SỰ ĐỔ VỠ ĐANG ĐẾN VỚI TRUNG HOA
Bài viết của Dr. Shambaugh hiện là Giáo sư về Quan hệ Quốc tế đồng
thời giữ chức vụ Giám đốc chương trình Chính sách Trung Quốc tại Đại học
George Washington, ông cũng là cộng tác viên cao cấp của Viện
Brookings. Những cuốn sách của ông về Trung Quốc gồm “ ĐCS Trung Quốc :
sự hao mòn và sự thích ứng”(“China’s Communist Party: Atrophy and
Adaptation” and, most recently,) và gần đây nhất là cuốn “ Trung Quốc
toàn cầu hóa : một thế lực cục bộ”(“China Goes Global: The Partial
Power.”).
GS Divid Shambaugh là một trong số vài chục học giả think tank của Hoa Kỳ, ông cùng với các quan chức phục vụ trong Bộ Quốc phòng Mỹ, CIA, Bộ Ngoại giao, và Hội đồng an ninh quốc gia, làm ra chính sách của Mỹ đối với châu Á, và đặc biệt là đối với Trung Quốc.
Hôm trước mình có đưa nó lên facebook, nay thấy Vietstudy có bài dịch của ông Phạm Gia Minh, nên mang về lưu lại trên blog để bà con đọc chơi nhen. Há há,
GS Divid Shambaugh là một trong số vài chục học giả think tank của Hoa Kỳ, ông cùng với các quan chức phục vụ trong Bộ Quốc phòng Mỹ, CIA, Bộ Ngoại giao, và Hội đồng an ninh quốc gia, làm ra chính sách của Mỹ đối với châu Á, và đặc biệt là đối với Trung Quốc.
Hôm trước mình có đưa nó lên facebook, nay thấy Vietstudy có bài dịch của ông Phạm Gia Minh, nên mang về lưu lại trên blog để bà con đọc chơi nhen. Há há,
Ván bài cuối cùng của ĐCS Trung Quốc đã bắt đầu khi mà những biện pháp tàn nhẫn của Tập Cận Bình chỉ có thể đưa đất nước tiến gần tới tình huống nguy kịch.
Hôm thứ năm tuần này Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc thường niên vừa
nhóm họp theo nghi thức đã trở nên quen thuộc. Ước chừng 3 000 đại biểu
“ được bầu chọn” trên khắp mọi miền đất nước – từ những nhóm thiểu số
trang phục sặc sỡ tới các tỷ phú lịch lãm sẽ gặp mặt trong thời gian một
tuần để thảo luận về tình hình đất nước và dường như điều này tạo ra ấn
tượng rằng họ đang tham gia vào đời sống chính trị của quốc gia.
Một số người nhìn nhận cuộc tụ họp đầy ấn tượng này là một chỉ dấu cho
sức mạnh của hệ thống chính trị Trung Quốc, tuy nhiên thực chất nó lại
che dấu những điểm yếu nghiêm trọng. Các chiêu trò chính trị ở Trung
Quốc xưa nay thường được ngụy trang dưới lớp vỏ đầy kịch tính với những
sự kiện dàn dựng trên sân khấu cho thấy dường như Quốc hội trao quyền
lực bền vững cho ĐCS Trung Quốc. Cán bộ nhà nước cũng như dân thường đều
biết rằng họ phải tuân thủ những nghi thức đó, tức là phải vui vẻ tham
gia và nhắc lại như vẹt các khẩu hiệu chính thức. Lối hành xử như vậy ở
Trung Quốc có cái tên là "biểu thái" (biaotai – biểu lộ thái độ), thực
ra nó có ý nghĩa chỉ hơn một chút hành động phục tùng mang tính tượng
trưng.
Nếu không để ý tới vẻ bên ngoài thì về thực chất ĐCS Trung Quốc đang rất
suy yếu và không ai biết điều này hơn chính Đảng. Con người đầy quyền
lực của Trung Hoa - Tập Cận Bình đang hy vọng rằng các biện pháp trừng
trị thẳng tay bất đồng chính kiến và tham nhũng sẽ giúp chống đỡ một sự
sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tập Cận Bình xác định rằng phải tránh
trở thành một Gorbachov của Trung Hoa bởi lẽ Gorbachov đã điều hành sự
tan rã của Đảng CS LX. Thế nhưng thay vì trở thành nhân vật tương phản
với Gorbachov, Tập Cận Bình kết cục có thể lại tạo ra cùng một hậu quả.
Sự chuyên quyền của họ Tập gây sang chấn nghiêm trọng toàn bộ hệ thống
xã hội Trung Quốc và đang đưa đất nước tới gần tình huống nguy kịch.
Dự đoán sự ra đi của các chế độ chuyên chế luôn là việc đầy rủi ro, phi
phỏng. Một số chuyên gia Phương Tây nhìn trước sự sụp đổ của Liên Xô
trước khi nó xảy ra vào năm 1991; tuy nhiên CIA lại hoàn toàn bỏ qua
việc này. Sự tan rã của các quốc gia cộng sản Đông Âu hai năm trước đó
cũng đã từng bị chế nhạo như một suy nghĩ mơ mộng của những kẻ chống
cộng cho tới khi việc này trở thành hiện thực. Các cuộc “cách mạng màu”
trong thời kỳ hậu Liên Xô ở Gruzia, Ucrain và Kyrgyzstan từ năm 2003 tới
2005 cũng như cuộc nổi dậy mùa Xuân Ả Rập năm 2011 đều bùng nổ ngoài
mọi dự đoán.
Các nhà quan sát tình hình Trung Quốc đang rất để ý tới những dấu hiệu
có tính chất làm lộ chân tướng mục ruỗng và suy đồi của chế độ đang diễn
ra kể từ khi xảy ra sự kiện trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989,
khi mà chế độ đã trên bờ suy vong. Từ thời điểm đó đến nay một số nhà
Trung Hoa học đã đánh cược uy tín nghề nghiệp của mình khi khẳng định
rằng sự sụp đổ của ĐCS Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo là không thể
tránh khỏi. Những người khác thì tỏ ra thận trọng hơn, trong đó có tôi.
Thế nhưng thời thế ở Trung Quốc đã thay đổi và những phân tích của chúng
ta cũng cần bám sát thời cuộc.
Ván bài cuối cùng với sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc đã bắt đầu, tôi tin
là như vậy và điều này đã tiến triển xa hơn cái mức mà nhiều người suy
nghĩ. Tất nhiên chúng ta không biết con đường đi từ nay cho tới khi nó
kết thúc sẽ có hình dạng ra sao. Có thể nó sẽ rất không ổn định và lộn
xộn nhưng cho tới khi hệ thống bắt đầu tháo gỡ các nút thắt một cách rõ
ràng,rành mạch thì các yếu tố nội tại vẫn tiếp tục đóng vai trò và vì
vậy chúng sẽ ảnh hưởng tới bộ mặt của sự ổn định.
Sự cầm quyền của ĐCS Trung Quốc khó có thể kết thúc một cách êm ả. Một
sự kiện đơn lẻ khó có thể gây nên sự khép lại hòa bình của một chế độ.
Điều dễ xảy ra hơn đó là sự ra đi của nó sẽ kéo dài, hỗn độn và bạo lực.
Tôi không loại trừ khả năng Tập Cận Bình bị hạ bệ trong cuộc tranh
giành quyền lực hoặc bởi một cú đảo chính cung đình (un coup d’état).
Chiến dịch chống tham nhũng hăng hái của họ Tập đã trở thành tiêu điểm
tuần này của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc cho thấy ông đang dùng
quá đà sở đoản của mình và chọc tức một cách sâu sắc các cử tri là những
nhân vật chủ chốt trong Đảng, Nhà nước, quân đội và giới kinh doanh.
Người Trung Hoa có câu ngạn ngữ, waiying, neiruan- ngoài cứng, trong
mềm. Tập Cận Bình là một nhà lãnh đạo quả thực là mạnh mẽ, tràn đầy sức
thuyết phục và tự tin. Thế nhưng nhân cách cứng rắn đó lại đi ngược với
hệ thống Đảng và chính trị vốn hết sức mong manh trong nội bộ. Chúng ta
hãy cùng xem xét 5 dấu hiệu có tính thuyết phục thể hiện tính dễ tổn
thương của chế độ và yếu kém của hệ thống Đảng CS Trung Quốc.
Thứ nhất, giới tinh hoa của nền kinh tế Trung Quốc đang đặt một
chân bên ngoài cửa nhà và họ luôn sẵn sàng rời bỏ hàng loạt nếu như hệ
thống thực sự bắt đầu sụp đổ. Năm 2014 Viện nghiên cứu Hurun ở Thượng
hải chuyên theo dõi vấn đề người giàu Trung Quốc đã kết luận rằng 64%
người có của Trung Quốc đã di cư hoặc đang lên kế hoạch di cư khỏi Trung
Quốc. Người giàu Trung Quốc gửi con cái đi học ở nước ngoài với con số
kỷ lục (bản thân sự việc này đã là một cáo trạng về chất lượng của hệ
thống Đại học Trung Quốc).
Ngay trong tuần này báo chí đăng tin các đặc vụ Liên bang đã lục soát
một số địa điểm ở Nam California nơi mà chính quyền Mỹ khẳng định rằng
chúng có liên quan tới loại hình kinh doanh du lịch đạt giá trị nhiều
triệu USD nhằm đưa hàng ngàn sản phụ Trung Quốc sang sinh con tại Mỹ để
rồi sau đó quay trở lại Trung Quốc với đứa con là công dân Hoa Kỳ.
Người giàu Trung Quốc còn mua bất động sản ở nước ngoài ở quy mô và mức
giá kỷ lục, họ chuyển tài sản ra nước ngoài, thường là những nơi được
coi là dễ trốn thuế và mượn các công ty làm bình phong.
Trong khi đó, Bắc kinh đang nỗ lực đưa về nước số lượng lớn những kẻ
chạy trốn mang tiền ra sống ở nước ngoài. Một khi mà giới tinh hoa của
đất nước – trong đó có nhiều đảng viên CS rời bỏ tổ quốc với số lượng
lớn thì chính nó đã cho thấy dấu hiệu xác đáng về sự mất lòng tin vào
chế độ và tương lai của đất nước.
Thứ hai, khi lên cầm quyền năm 2012 Tập Cận Bình đã mạnh mẽ tăng
cường làn sóng trấn áp chính trị vốn đã được khởi động từ năm 2009 trên
khắp Trung Quốc. Mục tiêu hay đối tượng được ngắm tới là báo chí, truyền
thông xã hội, phim ảnh, văn hóa - nghệ thuật, các nhóm tôn giáo,
Internet, các nhà trí thức, người Tây Tạng và Uighur, những nhân vật bất
đồng chính kiến, luật sư, các tổ chức phi chính phủ, sinh viên Đại học
và lĩnh vực sách giáo khoa. Ban chấp hành Trung ương ĐCS đã ra một chỉ
thị hà khắc được biết tới dưới cái tên Văn kiện số 9 phổ biến trong toàn
hệ thống ĐCS từ trên xuống dưới năm 2013, yêu cầu mọi đơn vị phải truy
tìm cho ra những biểu hiện tán đồng “ các giá trị phổ quát của phương
Tây “ dù còn manh nha, đó là nền dân chủ pháp trị, xã hội dân sự, tự do
báo chí và trào lưu kinh tế Tân-tự do (Neoliberal Economics).
Một nhà nước yên ổn và tự tin sẽ không phải tiến hành trấn áp, cấm đoán
như vậy. Đó chính là triệu chứng của sự bất an và lo sợ của lãnh đạo
ĐCS.
Thứ ba, cho dù nhiều người trung thành với chế độ vẫn hành động
xu thời nhưng khó bỏ qua những biểu hiện giả tạo mang tính diễn kịch
đang lan khắp bộ máy chính trị trong mấy năm gần đây.
Mùa hè vừa qua, tôi là một trong số ít khách ngoại quốc (và cũng là
người Mỹ duy nhất) tham dự cuộc hội thảo về “ Giấc mơ Trung Hoa” theo
luận thuyết của Tập Cận Bình tại một cơ quan nghiên cứu của ĐCS Trung
Quốc ở Bắc kinh. Chúng tôi ngồi suốt hai ngày, đầu óc bị tê liệt vì phải
nghe liên tục hơn hai chục học giả của Đảng đọc tham luận, tuy nhiên bộ
mặt của những người thuyết trình đều lạnh lùng vô cảm, ngôn ngữ cơ thể
cho thấy một sự cứng nhắc và nỗi ngán ngẩm của họ rất dễ cảm nhận được
từ bên ngoài. Họ làm ra vẻ phục tùng Đảng và những câu thần chú cuối
cùng của lãnh đạo nhưng rõ ràng là công tác tuyên truyền đã mất hiệu lực
cho nên Hoàng đế bây giờ chẳng còn y phục trên người.
Tháng 12, tôi trở lại Bắc kinh để dự cuộc hội thảo của trường Đảng trung
ương, một định chế cao nhất của ĐCS trong việc đưa ra những chỉ đạo
mang tính học thuyết. Và một lần nữa các quan chức cao cấp nhất của đất
nước cùng các chuyên gia về chính sách đối ngoại lại đọc thuộc lòng kho
khẩu hiệu, chính xác tới từng từ. Có lần trong bữa trưa, tôi ghé thăm
gian hàng sách của trường, một địa chỉ dừng chân quan trọng để biết các
cán bộ lãnh đạo Trung Quốc ngày nay được đào tạo điều gì. Những cuốn
tuyển tập trên giá sách từ “các tác phẩm chọn lọc của Lê Nin” tới hồi ký
của cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice và trên bàn ngay cửa ra
vào, những cuốn sách nhỏ của Tập Cận Bình quảng bá cho chiến dịch của
ông ta về “ Công tác quần chúng” - hay mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân được xếp cao chất ngất. Tôi hỏi, “ sách này bán thế nào ?” Cô bán
hàng trả lời “ Ô, không bán được nhiều, chúng tôi lại mang chúng đi ấy
mà”“. Độ cao của chồng sách đã cho thấy khó có thể tin được cuốn sách đó
thu hút độc giả.
Thứ tư, nạn tham nhũng làm thối nát bộ máy ĐCS, chính quyền và
quân đội cũng đã thâm nhập vào toàn bộ xã hội Trung Quốc ngày nay. Chiến
dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình kéo dài được lâu và cũng khốc
liệt hơn những đợt trước đây nhưng không một chiến dịch nào có khả năng
loại trừ vấn nạn này vì nó đã bắt rễ một cách ngoan cố vào hệ thống độc
Đảng, vào mạng lưới người bảo trợ - khách hàng (mang tính Mafia – ND) và
một nền kinh tế hoàn toàn thiếu vắng sự minh bạch cùng một bộ máy
truyền thông do Nhà nước quản lý không mang tính thượng tôn Pháp luật.
Hơn thế nữa, chiến dịch chống tham nhũng, hối lộ của Tập Cận Bình được
đưa ra nhằm thanh lọc có lựa chọn, chủ yếu nhắm vào các đồng sự và chiến
hữu của cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân. Năm nay đã 88 tuổi họ
Giang vẫn được đánh giá như Thái thượng Hoàng trong nền chính trị Trung
Quốc. Truy quét mạng lưới đặt dưới sự bảo trợ của họ Giang trong khi ông
ta còn sống là một sự mạo hiểm lớn đối với Tập Cận Bình, đặc biệt là
khi ông có vẻ chưa tập hợp được phe phái gồm những chiến hữu trung thành
tới mức đủ mạnh để củng cố quyền lực. Một vấn đề khác nữa là Tập Cận
Bình là con trai của thế hệ đầu tiên các nhà cách mạng Trung Quốc, là
một trong những “ Thái tử “ cho nên các mối liên hệ chính trị của ông ta
chủ yếu được mở rộng đối với các “ Thái tử” khác. Thế hệ thứ 2 này đang
bị xỉ vả công khai hiện nay ở Trung Quốc.
Cuối cùng, nền kinh tế Trung Quốc dưới con mắt của phương Tây là
một cỗ xe Gia Ga nát không thể dừng lại (thần thoại Ấn độ có chuyện
chiếc xe chở vị Thánh tên Giaganat diễu trên phố và những người cuồng
tín thường đổ xô vào xe để xe cán chết – ý bóng chỉ lực lượng khủng
khiếp đi đến đâu gây chết chóc đến đó – ND). Nền kinh tế đó đang bị sa
lầy trong một chuỗi những cái bẫy mang tính hệ thống mà không dễ thoát
ra. Tháng 11/2013 Tập Cận Bình chủ tọa Hội nghị Trung ương 3 ĐCS Trung
Quốc, Hội nghị đã công bố những chương trình cải cách kinh tế đồ sộ
nhưng cho tới nay chúng vẫn còn nằm yên trên bệ phóng. Vâng, các khoản
chi cho tiêu dùng có tăng, nạn thảm đỏ có giảm cùng với một số cải cách
thuế được thực hiện nhưng nhìn chung các mục tiêu đầy tham vọng của Tập
Cận Bình đã chết yểu. Chương trình cải cách đã thách thức các nhóm lợi
ích hùng mạnh, cố thủ ở nơi thâm căn cố đế - đó là những doanh nghiệp
nhà nước và đội ngũ quan chức Đảng ở địa phương và họ đã không úp mở
ngăn cản việc thực thi cải cách.
Năm vết rạn nứt hiển hiện và ngày một gia tăng trong hệ thống quản lý
Trung Quốc chỉ có thể khắc phục thông qua cải cách chính trị. Cho tới
khi và chỉ khi Trung Quốc nới lỏng việc quản lý hà khắc hệ thống chính
trị, quốc gia này mới có thể trở nên một xã hội sáng tạo và một nền
“kinh tế tri thức” như mục tiêu cải cách mà Hội nghị trung ương 3 đã đặt
ra. Chính hệ thống chính trị hiện nay mới là trở ngại chủ yếu đối với
các cải cách chính trị và xã hội Trung Quốc. Nếu như Tập Cận Bình và các
lãnh đạo ĐCS Trung Quốc không nới lỏng sự kìm kẹp thì họ chắc chắn sẽ
phải đối mặt với số phận mà họ không mong muốn.
Trong mấy thập niên sau khi Liên Xô tan rã, giới lãnh đạo của Trung Quốc
luôn bị ám ảnh bởi sự sụp đổ của người đồng chí cộng sản khổng lồ này.
Hàng trăm bài phân tích của giới nghiên cứu Trung Quốc đã mổ xẻ các
nguyên nhân dẫn tới sự tan rã đó.
“Giấc mơ Trung Hoa” của Tập Cận Bình trên thực tế đang cố gắng tránh cơn
ác mộng Liên Xô. Vài tháng trước nhiệm kỳ lãnh đạo của mình, họ Tập đã
có một bài phát biểu nội bộ về sự sụp đổ của Liên Xô, lên án sự phản bội
của Gorbachov và cho rằng Moscow thiếu “ một người đàn ông đích thực”
có khả năng chống lại người lãnh đạo cuối cùng mang tư tưởng cải tổ đó.
Làn sóng đàn áp do Tập Cận Bình khởi xướng và chỉ đạo hiện nay cho thấy
ông ta chống lại đường lối cải tổ và minh bạch kiểu Gorbachov. Thay vì
cởi mở, Tập Cận Bình lại tăng cường kiểm soát tư tưởng, nền kinh tế và
cả những đối thủ cạnh tranh trong nội bộ Đảng.Tuy vậy phản công và đàn
áp chưa phải là lựa chọn duy nhất của họ Tập.
Những người tiền nhiệm của ông ta như Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào lại
rút ra những bài học rất khác từ sự sụp đổ của Liên Xô. Từ năm 2000 tới
2008 họ đã thể chế hóa một số chủ trương nhằm nới lỏng và cởi mở hệ
thống cùng với việc thực hiện cải cách chính trị một cách thận trọng và
có giới hạn. Họ đã củng cố các cấp ủy ở địa phương và đưa vào thử nghiệm
việc bầu vị trí bí thư Đảng với nhiều ứng viên. Hai ông cũng đã thâu
nạp nhiều doanh nhân và trí thức vào Đảng, mở rộng hiệp thương giữa Đảng
và các nhóm ngoài Đảng đồng thời làm cho các biên bản họp Bộ chính trị
thêm minh bạch. Họ đã cải thiện cơ chế phản hồi trong Đảng, thực thi
nhiều hơn các tiêu chí tuyển chọn nhân tài để đánh giá và đề bạt, thiết
lập hệ thống đào tạo ủy nhiệm cán bộ trung cấp cho toàn bộ 45 triệu
người được quy hoạch nguồn. Các ông cũng đã làm cho có hiệu lực những
quy chế về hưu trí, luân chuyển công chức và sĩ quan quân đội 2 năm một
lần.
Trên thực tế họ Giang và họ Hồ đã suy nghĩ để quản lý sự thay đổi thay
vì chống lại nó. Tuy nhiên Tập Cận Bình không chấp nhận một điểm nào cả.
Kể từ năm 2009 (khi mà nhà lãnh đạo có đầu óc cởi mở trước đây là Hồ
Cẩm Đào đã thay đổi đường lối và bắt đầu chính sách khẩn cấp), chính
quyền Trung Quốc ngày càng trở nên bất an nên đã cho ngừng thực thi các
cải cách chính trị (trừ việc cải cách đào tạo cán bộ). Những cải cách
này đã được một thủ túc chính trị của Giang Trạch Dân đạo diễn, đó là
Phó Chủ tịch Trung Quốc Tằng Khánh Hồng (Zeng Qinghong). Ông này đã nghỉ
hưu từ 2008 nhưng hiện đang bị nghi vấn tham nhũng trong chiến dịch “
đả hổ diệt ruồi “ của họ Tập. Điều này cho thấy Tập Cận Bình thù địch
với các biện pháp cải cách nhằm giảm nhẹ con bệnh của một hệ thống đang
đổ nát.
Một vài chuyên gia cho rằng chiến thuật tàn nhẫn của họ Tập sẽ báo trước
một xu hướng cải cách cởi mở hơn trong những năm sau này trong nhiệm kỳ
của ông. Riêng tôi thì không đồng tình bởi lẽ nhà lãnh đạo này và chế
độ của ông ta luôn quan niệm chính trị là một cuộc chơi có tổng bằng 0
(tức là hoặc thắng hoặc thua chứ không có tình thế cả hai cùng thắng
Win- Win – ND). Do vậy nới lỏng sự quản lý theo họ, chắc chắn sẽ là một
bước tiến tới sự sụp đổ của cả hệ thống trong đó có họ.
Họ còn có quan điểm theo thuyết âm mưu cho rằng Hoa Kỳ đang nỗ lực hành
động nhằm lật đổ sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc. Do vậy không có chỉ dấu
nào cho thấy những cải cách sẽ quay trở lại ở Trung Quốc.
Chúng ta không thể đoán trước khi nào thì chủ nghĩa cộng sản ở Trung
Quốc sẽ sụp đổ nhưng cũng không khó để kết luận rằng chúng ta đang làm
chứng cho giai đoạn cuối cùng của nó. ĐCS Trung Quốc đứng thứ 2 trên thế
giới về thời gian cầm quyền (chỉ sau có Bắc Triều Tiên) và không có
đảng chính trị nào có thể cầm quyền mãi.
Nhìn về phía trước, những nhà quan sát Trung Quốc cần phải tập trung sự
chú ý vào các công cụ của chế độ phục vụ việc cai trị và những người
được giao phó sử dụng các công cụ đó. Một số lớn công dân và đảng viên
CS Trung Quốc đã lựa chọn bằng đôi chân để rời bỏ tổ quốc hoặc thể hiện
hành động giả dối của mình bằng cách làm ra vẻ tuân thủ các chỉ thị của
Đảng.
Chúng ta cần quan sát cái ngày mà những nhân viên tuyên truyền của chế
độ và bộ máy an ninh nội bộ sẽ trở nên không nghiêm chỉnh hoặc lỏng lẻo
trong việc thực thi các lệnh của Đảng - thảng hoặc khi mà họ bắt đầu trở
nên đồng cảm với những kẻ bất đồng chính kiến như nhân viên an ninh
Đông Đức trong cuốn phim “ Những cuộc đời của người khác” khi anh này
thông cảm với chính đối tượng bị theo dõi của mình.
Một khi sự thấu cảm của con người đã manh nha chiến thắng bộ máy cầm
quyền cứng nhắc, giáo điều thì ván bài cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản
Trung Quốc mới thực sự bắt đầu.
Phạm Gia Minh dịch từ The Coming Chinese Crackup
Wall Street Journal (WSJ 6-3-14)
Đã đăng trên Vietstudy: http://viet-studies.info/kinhte/ChinaCrackup_Shambaugh.htm
Wall Street Journal (WSJ 6-3-14)
Đã đăng trên Vietstudy: http://viet-studies.info/kinhte/ChinaCrackup_Shambaugh.htm
Thăng long - Hà nội 8 tháng 3 /2015.
No comments:
Post a Comment