Wednesday, June 15, 2016

                                            
Sân bay Tinian ở Saipan, nơi xuất phát chiếc máy bay chở quả bom nguyên tử đầu tiên thả xuống Nhật. 

"Vách đá tự sát" ở đảo Saipan, nơi mà hàng trăm 
người Nhật đã nhảy xuống đất để chết. 

Saipan: Một người lính bị thương, đang giữ các xác 
đồng đội bọc poncho.

Súng phun lửa dùng tại chiến trường Thái Bình Dương

Vị trí của Saipan ở Thái Bình Dương


Saipan ngày nay

BÀI 1. HAI KẺ CỰU THÙ TRỞ THÀNH ĐÔI BẠN THÂN hay câu chuyện về Sakae Oba, người đại úy Nhật tiếp tục chiến đấu 16 tháng tại đảo Saipan sau khi Nhật đầu hàng 
- Thà làm miếng ngọc vở còn hơn viên ngói lành -- Châm ngôn TQ.

Lời nói đầu: Sáng 15/6/1944, TQLC Mỹ đổ bộ lên đảo Saipan, lớn nhứt của quần đảo Marianas. Dù chiến đấu dữ dội, quân Nhật phải từ từ rút vì tổn thất quá nặng. Họ rút về núi Topachau ở giữa đảo và cố thủ. Do ko được tiếp tế, tình hình ngày càng tuyệt vọng. Ngày 7/7, đ.đ. quân y của đ.u. Sakae Oba đã tham dự trận Quyết Tử Vì Thiên Hoàng (banzai) lớn nhứt trong chiến tranh Thái Bình Dương. Sau 15 g cận chiến, gần 4.300 lính Nhật chết. Ngày 9/7, Mỹ tuyên bố đã hoàn toàn kiểm soát đảo này.


Sakae Oba, chụp năm 1937.
Thực tế, đại úy Oba và 46 lính khác đã sống sót. Oba cũng dẫn hơn 200 thường dân Nhật vào rừng để khỏi bị lính Mỹ bắt. Ông ta và đồng đội chỉ huy những thường dân này và cho họ trốn trong hang núi và những ngôi làng nằm sâu trong rừng. Ngoài việc giúp dân, ông và đồng đội  tiếp tục chống lại lực lượng chiếm đóng Mỹ. Oba dùng núi Tapochau làm căn cứ chánh; ở độ cao 473 m, đỉnh núi có thể quan sát toàn bộ đảo Saipan. Từ căn cứ ở sườn núi phía tây, Oba và đồng đội thỉnh thoảng tiến hành các đột kích kiểu du kích vào các vị trí Mỹ. Do sự nhanh nhẹn và bất ngờ của các cuộc tấn công này, và những lần định bắt ông nhưng ko thành, TQLC Mỹ tại đảo Saipan cuối cùng gọi ông là "Con Cáo" (the Fox).
Vào tháng 9 1945, TQLC Mỹ đã bắt đầu tuần tiểu bên trong đảo để tìm những người đã tấn công doanh trại của họ để kiếm đồ tiếp tế. Đôi khi họ chạm súng và bắt được lính và thường dân Nhật, tra hỏi và gửi họ về trại tù thích hợp. Từ đó họ biết tên Oba. Để bắt được Oba, viên TL Mỹ dự định cho các lính Mỹ sẽ đứng thành 1 hàng từ tây sang đông đảo, người này cách người kia khoảng 2 m và tiến từ nam lên bắc đảo. Viên tướng nghĩ rằng lính Nhật sẽ phải chiến đấu, đầu hàng, hay rút về phía bắc và cuối cùng bị bắt. Do "lưới vét" (dragnet) này, những ng già và yếu đuối (infirm) muốn đầu hàng. Dù cho một số lính muốn chiến đấu, đại úy Oba khẳng định (assert) rằng quan tâm chính yếu của họ là bảo vệ thường dân và phải sống để tiếp tục cuộc chiến. Khi lính Mỹ tiến gần khu vực, phần lớn những ng lính và dân còn lại đã trèo lên 1 khoảng rừng thưa (clearing) kín đáo, trong khi những ng khác đứng trên những gờ (ledge) núi hẹp và bám vào thành núi. Họ ở vị trí mong manh (precarious) này suốt ngày, trong khi lính Mỹ đi ngang khu vực, lục soát (ransack) lều và vườn của họ. Có vài chỗ người Nhật trên các gờ núi chỉ cách đầu lính Mỹ chưa tới 6.1 m. Cuộc lục soát này tỏ ra vô ích, và cuối cùng dẫn đến sự thất vọng của TL Mỹ.
Sau đó khoảng 16 tháng, ngày 27/11/1945, cựu thiếu tướng Umahachi Amo, TL của Lữ đoàn biệt lập số 9 trong trận Saipan đã dụ được vài người Nhật ra đầu hàng bằng cách (dùng loa) hát bài quân nhạc của lục quân Nhật. Ông đưa cho họ xem các văn thư của BTTM của Nhật, nay đã tan hàng (defunct), gửi cho đại úy Oba và ra lịnh cho họ phải đầu hàng người Mỹ. Vào ngày 1/12/1945, ba tháng sau khi Nhật chính thức đầu hàng, các lính của Oba, đã lần nữa tập hợp tại núi Tapochau và hát bài từ biệt những linh hồn tử sĩ. Rồi Oba dẫn người của ông ra khỏi rừng và trình diện đại đội pháo phòng không số 18 của TQLC Mỹ. Với nghi lễ và phẩm giá xứng đáng (commensurate dignity), Đ.U. Oba giao nộp kiếm của ông cho trung tá Howard Kirgis, và người của ông giao nộp vũ khí và cờ (colour). Họ là lực lượng kháng chiến có tổ chức cuối cùng của Nhật tại đảo Saipan. 




. . . Sau khi được Mỹ phóng thích, ông hồi hương, gặp vợ và con trai lần đầu (nó sanh năm 1937, ngay sau ông đi TQ). Ông làm việc ở cửa hàng bán lẻ Maruei từ 1952 cho tới 1992 . . .
Don Jones, một cựu lính TQLC Mỹ từng đóng ở Saipan và đv ông từng bị phục kích bởi lính của Oba; hấp dẫn (intrigue) bởi câu chuyện này và đã tìm Oba sau chiến tranh. Với hợp tác của Oba, Jones đã viết 1 sách về kinh nghiệm ở Saipan. 
Jones trở thành bạn suốt đời của gia đình Oba, và đi xa hơn khi tìm được nơi ở của Trung Tá hồi hưu Kirgis, và xin ông có thể giao trả thanh kiếm cho Oba. Kirgis đồng ý, và Jones mang kiếm tới Nhật trao lại cho Oba. Cây kiếm này hiện là bảo vật của gđ Oba.
Oba Sakae chết ngày 8/6/1992, thọ 78 tuổi . . .
Kết quả sự hợp tác giữa 2 người là 1 hồi ký được viết bằng tiếng Nhật in năm 1982, bán rất chạy và phiên bản tiếng Anh in năm 1986 với tựa Oba, the Last Samurai: Saipan 1944-45.


Vào tháng 2 2011, phim Miracle of the Pacific: the Man Called Fox (hay "Oba: The Last Samurai") được phát hành, mô tả cuộc chiến đấu của Oba và người của ông tại đảo Saipan, cũng như sự săn lùng ko ngừng nghỉ của TQLC Mỹ . . . với cảnh quay tại Nhật, Mỹ, và Thái lan và tài tử Yataka Takenouchi trong vai đ.u. Sakae Oba. Để chuẩn bị cho vai diễn, Takenouchi gặp Hisamitsu Oba (con thứ của Oba) và cả hai đến thăm mộ của Sakae Oba. Phim đã nhận nhiều lời khen từ ng xem . 



BÀI 2. Phải chăng cảm thấy nhục nhã là ĐỘNG CƠ CHÁNH giúp ta cố gắng học hỏi để vươn lên (để khỏi bị thiên hạ khinh rẻ)?

- Nhục nhã của thua trận + bị áp đặt 1 hiến pháp dân chủ và giáo dục rập khuôn của Mỹ + chánh sách đúng đắn về kinh tế = Phép lạ kinh tế của Nhật. 
- Phạm sai lầm là một điều xấu, nhưng không chịu sửa chữa sai lầm  thì lại là điều tệ hại nhất.
Trong bài "Cuộc sống ở Nhật" của TS Nguyễn đình Đăng* Việt kiều Nhật có đoạn: 
. . . 
"Theo tôi, cái “may mắn” lớn nhất của thần dân xứ Phù Tang có lẽ là nước Nhật đã THUA trong Đại chiến thứ Hai. Về mặt tâm lý, thất bại đó khiến người Nhật cảm thấy nhục nhã, và quyết tâm đưa dân tộc mình vươn lên về mọi mặt để “rửa hận”. Thất bại đó cũng khiến dân tộc Nhật trở nên khiêm tốn, nhún nhường hơn trong giao tiếp vì có lẽ họ không có “chiến thắng oanh liệt” nào để họ có thể “vênh váo” với thế giới, và quá khứ thê thảm của Đệ Nhị Thế Chiến không để lại gì để họ có thể trở thành “ăn mày dĩ vãng”. Về chính trị, thất bại đó khiến nước Nhật ngay sau chiến tranh “bị” đặt dưới sự kiểm soát của Hoa kỳ. Từ đó Nhật bản được Hoa kỳ giúp đỡ về mọi mặt và trở thành đồng minh chặt chẽ của Hoa kỳ. Bản Hiến pháp của Nhật sau Đại chiến thứ Hai là do người Mỹ viết năm 1946. Đó là một bản hiến pháp hết sức dân chủ. Người Nhật, từ ông thủ tướng (và gia đình, họ hàng ông ta) đến cậu học sinh tiểu học, tất cả đều rất tôn trọng pháp luật và thực hiện đúng Hiến pháp. Đó là điều mấu chốt đưa đến những ưu điểm dưới đây." (hết) 
Xin xem tiếp ở: 
http://ribf.riken.go.jp/~dang/Japanlife.html

Nhận xét : 
* Ông này lớn lên ở miền bắc XHCN, du học các nước cs và Tây Âu , trước khi sống ở Nhật. 
====
Phần dưới đây do người viết dịch từ báo LIFE.

 Một lính Mỹ hôn 1 cô gái nhảy, giá vé là 2 yen. 
LÍNH MỸ DẠY GÁI NHẬT NHỮNG TIẾNG ANH CHỈ MŨI VÀ TAI VÀ CÔ NÀY DẠY NHỮNG TIẾNG NHẬT TƯƠNG ĐƯƠNG (HANA, MIMI). 
 Lính Mỹ và gái Nhật đang học giao tiếp: hôn/hug là daku, táo/apple là ringo. 
Người đàn bà trong hình 1 là 1 trong hàng nghìn ng chờ đợi vài ngày/đêm bên ngoài các ga xe lửa để có được vé - được phân phối nhỏ giọt - vì ko đủ nhu cầu.
Những người vô gia cư ngủ trên ghế đá công viên và lề đường. Họ sống bằng ĂN XIN và TRỘM CẮP. Cảnh sát thỉnh thoảng ruồng bố nhưng ko làm giảm đi số người này.
(Dịch từ nguồn : LIFE 24 Sep 1945). 
. . . 
PHẦN ĐỌC THÊM: "Vấn đề kiếm gái của lính Mỹ không đâu dễ dàng bằng tại Tokyo. Thường bằng cách đến công viên Hibiya, kế khuôn viên của Hoàng Cung. Phần lớn các cô ở đây ko phải là geisha kiêu căng (haughty) hay đĩ điếm nhưng là các cô gái bình thường, nhưng ko còn ở với gia đình. Cách thông thường là dạy cô này một ít Anh ngữ cần thiết và cho cô thứ gì ăn được, như chocolate hay trái cây. Cho tới nay, ko thấy sự oán giận (resentment) từ phái nam Nhật về cảnh này. 
Sự thất bại của CP Mỹ trong việc giữ giá đồng 'yen' đã khiến lính Mỹ gần như phá sản. Lính Mỹ được trả lương bằng 'yen' với giá 1 'yen' bằng 1/15 đô (yen = 6 cent rưởi), nhưng trên chợ đen, 'yen' bằng 1/70 của đô (yen=1 cent rưởi) vì trong 4 tháng tiền tệ Nhật đã lạm phát từ 27 tỉ lên 44 tỉ 'yen'. Một buổi đi chơi tối ko rượu tốn 20 đô.
Lính Mỹ tự do đi lại và họ có thể mua đồ kỷ niệm ở 1 siêu thị của quân đội Mỹ, nhưng tài sản quí nhất của họ là thuốc lá, có thể mang lại (bring about) cho họ 2 đô nếu qua mặt được quân cảnh. Những dịch vụ (của lính Mỹ) bao gồm 1 vài ổ chứa gái. Các gái nhảy/vũ nữ ở Tokyo (tính theo giờ) đã vui vẻ học các bước nhảy mới của Mỹ nhưng đã đe dọa đình công vì các gắng sức giật gân (jitterbug exertion) này ko thể tiếp tục nếu họ chỉ ăn khoai lang. Tướng Eichelberger đã cố gắng giải quyết sớm (forestall) những khó khăn về giải trí của lính Mỹ bằng cách bắt đầu những chương trình rộng lớn như baseball, football, ski và hockey. "
. . . 
(1) Tuy đất nước thua trận nhưng ng dân Nhật được phe thắng trận đối xử bình đẳng (một yếu tố của Nhà nước Pháp quyền) như "các cô gái nhảy dọa đình công . . ." QH Nhật đã cấp tốc ra luật cho phép 21 triệu phụ nữ được đi bầu LẦN ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ. Cũng theo LIFE 24 Sep 1945, trước đây cảnh sát Nhật tượng trưng cho Nhật Hoàng, do vậy đôi khi họ đã lạm quyền; khi có lính Mỹ, tình hình này ko còn. 
====
BÀI 3. NƯỚC NHẬT CỐ GẮNG ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG TỰ DO
(Dịch từ bài "Japan Tries Freedom's Road" trên nguyệt san National Geographic tháng năm 1950). 
...
"Chúng tôi đã tham gia một cuộc thập tự chinh lớn ở đây. 
. . .Tôi hy vọng rằng 1.000 năm kể từ nay, lịch sử của giai đoạn này sẽ chứa ít nhứt một lời chú ở cuối trang (footnote) rằng trong kỷ nguyên (era) này, sự cao thượng (nobility) của quan điểm Mỹ về cuộc sống đã mang lại cho Viễn Đông hai cột trụ lớn của văn minh - dân chủ và Thiên Chúa Giáo". -- Tướng MacArthur. 
Dù cho TQ đang trong tay CS, ông tin rằng với thời gian, ý tưởng của chúng ta sẽ được chấp nhận khắp phương Đông và sẽ thay đổi lối sống của gần phân nửa loài người.
Vị tướng mồi lửa cho tẩu thuốc, nhưng vì chăm chú nói chuyện, ông đã quên hút. Ở tuổi 70, ông có vẻ trẻ đi 10 tuổi. "Ở đây có 1 câu nói," ông nhắc chúng tôi,  Nước Nhật đi đâu, phương Đông đi đó.' "
Đi khắp nước Nhật ngày nay, ngay cả 1 người ko có ý thức lịch sử nhạy bén như tướng MacArthur cũng nhận ra rằng đây là một cố gắng độc đáo (unique endeavour) khi định biến 82.000.000 người thuộc giai cấp nông nô (heir of serfdom) thành những công dân tự tin (self-reliant) và tự do.
"Phải cần bao nhiêu lâu?" tôi đã hỏi nhiều người Nhật và phương Tây. 
Câu hỏi đi từ MƯỜI NĂM đến ba THẾ HỆ. Hầu như mọi người cảm thấy sẽ làm được nếu có đủ thời gian". 
Nhận xét của người dịch: Qua bài viết, ta thấy MacArthur có tính tiên tri. Năm 1964, chỉ 14 năm kể từ bài viết này, Nhật đã tổ chức Thế Vận Hội Tokyo và khánh thành đường cao tốc ĐẦU TIÊN của thế giới. Năm kế, Nhật tổ chức hội chợ quốc tế tại Osaka.
===
BÀI 4. Làm tớ người khôn hơn làm thầy thằng dại .
Một câu chuyện nhỏ nhưng nói lên hai nguyên tắc quan trọng "Mọi người đều bình đẳng trước luật" và "Không ai đứng trên pháp luật" trong một Nhà Nước Pháp Quyền - mà người Mỹ đã áp dụng tại Nhật sau 1945.
Vị tướng và người thợ mộc
". . . Lính Mỹ đồn trú tại Nhật, thông thường, có kỷ luật và đàng hoàng như bất cứ lính Mỹ mà tôi đã thấy trong 3 năm phục vụ tại Âu châu. 
Tướng MacArthur đã làm gương, và rất khó chịu nếu có người lính Mỹ nào tàn bạo, ko tử tế hay cẩu thả/khinh xuất với dân Nhật: ông sẽ trừng phạt ngay lập tức nếu biết.
Thời gian ngắn sau ngày Chiếm Đóng (ngày Nhật đầu hàng và bị quân đồng minh chiếm đóng), một SQ với màu da sạm nắng (suntan) bước vào 1 thang máy tại tòa nhà Dai Ichi ở Tokyo. Một thợ mộc cũng định bước vào. (Tòa nhà này trước đây là trụ sở của đại công ty Dai Ichi, Mỹ đã chọn làm bản doanh của BTL quân chiếm đóng -- ND) .
"Xin chờ 1 phút," người giữ thang máy nói. "SQ này là tướng Mac-Arthur."
Người thợ mộc lặng người vì kinh sợ (awe), bối rối và sợ hãi lâu đời đối với giới quân nhân. Các tướng Nhật trước giờ đã tự coi họ thuộc giai cấp khác.
Nhưng Tư lịnh Tối cao của quân Đồng minh đã ra dấu (beckon) cho anh ta bước vào.
"Thang máy sẽ ko di chuyển nếu anh ko đi với tôi," ông mỉm cười nói.
Ông hỏi người kia định đi đâu (errand), sẽ ra khỏi thang máy ở tầng nào, và hướng dẫn tường tận trước khi tiếp tục đến bộ tham mưu ở tầng 6.
Đối với người Nhật, đây ko phải là 1 sự kiện nhỏ và hàng ngày. Người thợ mộc này viết 1 lá thư cảm kích (appreciation), và 1 họa sĩ Nhật vẽ 1 bức tranh có vị Tướng và người Thợ Mộc.
Được gắn trong 1 tập giấy trắng bằng tiếng Nhật, bức tranh và lá thư đã đi khắp nước Nhật; (tập giấy) đó mô tả sự kiện này và ghi những nhận xét đầy ngạc nhiên như "Vị Tướng ko có cận vệ đi kèm; và cũng ko mang súng."
Vị Tướng đã nhận hàng đống thư, nhiều lá thư diễn đạt (phrase) bằng tiếng Anh kỳ quặc cấp trung học, và những quà tặng rất điển hình của Nhật như hoa, và ngay cả côn trùng. Được nghe côn trùng (có lẽ là con ve sầu) "ca hát" hay nhìn đom đóm chiếu sáng là những hoạt động phổ thông của nước Nhật yêu Thiên nhiên.
Một rổ chứa 1 ngàn con đom đóm từ Hội Thanh niên ở Takata, quận Gifu, mang một thiệp viết tay rất công phu với tựa "Những Tặng phẩm gửi tới Đại Tướng" và giải thích rằng "Ánh sáng rực rỡ của đom đóm là những ánh sáng tự phát (spontaneity) lớn lao của thiên nhiên..." 
Dịch từ National Geographic tháng 5 1950 trang 608-9.
===
BÀI 5. Chuyện khó tin nhưng có thật: Một người sống - và trồng trọt - ở giữa sân bay Narita Tokyo (One Man Lives – And Farms – In The Middle Of Tokyo Narita Airport).  
của Gary Leff ngày August 23, 2020.
Khi tôi dùng xe tốc hành Nakita Express từ sân bay vào Tokyo, tôi luôn luôn ngạc nhiên về nông trại nằm kế bên. Tokyo là một thành phố chật-như-nêm như thế, và hầu như không phải là thành phố như vậy duy nhất ở Nhật Bản. Và làm thế nào ngoại ô của nó lại là nông trại rộng lớn?
Sân bay Narita Tokyo đã được xây bên trên những làng trước đây chuyên về trồng trọt, dù có sự chống đối của địa phương, hỗ trợ bởi các đảng Cộng sản và Dân chủ Xã hội, còn có tên là Cuộc Tranh đấu Sanrizuka. Trong khi đất cho sân bay được thủ đắc trong giai đoạn đầu bởi sự tự nguyện của chủ đất, vào năm 1971 chính quyền Nhựt bắt đầu tước đoạt quyền sở hữu (expropriate) hay chiếm đất. (Nghĩa là CP lấy đất từ chủ đất để phục vụ lợi ích công cộng như mở rộng đường sắt, v.v...-- ND).
Phe chống đối đã đụng độ với thợ xây dựng và CS, dẫn đến nhiều người chết và bắt người hàng loạt. Hơn 500 hành động có tính du kích đã xảy ra với sân bay Narita kể từ lúc mở cửa trong năm 1978. 
Năm hộ vẫn sống trên đất của sân bay Narita. Người con trai của một trong những người từ chối rời bỏ đất vẫn canh tác trên nông trại của y, hỗ trợ bởi 10 người thiện nguyện, vài người trong số đó là các sinh viên đã từng tham gia chống đối. Y đã từ chối một mời gọi hãy bỏ đất để nhận hơn 1,6 triệu đô, và nhận thấy bây giờ trồng trọt dễ hơn do ít máy bay lên xuống vì đại dịch Covid-19.
                          

Phi đạo thứ hai của sân bay Narita được dự trù sẽ đi ngang nông trại của y bằng cách đi vòng. Y vẫn bán"rau quả cho khoảng 400 khách hàng địa phương."
Dịch từ: 
When I take the Narita Express from the airport into Tokyo, I’m always amazed by the farming that’s going on nearby//
BÀI 6. CHỪNG NÀO VN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY ĐỂ ĐIỀU HÀNH ĐẤT NƯỚC?
1/ Hiến pháp Nhật, trong phần mở đầu, chứa một tuyên bố vững chắc của nguyên tắc "quyền lực cao nhứt THUỘC VỀ DÂN". Nguyên tắc này được công bố nhân danh "nhân dân Nhựt" và tuyên bố rằng "quyền cao nhứt thuộc về dân" và chánh quyền là sự GIAO PHÓ thiêng liêng bởi dân, thẩm quyền của chánh quyền BẮT NGUỒN từ dân, quyền lực của chánh quyền được thực thi bởi các ĐẠI DIỆN của dân, và lợi ích của chánh quyền được THỤ HƯỞNG bởi dân.
2/ Có lần, một ng cháu khi du lịch Nhật đã bỏ quên một iPhone 6 Plus tại sân bay quốc tế Nakita, Tokyo. Về tới VN mới biết, liền gọi qua Nhật thì họ cho biết đã nhặt được phone và sẽ gửi về công ty nơi cháu này làm việc; có lẽ vài ngày nữa, phone sẽ trở về chủ cũ. Phone được cháu tôi mua mới giá 907 đô. 
Tôi đã ko tin ở mắt khi đọc hàng chữ này dù người kể là bà con của tôi. 
Tôi nghĩ ở Mỹ, iPhone 6 Plus mà bỏ quên ở phi trường cũng ko như vậy đâu!
(Bài này viết tháng 6/2019).
==


No comments:

Post a Comment