10 phút (10 giờ 10 phút giờ mùa hè
Bắc Kinh), một chiếc chuyên cơ Tu-134 màu bạc cất cánh từ Sân bay quốc
tế Nội Bài tĩnh lặng, chầm chậm bay lên không trung, lặng lẽ hướng thẳng
tới biên giới Trung-Việt. Đây là chiếc máy bay dân dụng Việt Nam đầu
tiên bay tới Trung Quốc kể từ 20 năm nay, còn hành khách trên máy bay
lại là các nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam – Tổng bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính trị
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính
phủ Đỗ Mười, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,
nguyên Thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng. Có thể dự đoán được hành động
này sẽ có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến mối quan hệ Trung-Việt. Tuy
nhiên, trên sân bay không có đông người ra tiễn, không có nhà báo, lại
càng không có cảnh tượng quần chúng. Tất cả những điều đó đã khoác lên
một màu sắc huyền bí cho chuyến bay này.
Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990). Hàng trước từ
trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng,
cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân
(5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9), …
Chuyến đi Trung Quốc bí mật lần này của
các nhà lãnh đạo tối cao Việt Nam, theo lời mời của Tổng bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Ủy viên Bộ
chính trị Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện
Lý Bằng, là tới Thành Đô để tổ chức hội đàm nội bộ về vấn đề Campuchia
và mối quan hệ Trung-Việt. Những người đi theo phía Việt Nam có: Ủy viên
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Hồng
Hà, Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng thứ nhất Bộ
ngoại giao Đinh Nho Liêm. Tôi với tư cách là Đại sứ Trung Quốc tại Việt
Nam đã đi theo tới và tham gia cuộc hội đàm một cách ngẫu nhiên.
Máy bay bay an toàn, trong khoang rất yên
tĩnh, mọi người không nói chuyện nhiều, dường như đều đang trầm tư, hình
dung xem chuyến đi này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ
Việt-Trung. Tôi nhìn từng đám từng đám mây lùi lại phía sau bên ngoài
cửa sổ máy bay, trăm mối suy nghĩ, những việc đã qua hiện về trong đầu…
Ôn lại mối quan hệ Trung-Việt, từ buổi đầu
thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho đến giữa thập niên 70
của thế kỷ 20, mối quan hệ hai nước hai Đảng luôn hết sức tốt đẹp và
thân thiện. Trong các cuộc Chiến tranh chống Pháp và Đấu tranh chống Mỹ
cứu nước lâu dài của Việt Nam, trong quá trình khôi phục và xây dựng
kinh tế toàn diện của Việt Nam, Trung Quốc đều có sự ủng hộ và chi viện
lớn nhất. Nhất là trong thời khắc ngặt nghèo khi quân xâm lược Mỹ đem
bom rải khắp Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh trọng tuyên bố:
“Bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững chắc của nhân dân
Việt Nam, đất Trung Quốc rộng rãi bao la là hậu phương đáng tin cậy của
nhân dân Việt Nam”. Đồng thời, đã điều hơn 32 vạn Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc tới Miền Bắc Việt Nam,
kề vai sát cánh cùng quân dân Việt Nam chống trả lại những trận ném bom
rải thảm của bọn giặc trời Mỹ. Cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói một
cách thấm thía: Trung Quốc đối với Việt Nam là “Trăm ơn ngàn nghĩa vạn
tình” và đã dùng câu thơ sâu sắc “Mối tình thắm thiết Việt Hoa, Vừa là
đồng chí, vừa là anh em” để mô tả mối quan hệ thắm thiết giữa hai nước.
Nhưng, ai mà biết được chữ ngờ, sau lưng Hồ Chí Minh, khi đã
giành được thắng lợi trong cuộc Đấu tranh chống Mỹ cứu nước và hoàn toàn
thống nhất, bè đảng do Lê Duẩn cầm quyền đã từ bỏ con đường đúng đắn
của Hồ Chí Minh, trắng trợn thi hành chính sách xâm lược Campuchia, phản
Hoa bài Hoa, làm cho mối quan hệ Trung-Việt cực kì xấu đi, để đến nỗi
nhìn nhau như kẻ thù. Từ đó, mối quan hệ không bình thường đầy bi kịch giữa hai nước đã kéo dài suốt hơn 10 năm.
Làm Đại sứ Việt Nam với đầy trọng trách
Tháng 4 năm 1989, tôi nhận nhiệm vụ làm
Đại sứ tại Việt Nam, gánh trên vai một sứ mệnh quan trọng, đó là quán
triệt phương châm mà Trung ương đã định ra là: Trước hết, Việt Nam phải
thực sự rút sạch quân ra khỏi Campuchia, thực sự giải quyết công bằng
vấn đề Campuchia theo chủ trương của cộng đồng quốc tế, thực sự thay đổi
chính sách đối với Trung Quốc, thì mới có thể gạt bỏ được mọi trở ngại
mà khôi phục lại mối quan hệ bình thường Trung-Việt, đây chính là then
chốt. Căn cứ vào toàn bộ cục diện quốc tế, cục diện khu vực và động
hướng chuyển biến về chính sách của ban lãnh đạo mới của Đảng cộng sản
Việt Nam do Nguyễn Văn Linh đứng đầu, cần sớm thúc bách Việt Nam rút
quân triệt để khỏi Campuchia, đồng thời giải quyết công bằng vấn đề
Campuchia theo chủ trương của cộng đồng quốc tế, từ đó mà mở đường cho
việc khôi phục lại mối quan hệ bình thường Trung-Việt. Cần thấy rằng,
điều kiện lúc này đã cơ bản đầy đủ. Nhưng, qua một thời gian tìm tòi và
làm việc kể từ khi tới nhậm chức, tôi cảm thấy muốn giải quyết được hai
vấn đề đại sự này vẫn còn những khó khăn không nhỏ, nguyên nhân là do tàn dư thế lực của Lê Duẩn vẫn còn gây quấy nhiễu từ nhiều phía,
mối quan hệ Trung-Việt vẫn còn ở trạng thái đối lập và đối kháng, tranh
chấp biên giới vẫn còn xảy ra đôi lúc; giữa hai nước ngoài quan hệ
ngoại giao ra, mọi mối quan hệ khác đều đã bị đoạn tuyệt.
Song, vũ đài ngoại giao rất rộng lớn, tôi
đã mở hoạt động bằng nhiều phương thức, tận dụng hết những mối quan hệ
cũ, tới thăm khắp những người lãnh đạo các cấp các ngành để làm việc
xoay quanh các vấn đề nói trên. Trải qua bao nỗ lực, tuy cũng có được
một vài tiến triển, nhưng Nguyễn Cơ Thạch khi ấy là Ủy viên Bộ
chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao lại đang nắm đại quyền
ngoại giao của Việt Nam. Tôi đã nhiều lần bàn bạc trao đổi với ông ta về
vấn đề Campuchia nhưng không bao giờ tới nơi, vấn đề mấu chốt vẫn chưa
giải quyết được. Thời gian đã trôi qua 1 năm, làm thế nào bấy giờ?
Lúc này tôi cân nhắc đến việc phải tìm cách thâm nhập chuyện trò với những người lãnh đạo cấp cao hơn bên phía Việt Nam.
Trong thời gian này, tôi từng thông qua con đường ngoại giao bình
thường để đề xuất nguyện vọng tới thăm chủ tịch nước và thủ tướng chính
phủ, nhưng do mối quan hệ hai nước hai đảng vẫn đang ở trạng thái không
bình thường, cho nên Bộ ngoại giao Việt Nam đều không sắp xếp. Vì thế,
tôi nghĩ đến Nguyễn Văn Linh đang giữ chức Tổng bí thư Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam, trong thời kì Đấu tranh chống Mỹ của Việt Nam từng bí
mật tới thăm Trung Quốc với tư cách là nhà lãnh đạo chủ yếu của Miền
Nam Việt Nam, khi gặp mặt các nhà lãnh đạo Trung Quốc ở Bắc Kinh, tôi
từng đảm nhận vai trò phiên dịch cho ông ta, ông ta chắc vẫn còn nhớ
tôi, thế là tôi bày tỏ ý muốn được tới thăm ông thông qua bạn bè. Quả
nhiên không lâu sau, Nguyễn Văn Linh đã tiếp tôi vào ngày 5 tháng 6 năm
1990. Khi gặp mặt, ông bắt tay tôi rất lâu và nhiệt tình, tỏ ra hết sức
thân thiết. Tự đáy lòng, ông vẫn nhớ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước
hai Đảng trong quá khứ, đồng thời bày tỏ hết sức trân trọng mối tình hữu
nghị tốt đẹp Việt-Trung, hi vọng mối quan hệ này sẽ được khôi phục
trong thời gian sớm nhất. Tôi trình bày theo đúng tinh thần của Trung
ương là lãnh đạo Trung Quốc luôn coi trọng mối quan hệ và tình hữu nghị
truyền thống giữa hai nước Trung-Việt, hi vọng phía Việt Nam sớm áp dụng
những biện pháp thiết thực để giải quyết tốt vấn đề Campuchia…, đồng
thời mở đường cho việc khôi phục mối quan hệ bình thường giữa hai nước
Trung-Việt. Nguyễn Văn Linh nói, ông cũng có nguyện vọng giống như lãnh
đạo Trung Quốc, đồng thời bày tỏ nguyện vọng được đi thăm Trung Quốc
theo đường nội bộ, để đích thân trao đổi trực tiếp với lãnh đạo cấp cao
Trung Quốc về những vấn đề cùng quan tâm. Ở lần gặp mặt này, vì
có nhiều người đi theo cùng có mặt, nên Nguyễn Văn Linh chưa bàn sâu đến
vấn đề Cam puchia và quan hệ giữa hai nước. Nhưng sau đó, mọi việc đã
có bước tiến triển mới.
Lời nhắn quan trọng chuyển rõ ý
Sau đó không lâu, vào ngày 16 tháng 8, một
cán bộ Viện khoa học xã hội Việt Nam là Hoàng Nhật Tân (con trai Hoàng
Văn Hoan) tới sứ quán gặp tôi (ông cùng với mẹ tới Bắc Kinh thăm bố mình
vừa về), xúc động nói: “Tối ngày 13 tháng 8, Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh cho xe tới đón tôi đến nhà ông nói chuyện một tiếng đồng hồ, hỏi
thăm kĩ lưỡng về tình hình sinh hoạt và sức khỏe của bố tôi, hết sức
thân thiết. Tổng bí thư còn nói, ông muốn được gặp Đại sứ Trương
lần nữa, nhưng Bộ ngoại giao nói chưa cần và đã ngăn lại. Vì thế, ông
ấy nhờ tôi ghi lại một lời nhắn. Khi Tổng bí thư nói, tôi đã
ghi lại hết sức tường tận. Cuối cùng còn đọc lại một lượt và đã được sự
xác nhận của ông ấy”. Sau đó, Hoàng Nhật Tân trịnh trọng chuyển cho tôi
lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, nội dung chủ yếu như sau:
“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Khải Sơn đã
chuyển đến tôi lời thăm hỏi của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lòng mong mỏi
sớm được thấy sự bình thường hóa mối quan hệ Trung-Việt của đồng chí
Đặng Tiểu Bình, tôi nghe thấy rất phấn khởi. Tôi cũng tha thiết mong mỏi
mối quan hệ tốt đẹp Việt-Trung có thể được khôi phục trong nhiệm kì
Trung ương khóa 6 Đảng cộng sản Việt Nam do tôi chủ trì, để mở đầu một
giai đoạn mới cho quan hệ hai nước khi tiến hành Đại hội 7 của Đảng cộng
sản Việt Nam. Làm được việc này thì mới khỏi phụ sự tín nhiệm của nhân
dân Việt Nam và các Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đối với tôi. Tôi
muốn nói một cách thẳng thắn rằng, sở dĩ trở ngại về vấn đề Campuchia
cứ bị kéo dài chưa được giải quyết là vì có những người trong Đảng luôn
làm sai lệch sự việc, chưa quán triệt được tinh thần chủ yếu của Trung
ương. Tôi hi vọng phía Trung Quốc cho mời tôi và Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng Đỗ Mười cùng Cố vấn Phạm Văn Đồng tới thăm Trung Quốc
theo con đường nội bộ, để trao đổi trực tiếp và sâu hơn với lãnh đạo
Trung Quốc về việc giải quyết vấn đề Campuchia…, tin rằng những vấn đề
này nhất định sẽ được giải quyết thật tốt, từ đó mà thực hiện được bình
thường hóa quan hệ hai nước Việt-Trung. Tôi sẽ đi theo con đường của Hồ
Chủ tịch, vun đắp tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những lợi ích cách mạng chung giữa
hai nước Việt-Trung, sẽ đi tiếp một cách kiên định không lay chuyển”.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990)
Sau khi đã chăm chú nghe lại lời nhắn từ
Nguyễn Văn Linh, tôi nói với Hoàng Nhật Tân: Nếu có cơ hội, nhờ anh
chuyển lời lại cho đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh rằng tôi hiểu được ý tứ và nỗi lòng của ông ấy, tôi sẽ báo cáo ngay với Trung ương chúng tôi.
Tiễn chân Hoàng Nhật Tân xong, tôi quay về
phòng làm việc suy nghĩ mãi về một vấn đề. Ngày 5 tháng 6, tôi từng báo
cáo về trong nước là khi Nguyễn Văn Linh gặp tôi có đề xuất yêu cầu được đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ.
Trả lời từ trong nước là phải giải quyết trước hai vấn đề mấu chốt còn
lại trong vấn đề Campuchia (đó là: Việt Nam phải rút quân triệt để khỏi
Campuchia và giải pháp chính trị công bằng cho Campuchia), rồi sau đó
mới bố trí cuộc gặp cấp cao hai nước theo đúng trình tự và hợp lí. Bây
giờ lại đã xuất hiện những tình huống và nhân tố mới, vậy tôi nên đưa ra
quan điểm và kiến nghị ra sao đây? Suy nghĩ mãi, tôi thấy vẫn nên đề
xuất kiến nghị tích cực hưởng ứng yêu cầu của Nguyễn Văn Linh, để lãnh
đạo tham khảo ra quyết sách. Trong báo cáo, tôi chủ yếu phân tích mấy
điểm sau: Một là Nguyễn Văn Linh luôn thân thiện với Trung Quốc. Việc
ông ta mong sớm giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục mối quan hệ tốt
đẹp Trung-Việt là chân thành. Hai là vấn đề Campuchia bị để dây
dưa không giải quyết, nguyên nhân quan trọng là do Nguyễn Cơ Thạch cùng
Bộ ngoại giao do ông ta nắm quyền ngăn chặn khắp nơi. Nguyễn
Văn Linh muốn vượt qua được tầng chướng ngại vật này thì phải có sự bàn
định từ lãnh đạo tối cao của hai nước trước, rồi sau đó mới tìm cách
nghĩ ra các biện pháp, điều này phù hợp với thực tế trước mắt của Việt
Nam. Ba là Nguyễn Văn Linh hi vọng chúng ta mời cả Đỗ Mười, Phạm Văn
Đồng cùng đi, dụng ý là để tăng thêm độ uy quyền của chuyến đi và tiện
cho việc quyết ngay tại chỗ những vấn đề trọng đại, đồng thời cũng cho
thấy ông hết sức coi trọng những vấn đề này. Bốn là phán đoán từ tình
hình đối nội và đối ngoại mà phía Việt Nam hiện tại đang ở vào, thì với
việc tổ chức hội đàm nội bộ giữa lãnh đạo hai nước vào lúc này, xác suất
có thể đạt kết quả tốt là rất lớn.
Ngày hôm sau, nhận được điện trả lời chỉ
thị muốn tôi phải lập tức kiểm tra độ xác thực của nội dung lời nhắn, đề
xuất với người tin cậy bên Nguyễn Văn Linh là “đích danh Đại sứ muốn
được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trong một ngày gần đây”, để
trực tiếp tìm hiểu ý đồ thực của Nguyễn Văn Linh. Hơn 10 năm qua, quan
hệ Trung-Việt ở trạng thái không bình thường, sứ quán không có mối liên
hệ nào với người tin cậy bên Nguyễn Văn Linh, vậy thì nên thông qua con
đường nào đây để yêu cầu được gặp riêng một cách ổn thỏa hơn? Tôi triệu
tập ngay cuộc họp Đảng ủy mở rộng, mời mọi người bàn bạc ra mưu sách. Ý
tưởng thông qua con đường Vụ đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
thì sợ sẽ không giữ được bí mật, mà cũng khó để thực hiện “gặp riêng”.
Có đồng chí nêu xem xem có thể thông qua con đường quân đội được không?
Tôi cho như thế sẽ khá là ổn thỏa, lại càng có lợi hơn cho việc bảo mật.
Thế là tôi liền nghĩ tới Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh Cục trưởng
Cục đối ngoại Bộ quốc phòng mà tôi khá thân thiết, từ ngày đến Việt Nam
lần này, tôi đã gặp ông ta vài lần, quan hệ rất tốt, có thể thông qua
ông ta để yêu cầu được gặp Đại tướng Lê Đức Anh (Ủy viên Bộ
chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ quốc phòng)
thân thiết với Nguyễn Văn Linh, rồi xin Lê Đức Anh giúp đỡ bố trí cho
tôi bí mật gặp Nguyễn Văn Linh. Mọi người thấy biện pháp này có thể
được. Thế là tôi lập tức cho Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ chính
thức với Cục trưởng Vũ Xuân Vinh. Khi gặp Cục trưởng Vũ Xuân Vinh, Tùy
viên quân sự Triệu đã trịnh trọng đề xuất: “Đại sứ Trương có việc gấp và
quan trọng muốn được gặp Bộ trưởng Lê Đức Anh. Xin Cục trưởng bố trí
cho ngay”. Chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh trả lời Tùy viên quân sự Triệu
rằng: “Đồng chí Đại tướng rất vui lòng được gặp đồng chí Đại sứ, 8 giờ
sáng hoặc 7 giờ tối mai đều được. Đại tướng còn nói, sau này đồng chí
Đại sứ có muốn gặp ông thì cứ Cục đối ngoại Bộ quốc phòng bố trí là
được”.
Vào 8 giờ sáng ngày 20 tháng 8, xe của tôi
chạy thẳng vào Bộ quốc phòng. Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh đón đợi ở cổng
tòa nhà, dẫn tôi vào phòng tiếp khách của Bộ trưởng rồi lui ra, khép
chặt cửa lại. Tôi đang tiến thẳng vào thì Bộ trưởng Lê Đức Anh cũng bước
vào phòng khách từ một cửa khác, khi gặp nhau Lê [Đức Anh] bắt tay, ôm
tôi rất nhiệt tình. Tôi nói xã giao: “Thực sự được xin lỗi, mới sáng ra
đã tới làm phiền đồng chí Đại tướng”. Đại tướng Lê [Đức Anh] mỉm cười
bảo: “Đại sứ đến lúc nào tôi cũng tiếp”. Trong phòng khách ngoài hai
chúng tôi ra, không có ai đi theo. Chuyện trò hàn huyên xong tôi chuyển
ngay sang chủ đề chính, đầu tiên bày tỏ lãnh đạo Trung Quốc rất coi
trọng mối quan hệ Trung-Việt, hiện nay tình hình quốc tế phát triển rất
nhanh, thời gian không chờ đợi mình, cả hai bên cần chớp lấy thời cơ,
nhanh chóng loại bỏ trở ngại là vấn đề Campuchia, từ đó thực hiện bình
thường hóa quan hệ Trung-Việt. Sau đó tôi nhắc đến lời nhắn của Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh đã được ghi lại gửi cho tôi, tôi cảm thấy hết sức
quan trọng, cho nên mong được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để
trực tiếp lắng nghe ý kiến của Tổng bí thư, đồng thời tôi cũng có một
vài điều nữa cần nói với Tổng bí thư. Tôi nói, hiện giờ mà thông qua con
đường khác sẽ có khó khăn, cho nên xin phiền đồng chí Đại tướng giúp
cho. Lê Đức Anh nói rất thoải mái: “Đây quả thực là việc hết sức quan
trọng, hôm nay tôi sẽ báo cáo lại yêu cầu của Đại sứ với Tổng bí thư”.
Tiếp đó, Lê Đức Anh cũng nói về hai quan điểm, đại ý là: Thứ nhất, nhấn
mạnh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Trung Quốc, luôn chủ trương
thân thiện với Trung Quốc, từ sau khi nhậm chức Tổng bí thư vào năm 1986
đã làm rất nhiều việc để khôi phục lại mối quan hệ giữa hai nước hai
Đảng. Trước tình hình thế giới phức tạp như hiện nay, việc thực hiện
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước lại càng trở thành niềm mong muốn
ấp ủ của ông ấy. Thứ hai, bước đi đầu tiên trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia là phải thành lập Hội đồng tối cao toàn quốc Campuchia, nhưng
nếu hai đảng cộng sản ở Campuchia không thực hiện hòa giải, thì có thành
lập ra Hội đồng tối cao cũng không thể thực sự giải quyết được vấn đề,
các phái sẽ vẫn còn tiếp tục tranh cãi, thậm chí còn lại đánh nhau. Cho
nên, cả hai phía Trung-Việt cần cùng nỗ lực khuyên giải hai đảng cộng
sản ở Campuchia hòa giải, để nước Campuchia tương lai có thể bình yên
được lâu dài.
Gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
Chiều hôm đó, Cục trưởng Vũ Xuân Vinh hẹn
gặp gấp Tùy viên quân sự Triệu, nói rằng: “Theo chỉ thị của Đại tướng Lê
Đức Anh, xin chuyển lời tới Đại sứ Trương. Vào 19 giờ 30 phút
ngày 22, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ gặp riêng Đại sứ Trương tại
phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Cả hai bên đều không đem theo phiên
dịch và thư kí. Đề nghị Đại sứ Trương đổi sang một chiếc xe nhỏ, không
cắm quốc kỳ, đi vào từ cửa bên Bộ quốc phòng”.
Mọi sự được tiến hành thuận lợi hơn dự
kiến. Tối đó, tôi theo hẹn đúng giờ đến Bộ quốc phòng. Trong cuộc gặp
hơn 40 phút, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói chuyện với tôi hết sức thân
mật và thẳng thắn, ông đã chứng thực cho lời nhắn mà Hoàng Nhật Tân đã
ghi lại. Nguyễn [Văn Linh] nói: Trong công cuộc đấu tranh cách mạng dài
lâu và trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Việt Nam luôn
nhận được sự ủng hộ và viện trợ to lớn từ lòng tấm chân thành của Trung
Quốc. Bản thân tôi trước sau đều cho rằng, Việt Nam cần giữ mối quan hệ
tốt đẹp với Trung Quốc. Thời kì Đại hội IV Đảng cộng sản Việt
Nam năm 1976, vì không đồng tình với một vài cách làm làm xấu đi mối
quan hệ Việt-Trung mà tôi đã bị chỉ trích là “hữu khuynh”. Thời
kì Đại hội V năm 1982, lại chỉ vì không tán thành chính sách bài Hoa và
chủ trương ở giai đoạn hiện tại cần cho phép nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại mà tôi đã bị ra khỏi Bộ chính trị. Khi ấy, tôi rất
khó lí giải được vì sao lại phải áp dụng thái độ đó với Trung Quốc. Nếu
như Bác Hồ còn sống khỏe mạnh, thì dứt khoát sẽ không xuất hiện chuyện
quái gở như vậy. Rồi còn chính sách đối xử với người Hoa và Hoa kiều
cũng là sai lầm. Người Hoa, Hoa kiều đã có những đóng góp quý báu cho sự
nghiệp cách mạng và xây dựng của Việt Nam, khi thắng lợi rồi chúng tôi
lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là cạn tàu ráo máng.
Nguyễn Văn Linh còn nói đến cả chuyện khi
lên làm Tổng bí thư vào năm 1986, ông liền quyết tâm khắc phục mọi trở
lực, từng bước chỉnh sửa những sai lầm trong quá khứ, khôi phục lại tình
thân thiện với Trung Quốc. Ông nói, đầu tiên ông thuyết phục
Ban chấp hành Trung ương kiến nghị với Quốc hội xóa bỏ những nội dung
chống Trung Quốc trong Hiến pháp, đồng thời sửa đổi những chính
sách sai lầm đối với người Hoa và Hoa kiều. Sau đó, lại làm công tác từ
các phương diện, để rồi cuối cùng đã ra được quyết định rút quân khỏi
Campuchia.
Trong tình hình thế giới hiện nay, việc
Việt Nam cùng với Trung Quốc, trung tâm xã hội chủ nghĩa vững mạnh,
thiết lập và phát triển nên mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, đoàn kết đã
trở nên ngày càng quan trọng và cấp thiết. Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh,
niềm mong mỏi ấp ủ lớn nhất của ông là tới Đại hội VII Đảng cộng sản
Việt Nam tổ chức vào năm 1991 sẽ thực hiện được bình thường hóa quan hệ
Việt-Trung, đây sẽ là một việc lớn gây phấn chấn lòng người đối với toàn
Đảng toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói,
ông thấu hiểu được tầm quan trọng và tính bức thiết của việc giải quyết
vấn đề này, vì thế, nhiệm vụ đầu tiên mà ông dự định tới Bắc Kinh lần
này là muốn thảo luận với phía Trung Quốc về vấn đề Campuchia, cho nên
thử xem xét để mình ông cùng với một hai vị lãnh đạo cao cấp thân cận
tới Bắc Kinh trao đổi bàn bạc trực tiếp với Tổng bí thư Giang Trạch Dân,
Thủ tướng Lý Bằng theo kiểu đồng chí, với thái độ chân thành tâm giao,
nhằm tìm ra phương án giải quyết tối ưu. Nguyễn Văn Linh cho rằng, khi
giải quyết vấn đề Campuchia nên xem xét từ hai phương diện: Trước hết,
thỏa mãn yêu cầu rộng khắp của cộng đồng quốc tế, để cho Sihanouk đứng
đầu, bảo đảm cho Campuchia trong tương lai sẽ trở thành một đất nước hòa
bình, độc lập, trung lập và không liên kết, giữ được mối quan hệ hợp
tác tốt đẹp với các nước. Thứ đến, thúc đẩy các phái ở Campuchia đi đến
xóa bỏ hiềm thù, hòa giải thực sự theo tinh thần hướng tới tương lai.
Làm như vậy không có nghĩa là phe này đầu hàng phe kia, và cũng không
tồn tại vấn đề ai thôn tính ai, mà là các phái xắn tay hợp tác để cùng
tạo nên tương lai. Ông nhấn mạnh, điều hết sức quan trọng là không được
để cho Campuchia trong tương lai bị rơi vào tay Mỹ, trở thành bàn đạp
cho chủ nghĩa đế quốc thực hiện diễn biến hòa bình ở Bán đảo Đông Dương.
Nguyễn Văn Linh còn nói một cách sâu sắc
rằng: Cả Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu [Ân Lai] đều không còn nữa, khi
nào cùng với các đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo
đường nội bộ, ông mong sẽ được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích
thân lắng nghe mọi ý kiến và kinh nghiệm từ đồng chí ấy.
Tôi nghe hết sức chăm chú từng chi tiết
buổi nói chuyện của Nguyễn Văn Linh, đồng thời ghi lại những nội dung
quan trọng mà ông đã nói. Cuối cùng tôi đã bày tỏ rằng vô cùng cảm động
khi được nghe buổi nói chuyện hết sức thân mật của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh, tôi nhất định sẽ báo cáo ngay lại với Trung ương chúng tôi về
những ý kiến và yêu cầu của đồng chí Tổng bí thư .
Đồng ý mời lãnh đạo cấp cao Việt Nam đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ
Chiều này 28 tháng 8, sứ quán chúng tôi
nhận được điện trả lời từ trong nước về việc đồng ý mời các vị lãnh đạo
Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo
đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9. Làm sao trực tiếp nói với
riêng Nguyễn Văn Linh về quyết định quan trọng này của Trung ương bây
giờ? Lúc này thời gian đã rất gấp, chỉ còn cách ngày lên đường đi Trung
Quốc của đoàn Nguyễn Văn Linh có 5 ngày. Thế là tôi liền quyết định vẫn
thông qua kênh Bộ quốc phòng Việt Nam, như thế là nhanh chóng và ổn thỏa
nhất. Không cho phép được chậm trễ một giây, tôi bảo ngay Tùy viên quân
sự Triệu lập tức hẹn gặp Cục trưởng Cục đối ngoại Vũ Xuân Vinh. Thật là
không may, Vũ Xuân Vinh đi Hải Phòng mất rồi, ngày hôm sau mới về Hà
Nội. Tùy viên quân sự Triệu nhanh chóng quyết định lập tức đổi sang hẹn
với trung tá Vũ Tần Vụ trưởng của Cục đối ngoại. Sau đó anh ta báo lại
với tôi, tôi nói anh làm rất đúng, phải hết sức tranh thủ thời gian.
Vào 9 giờ tối hôm đó, Tùy viên quân sự
Triệu vừa gặp mặt trung tá Vũ Tần đã nói thẳng vào vấn đề luôn rằng Đại
sứ Trương có việc hết sức gấp và quan trọng, mong được gặp ngay Đại
tướng Lê Đức Anh, xin đồng chí trung tá giúp bố trí cho. Vũ Tần bảo Đại
tướng tối nay tham dự Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương khóa 9
Đảng cộng sản Việt Nam, không biết lúc nào tan. Tôi sẽ đến ngay nhà ông
ta xem sao. Khi Đại tướng định giờ gặp một cái là tôi sẽ gọi ngay điện
thoại báo cho anh biết. Tùy viên quân sự Triệu vừa về tới sứ quán chưa
được bao lâu đã nhận ngay được trả lời điện thoại của Vũ Tần: “Đúng 8
giờ sáng mai Đại tướng sẽ gặp Đại sứ Trương, địa điểm vẫn ở chỗ cũ”.
Tổng bí thư Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương Duy Đức (7-1991)
Sáng ngày 29, tôi đến phòng khách Bộ
trưởng Bộ quốc phòng đúng giờ. Khi gặp mặt, Đại tướng Lê Đức Anh nói một
cách dí dỏm: “Trông bộ dạng Đại sứ Trương vui thế kia, chắc là đem tin
tốt lành đến cho chúng tôi rồi”. Tôi nói: “Chiều tối qua, tôi nhận được
chỉ thị quan trọng của Trung ương. Cho nên, hôm nay vừa mới sáng ra đã
lại tới làm phiền anh rồi”. Tiếp đó, tôi thông báo lại với Đại tướng Lê
Đức Anh việc Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ,
xin Lê Đức Anh chuyển lời mời đồng thời bố trí cho tôi được gặp Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa, để trả lời trực tiếp với đồng chí ấy.
Lê [Đức Anh] bày tỏ: “Đây quả thực là một tin tốt lành, tôi nghe mà cảm
thấy rất phấn khởi. Xin đồng chí Đại sứ cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo ngay
với Tổng bí thư. Chuyến đi thăm lần này hết sức quan trọng, chúng tôi
phải có những nỗ lực lớn nhất để chuyến đi thăm được thành công.”. Khi
chuyện trò tiếp, tôi nhắc đến việc 5 nước thành viên thường trực của
Liên hợp quốc đã thông qua các văn bản khung về giải pháp chính trị cho
vấn đề Campuchia, hi vọng phía Việt Nam thể hiện sự ủng hộ rõ ràng cho
vấn đề này, đồng thời thúc đẩy phía Phnom Penh tiếp nhận. Lê [Đức Anh]
bày tỏ là đã hiểu, đồng thời nêu lại một lần nữa việc giải quyết vấn đề
Campuchia cần xem xét tới hai phương diện, một là hòa giải trong nội bộ
Campuchia, hai là thỏa mãn đòi hỏi của cộng đồng quốc tế. Hi vọng cả hai
nước Việt-Trung sẽ cùng nhau nỗ lực, tạo mọi điều kiện để các phái ở
Campuchia thực hiện hòa giải.
Sau khi cáo từ Lê Đức Anh về sứ quán được
khoảng hơn 1 tiếng, Trung tá Vũ Tần ở Bộ quốc phòng Việt Nam đã hẹn với
Tùy viên quân sự Triệu rằng: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ cùng với Chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương vào 4 giờ chiều nay.
Đại sứ có thể chính thức đề xuất yêu cầu được gặp mặt với Ban đối ngoại
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Tôi lập tức hẹn gặp luôn với Phó Ban
đối ngoại Đảng cộng sản Việt Nam Trịnh Ngọc Thái, nói rằng có chuyện
gấp yêu cầu được tới thăm Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng Đỗ Mười, hi vọng anh ta sẽ báo cáo ngay. Một lúc sau, Vụ
Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam liền thông báo
cho sứ quán tôi: Theo yêu cầu của Đại sứ Trương Đức Duy, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười sẽ gặp Đại sứ
Trương Đức Duy vào 4 giờ chiều tại nhà khách Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam.
Vào 3 giờ 55 phút chiều, tôi ngồi trên
chiếc xe có cắm quốc kỳ tới cổng tòa nhà Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam, Vụ trưởng Vụ Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
Phạm Quang Anh dẫn tôi vào nhà khách, lúc này Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đã có mặt, họ đều lần lượt bắt tay và ôm tôi rất thịnh tình. Theo đề nghị từ phía Việt Nam, lần này vẫn không bố trí phiên dịch, thư ký và người đi cùng. Trước
hết tôi cảm ơn hai vị đã dành thời gian đón tiếp tôi trong muôn vàn bận
rộn. Nguyễn Văn Linh nói: Theo báo cáo từ Ban đối ngoại Trung ương,
đồng chí Đại sứ có việc gấp cần trao đổi với chúng tôi, chúng tôi rất
vui được gặp anh. Tôi nói: Chiều tối qua, tôi có nhận được chỉ thị từ
trong nước, yêu cầu tôi nhanh chóng chính thức chuyển ý kiến của Tổng bí
thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời các đồng chí Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo
đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9. Để tiện cho việc bảo mật, sẽ bố trí địa điểm ở Thành Đô.
Sau đó, tôi lấy văn bản từ trong cặp ra đọc rành rọt từng chữ tờ đính
kèm đánh máy bằng tiếng Việt rõ ràng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh còn đòi
tôi đưa cho tờ đính kèm ấy, đọc xong rồi chuyển cho đồng chí Đỗ Mười
xem. Hai vị Nguyễn [Văn Linh], Đỗ [Mười] bàn bạc ngay tại chỗ xong,
Nguyễn Văn Linh bày tỏ: “Tôi và Chủ tịch Đỗ Mười rất phấn khởi, rất hoan
nghênh, rất cảm ơn lời mời của Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng
Lý Bằng. Chúng tôi hết sức vui mừng khi nhận được lời mời, đồng ý với
sự bố trí thời gian, địa điểm và những việc có liên quan do phía Trung
Quốc đề xuất. Chúng tôi sẽ báo cáo ngay lên Bộ chính trị, nhanh chóng
xác định danh sách đoàn đại biểu và bắt tay vào công tác chuẩn bị, thậm
chí ngay cả đồng chí Phạm Văn Đồng, nếu như tình trạng sức khỏe cho
phép, cũng nhất định sẽ tiếp nhận chuyến đi thăm theo lời mời này”. Cuộc
gặp mặt được diễn ra hơn nửa giờ trong bầu không khí thân mật, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh còn đề xuất một lần nữa nguyện vọng được gặp đồng
chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe những ý kiến và kinh nghiệm
quý báu từ đồng chí ấy.
Tối ngày 2 tháng 9, Nhà khách Phủ Chủ tịch
đèn sáng rực. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười chủ trì cuộc chiêu
đãi nhân ngày Quốc khánh Việt Nam, Cố vấn Phạm Văn Đồng đứng trên bàn
chủ tịch. Bộ trưởng Hoàng Bích Sơn đưa tôi đến trước mặt Phạm Văn Đồng
nói: “Kính chúc đồng chí Cố vấn khỏe mạnh sống lâu!” Tôi chuốc rượu cùng
Phạm Văn Đồng . “Anh Duy đấy à? Tôi nhận ra tiếng anh”. Mắt Phạm Văn
Đồng đã không còn nhìn rõ nữa, nhất là về buổi tối, chỉ có thể nhận ra
người khác bằng thính giác. Ông kéo tôi lại nói khẽ: “Thời gian tôi còn
sống chẳng nhiều nữa đâu, lần này mà được đi Trung Quốc, được gặp mặt
lãnh đạo Trung Quốc, thì quả thực là một việc hết sức phấn khởi, nhất là
mong sẽ được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, nói những lời tâm huyết…”
Cuộc gặp “Thành Đô” mấu chốt
Ngày 3 tháng 9, đúng 11 giờ theo giờ Bắc
Kinh, chiếc chuyên cơ của phía Việt Nam hạ cánh yên ổn xuống sân bay
chuyên dụng Nam Ninh. Khi tôi đưa các vị lãnh đạo Việt Nam do Nguyễn Văn
Linh dẫn đầu xuống máy bay, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trung Quốc Tề Hoài
Viễn, Trợ lí Bộ trưởng Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Ban liên lạc đối ngoại
Trung ương Chu Thiện Khanh… đã tới đón các vị khách trước thang máy
bay. Cũng là vì để bảo mật, nên các vị lãnh đạo vùng Quảng Tây đã không xuất hiện.
Sân bay được bố trí hết sức chặt chẽ, chúng tôi xuống khỏi chuyên cơ
của phía Việt Nam xong là lên ngay chuyên cơ của phía Trung Quốc, bay
tới Thành Đô.
Vào 1 giờ chiều, chiếc chuyên cơ hạ cánh
đúng giờ xuống Sân bay Thành Đô. Khi đoàn đại biểu tới Nhà khách Tỉnh ủy
Tứ Xuyên, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] và Thủ tướng Lý [Bằng] đứng
trước cửa nhà khách đón khách. Sau khi chủ và khách đã ngồi cả trong nhà
khách, hai bên hỏi han lẫn nhau đồng thời tiến hành trao đổi đơn giản.
Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] giải thích: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình đi
nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị được”. Cuộc gặp mặt đơn giản kết
thúc xong thì nghỉ ngơi một lúc, đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến
hành hội đàm chính thức vòng đầu. Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] bắt đầu
bằng một phát biểu ngắn, tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời
mở đầu theo một bản đã chuẩn bị sẵn. Sau đó, Tổng bí thư Giang [Trạch
Dân] trình bày một cách có hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia và mối quan hệ Trung-Việt;
Thủ tướng Lý [Bằng] phát biểu kĩ hơn về
giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Sau khi nghỉ 15 phút, Nguyễn
Văn Linh làm một bài phát biểu dài, nhấn mạnh trước đây Trung Quốc đã
dành sự ủng hộ và giúp đỡ hết sức to lớn cho cách mạng Việt Nam và các
cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Đảng, chính phủ và nhân dân Việt
Nam mãi mãi không bao giờ quên; ông bày tỏ bây giờ nguyện sẽ cùng với
phía Trung Quốc nỗ lực giải quyết tốt vấn đề Campuchia, sớm thực hiện
bình thường hóa quan hệ hai nước, khôi phục lại mối quan hệ truyền thống
tốt đẹp Việt-Trung. Chủ tịch Đỗ Mười cũng có bài phát biểu tương ứng,
bày tỏ phía Việt Nam nguyện cùng với phía Trung Quốc giải quyết thật tốt
vấn đề Campuchia, sẽ tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng phương án giải pháp
do phía chúng ta đề xuất. Hội đàm vòng đầu chủ yếu xoay quanh việc Việt
Nam rút quân triệt để khỏi Campuchia và vấn đề thành lập bộ máy quyền
lực lâm thời – Hội đồng tối cao Campuchia (tức phương án phân bổ quyền
lực) sau khi rút quân.
Sau tiệc chiêu đãi tối, các ban làm việc
của hai bên đã tiến hành bàn bạc căng thẳng từng chi tiết trong Phương
án giải pháp cho vấn đề Campuchia, theo chỉ đạo cụ thể của lãnh đạo từng
bên, nhằm chuẩn bị tốt cho cuộc hội đàm chính thức vào ngày hôm sau,
đồng thời bên phía ta đề nghị soạn thâu đêm luôn một bản dự thảo văn
kiện chung.
Sáng ngày hôm sau tổ chức hội đàm vòng
hai, trọng điểm là vấn đề Campuchia. Qua nỗ lực suốt cả một đêm của các
ban làm việc hai bên, cả hai bên đã dần đi đến nhất trí đối với Phương
án giải pháp cho vấn đề Campuchia. Nhưng trong hội đàm vòng hai vẫn còn
xuất hiện một điểm bất đồng, đó là việc lập ra Hội đồng tối cao
Campuchia gồm 13 đại biểu do phía ta đề xuất, phân bổ cụ thể là:
6+2+2+2+1 (tức phái Hun Sen 6 người, phái Campuchia dân chủ 2 người,
phái Sihanouk 2 người và phái Son Sann 2 người + đích danh Sihanouk làm
Chủ tịch). Đỗ Mười bày tỏ tán thành để Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng
tối cao Campuchia, nhưng cho rằng nên gộp Sihanouk vào trong danh mục
phái Sihanouk, hai bên mỗi bên một nửa đã là thiệt cho Phnom Penh rồi,
nếu như bên phái đối lập lại còn nhiều hơn 1 người, thì như vậy là không
công bằng. Phía ta trình bày theo lý chủ trương và đòi hỏi rộng rãi của
cộng đồng quốc tế, chứng tỏ phương án này là thích hợp nhất. Trong giờ
nghỉ, Nguyễn Văn Linh đã có cuộc hội ý lại với Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng.
Trong buổi tiệc, Nguyễn Văn Linh thay mặt phía Việt Nam bày tỏ sự nhất trí toàn bộ với phương án do phía ta đề xuất,
đồng thời nói sau khi về nước sẽ làm việc ngay với Phnom Penh, đồng
thời cũng mong Trung Quốc thúc đẩy thực hiện việc hòa giải thực sự giữa
Khơme Đỏ với Phnom Penh. Đến đây, vấn đề Campuchia đã được bàn bạc ổn
thỏa, trở ngại lớn nhất trong quan hệ Trung-Việt đã được loại bỏ.
Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ
giữa hai nước hai Đảng được bàn bạc trao đổi một cách khá thuận lợi,
không gợi lại quá nhiều nợ nần cũ. Sau khi hai vấn đề lớn trong cuộc hội
đàm lần này đã được trao đổi ổn thỏa, Tổng bí thư Giang Trạch Dân bày
tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể “khép lại quá khứ, hướng tới
tương lai”, đồng thời dùng hai câu thơ của Lỗ Tấn[2] “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”[3] làm
lời kết cho cuộc hội đàm nội bộ lần này. Phía Việt Nam bày tỏ hết sức
mĩ mãn và phấn khởi trước thành quả của cuộc hội đàm lần này. Cuối cùng,
Tổng bí thư Giang Trạch Dân đề nghị, hai bên cần kí vào một bản kỷ yếu
về thành quả của cuộc hội đàm lần này, Nguyễn Văn Linh vui vẻ đồng ý.
Chiều hôm đó, trước khi Đoàn đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng bí thư
Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng và Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đã cùng nhau kí vào bản “Kỷ yếu hội đàm
Thành Đô” mang ý nghĩa lịch sử.
Sau khi đoàn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười,
Phạm Văn Đồng nói lời tạm biệt với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ
tướng Lý Bằng và các đồng chí Tằng Khánh Hồng, Tề Hoài Viễn, Chu Thiện
Khanh…, đã đáp lên chiếc chuyên cơ của phía ta rời Thành Đô bay tới Nam
Ninh, dừng ở Nam Ninh rồi đổi ngay sang chuyên cơ của phía Việt Nam bay
về Hà Nội. Tôi cũng ngẫu nhiên đi theo Đoàn đại biểu Việt Nam quay về Hà
Nội. Trên đường về, không khí trong khoang máy bay khác hẳn với lúc
đến. Các vị lãnh đạo trao đổi bàn bạc nhiều, những người khác cũng nói
cười vui vẻ. Chủ nhiệm Văn Phòng Trung ương Đảng Hồng Hà phấn khởi nói
với tôi: “Cuộc gặp lần này rất thành công, quá tốt!” Trưởng Ban đối
ngoại Trung ương Hoàng Bích Sơn cũng tràn đầy phấn khởi nói, về đến Hà
Nội tôi sẽ mở tiệc mời đồng chí Đại sứ thưởng thức toàn những món ăn có
tiếng của Việt Nam.
Một lúc sau, Chủ tịch Đỗ Mười đi lại phía
tôi hỏi: “Nguyên văn hai câu thơ mà đồng chí Giang Trạch Dân trích dẫn
đọc thế nào ấy nhỉ?” Tôi dùng ngay âm đọc Hán Việt (chú thích: Trong Nho
học Việt Nam có một phép đọc cố định đối với chữ Hán) đọc lại một lượt
cho ông ấy nghe, ông ấy còn bắt tôi viết nguyên văn ra, rồi nhờ tôi dịch
ra tiếng Việt. Đỗ Mười xem cả nguyên văn lẫn phần dịch ra tiếng Việt
hai lần rồi bảo: “Đồng chí Giang Trạch Dân dẫn hai câu thơ này vào lúc
kết thúc hội đàm là quá xác đáng!”. Về Hà Nội được ít ngày, tôi lại đọc
được một bài thơ do Nguyễn Văn Linh viết thể hiện tâm trạng cảm khái cùa
mình sau thành công của cuộc “Hội đàm Thành Đô”: “Huynh đệ chi giao
sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa vân yên/ Tái tương phùng thời
tiếu nhan triển/ Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến”[4]
Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch thân mật chuyện trò (Trương Đức Duy làm phiên dịch năm 1960)
Thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng Trung-Việt
Để thực hiện nghị quyết của cuộc Hội đàm
Thành Đô, trong vòng vài tháng sau khi trở về Hà Nội, theo chỉ thị từ
trong nước, tôi đã 2 lần hẹn gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và
nhiều lần hẹn gặp Thứ trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Việt Nam Đinh Nho
Liêm để giục phía Việt Nam gấp rút thúc đẩy phía Hun Sen tiếp nhận nghị
quyết mà hai bên Trung-Việt đã đạt được, nhằm nhanh chóng làm cho vấn đề
Campuchia có được giải pháp chính trị. Tuy nhiên, tiến trình giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia lại bị trì hoãn mất rất nhiều thời gian,
để đến nỗi khiến cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt cũng
chịu sự ảnh hưởng nhất định.
Vào giữa mùa hè năm sau (năm 1991), Đảng
cộng sản Việt Nam họp “Đại hội VII”. Ban lãnh đạo mới đã có sự điều
chỉnh rất nhiều. Nguyễn Văn Linh đã giao ban một cách suôn sẻ, điều đáng
tiếc là ông chưa thể thực hiện được mong muốn ấp ủ của mình vào trước
“Đại hội VII” Đảng cộng sản Việt Nam – chính thức công bố thực hiện bình
thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng Trung-Việt trước khi rời khỏi chức
vụ.
Chính vào năm đó, cùng với việc thực hiện
giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia và việc thành lập Hội
đồng tối cao toàn quốc Liên hợp bốn bên Campuchia, việc bình thường hóa
quan hệ Trung-Việt cũng được diễn ra hết sức tự nhiên. Tháng 11 năm
1991, theo lời mời của Trung ương Đảng và chính phủ nước ta, Tổng bí thư
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng Võ Văn Kiệt mới nhậm chức đã dẫn đầu “Đoàn đại biểu cấp cao Việt
Nam” chính thức đi thăm Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo gồm Tổng bí
thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng… đã tổ chức hội đàm chính thức
với Đoàn đại biểu Việt Nam, hai bên đã ra thông cáo chung, tuyên bố bình
thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng. Mối quan hệ Trung-Việt từ đây đã
mở ra một trang mới.
Nguồn: 中越高层成都会晤的前前后后 - Mạng Báo buổi sáng Liên hợp.
[1] Quảng Đông – Quảng Tây –ND
[2] Chỗ này tác giả nhầm. Đây là hai câu thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh. – ND
[3] Tạm dịch: Trải qua cơn sóng gió/ tình anh em vẫn còn/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù . – ND
[4] Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ/ Oán hận trong khoảnh
khắc đã biến thành mây khói/ Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ/ Tình nghĩa
ngàn năm xây dựng lại -ND.
Video tham khảo: 中越高层成都秘密会晤 一年后关系正常化 - Cuộc gặp mật cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô - Một năm sau, bình thường hóa quan hệ.
Bản tiếng Việt © Việt sử ký 2012
–
Ghi chú:
* Tham khảo: + Hồi ký Trần Quang Cơ, các chương:
10. THUỐC ĐẮNG NHƯNG KHÔNG DÃ ĐƯỢC TẬT. “Ngày 5.6.90,
vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời
đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách
Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc
Kinh … Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại
gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai
người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không
cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6
trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn
Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý
mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai
nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer
nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6.6, phía Trung Quốc
(tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội
dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy.”
12. MỘT SỰ CHỌN LỰA THIẾU KHÔN NGOAN. “Nhưng
rồi cuộc gặp Thành Đô đã làm lãnh đạo Việt Nam xa rời quan điểm thực tế
này mà ngã hẳn theo Trung Quốc, thậm chí còn định ép PhnomPenh chấp
nhận đòi hỏi quá đáng của Bắc Kinh về vấn đề SNC Campuchia.”
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ.
Đọc chương này sẽ thấy rõ ràng Thứ trưởng Trần Quang Cơ cũng như nhiều
lãnh đạo cao cấp trong Bộ chính trị, Chính phủ của VN hoàn toàn không
biết những cuộc gặp gỡ “bí mật” giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nguyễn Văn
Linh với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy từ sáng 29/8/1990 trở về
trước.
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ? “Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm …”
“Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã
tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ
CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam
và CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ ‘diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa
đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như
sai lầm ““giải pháp Đỏ”.
“Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành
tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về
đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã
hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được
lòng Bắc kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải
quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.”
+ Tướng Việt Nam kể chuyện bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(TVN,21/12/2011). Bài của Trung tướng Vũ Xuân Vinh, cựu Cục trưởng Cục
Đối ngoại Quân sự, Bộ Quốc phòng, người “môi giới” các cuộc gặp trên.
Trong bài chỉ nói tới hai cuộc gặp ngày 5 và 6/6/1990 thôi và đặc biệt lại cho là “ngày 19/8/1990,
Đại sứ Trung Quốc gửi thư của lãnh đạo Trung Quốc mời Tổng Bí thư
Nguyên Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang thăm
chính thức Trung Quốc”, trong khi bài của cựu đại sứ TQ thì cho biết“chiều này 28 tháng 8,
sứ quán chúng tôi nhận được điện trả lời từ trong nước về việc đồng ý
mời các vị lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi
thăm Trung Quốc …”
Có điều lạ là bài này ra đời khá bất ngờ, sau “hồi ký” trên của Trương
Đức Duy đúng 1 tháng, phải chăng là để ngầm “phản bác” lại sự “xuyên
tạc”, “bịa đặt”?
* Về tướng Lê Đức Anh gần đây: + Đại tướng Lê Đức Anh: Nếu sợ thì mất chủ quyền! (Người đưa tin,2/6/2011) + Tướng Việt Nam phân tích tình hình Biển Đông (Đất Việt, 10/6/2011).
(Việt Sử ký))
No comments:
Post a Comment