Monday, December 18, 2017

1/ Có người hỏi Phật "Hạnh phúc 
chân thật là gì ?" , Ngài trả lời : 
"Sống điềm đạm trong mọi thăng
 trầm , thắng bại ,được thua , 
vinh nhục vẫn mỉm cười ."
2/ Giá trị một con người ko ở
 chỗ cái gì y có ở chỗ y làm
 được những điều , mà những 
người có điều kiện giống y ko
 làm được .

Friday, February 28, 2014


AI GIẢI PHÓNG AI ? 


CÁC BỘ ĐỘI "GIẢI PHÓNG" CHOÁNG NGỢP TRƯỚC TÀN DƯ CỦA CHẾ ĐỘ  "MỸ NGỤY"
MỘT BỘ ĐỘI RỜI SÀI GÒN VỀ QUÊ Ở MIỀN BẮC , CHỤP NĂM 1976 BỞI KÝ GIẢ MARC RIBOUD 

Nhân viên sở Mỹ
 Ngã tư Lê Lợi - Pasteur .
TRƯỜNG MARIE-CURIE NGÀY NAY , THÀNH LẬP NĂM 1918 .
Nhà thờ Xuân Lộc , năm 1967-68 .
Lăng Cha Cả kế cổng vào sân bay TSN 

Rạp Rex , đường Nguyễn Huệ , điểm đến gần như hàng tuần của tôi vì tôi rất mê xem phim  . Thời đó , TV phát hình đen trắng , mỗi đêm vài giờ , phần lớn là tin chiến sự , ca nhạc , cải lương , v.v... rất nhàm chán . Ở nhà thì nghe nhạc của Beatles , Rolling Stones , v.v... qua băng từ hay cassette . Họ thu sẵn và bán ở đường Nguyễn Huệ . Do vậy , giải trí tốt nhứt là xem phim . 
Đẩy xe lam lạc tay lái , trong lúc di tản , không ghi năm . Thấy lạ nên tôi post .
Sạp báo giờ nghỉ trưa năm 1948 , cách đây 64 năm


THÌ CUỘC ĐỔI ĐỜI XUẤT HIỆN , với các hình dưới đây . . .
Chào mừng chiến thắng 30/4
Khi anh mới vào "giải phóng" miền Nam thì gia tài nằm gọn trong cái ba-lô

Họ đang "giáo dục" những người phục vụ chế độ cũ .
Trẻ em Hà Nội đang học QS năm 1979 . Hình dưới : "KHI TẤT CẢ CHO MIỀN NAM RUỘT THỊT" , quân và dân miền Bắc đã sống trong những điều kiện sau đây (trừ hình HCM và VNG , các hình còn lại chụp năm 1969 bởi ký giả Marc Riboud) .
Chen lấn mua báo đảng .
Đi dân công chiến trường 
Nữ dân quân tập luyện 
Tự sướng với chiến công bắn rơi máy bay Mỹ .
Nông dân đi sửa đường vừa bị bom
Ba tôi đã dùng bức hình này làm thần hộ mạng trong nhiều năm sau 1975 : hình này là trang bìa của TIME hay NEWSWEEK và ba tôi lộng kiến và treo nơi trang trọng nhứt trong nhà !
Vị tướng xuất sắc của mọi thời đại (theo báo Đảng)

Bìa sách North Vietnam của ký giả Pháp Marc Riboud


 
 

Singapore từng gánh chịu nạn tham nhũng hoành hoành tàn phá đất nước, đứng trước vấn nạn này Thủ tướng Lý Quang Diệu đã đặt trọng tâm vào giải quyết vấn nạn tham nhũng
tham-nhung
Cho đến nay Singapore đã đẩy lùi hẳn tham nhũng, và trở thành quốc gia minh bạch hàng đầu thế giới, vậy đất nước này đã làm gì để đạt được thành tích này.
TS. Phan Hữu Tích đã có bài viết “Bốn ‘không’ ở Singapore” (bài được đăng  trên tamnhin.net) nói về vấn đề này, đây cũng là điều Việt Nam rất cần học hỏi:
Singapore là thành viên của Hiệp hội các nước ASEAN không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế phát triển mà còn được đánh giá có một Chính phủ trong sạch. Singapore có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Tamnhin.net xin giới thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm của Singapore trong chống tham nhũng.
1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng.
Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm công chức, quan chức Chính phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do Nhà nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu. Quan chức càng to thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm, thậm chí cả ngàn đô mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô, bị sống trong hoàn cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì mất lại nhiều hơn được. Vì thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao, lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.
2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng.
Chính phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với Nhà nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ (chồng) bao gồm: Tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng. Nhà nước còn quy định: Quan chức Chính phủ không được phép nợ nần; không được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức Chính phủ muốn mua cổ phiếu phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các công ty đó không có quan hệ lợi ích với Chính phủ. Công chức và quan chức Chính phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.
Luật Báo chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của Chính phủ trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền, v.v…
3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng.
Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân. Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la (Singapore). Nữ công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ quan chính phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng 1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đô la đến 20.000 đô la. Thủ tướng lương tháng hơn 40.000 đô la (thời điểm năm 2000). Với mức lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy công chức và quan chức Chính phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý, mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu hủy những tham vọng không trong sáng của mình.
4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng.
ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hóa với giá trị tiền không nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của Chính phủ.
Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính phủ Singapore được cử sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo, phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là phiền toái. Cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở sân bay trước khi trở về Singapore.
Trông người mà nghĩ đến ta, có thể nói, cách làm của Singapore là gợi ý tốt để chúng ta suy ngẫm, vận dụng trong quá trình xây dựng “Luật chống tham nhũng” của Nhà nước ta. Những biện pháp, những điều khoản điều chỉnh của Luật phải có tính bao quát, toàn diện và phải đồng bộ với các chính sách, bảo đảm tính khả thi. Chú trọng yếu tố kinh tế, sao cho tính ngăn chặn, phòng ngừa cao và tính nghiêm khắc, nghiêm minh trong xử lý vi phạm phải mạnh mẽ. Phương châm và mục tiêu của việc chống tham nhũng nên theo hướng: Làm cho quan chức không dám, không thể, không muốn và không cần tham nhũng mà Singapore đã làm có hiệu quả.
Để đạt được thành tích như ngày nay, nhìn lại quá khứ, Thủ tướng Lý Quang Diệu đặt quyết tâm chống tham nhũng, ông nói: “Một khi những nhà lãnh đạo chủ chốt kém liêm khiết, không nghiêm khắc đòi hỏi những chuẩn mực cao, lúc đó cấu trúc toàn vẹn của hệ thống hành chính sẽ yếu đi và cuối cùng nó sẽ sụp đổ. Singapore chỉ có thể tiếp tục tồn tại nếu như các bộ trưởng và viên chức cao cấp đều liêm khiết và làm việc hiệu quả…Chỉ khi nào chúng ta gữi vững tính toàn vẹn của bộ máy hành chính thì nền kinh tế mới có thể vận hành theo hướng cho phép người Singapore thấy rõ mối liên hệ giữa làm việc siêng năng với những phần thưởng xứng đáng. Chỉ khi đó, người ta, người nước ngoài và người Singapore mới đầu tư vào Singapore; chỉ khi đó người dân Singapore mới làm việc để bản thân và con cái của mình tốt hơn thông qua giáo dục và đào tạo, thay vì chỉ trông chờ vào vận may đến từ bạn bè hay người thân, hay bôi trơn quan hệ ở những nơi thích hợp”
Cơ quan điều tra tham nhũng (CPIB) hoàn toàn tách biệt khỏi khỏi tất cả các cơ quan ban ngành khác, và chỉ đặt dưới sự chỉ đạo của Thủ Tướng Lý Quang Diệu. Chính điều này giúp cho CPIB không bị chi phối trong quá trính điều tra chống tham nhũng.
Singapore đẩy mạnh chống tham nhũng từ trên xuống, bắt đầu từ các lãnh đão cao nhất cho đến Bộ trưởng. Khi các lãnh đạo đều liêm khiết, các viên chức nhìn thấy điều này thì không còn dám tham nhũng nữa, người dân từ đó tin tưởng vào các viên chức và lãnh đạo. Dần dần tham nhũng ở Singapore bị đẩy lùi.
Từ kinh nghiệm chống tham nhũng ở Singapore có thể thấy rằng nếu người lãnh đạo không trong sạch thì cuộc chống tham nhũng không thể thành công
Lãnh đạo phải làm và thực hiện trước thì các viên chức cấp dưới mới nhìn và làm theo.
Cần phải có cơ quan điều tra chống tham nhũng hoạt động độc lập mà không bị chi phối bởi bất kỳ tổ chức nào.
Ánh Sáng
Những khái niệm về dân chủ đã có từ đế quốc La Mã cách đây trên dưới 2.000 năm.
- Mọi coi đường đều dẫn tới La Mã.
Ví dụ như giám sát và cân bằng (checks and balances), tam quyền phân lập (separation of powers), phủ quyết (vetoes), nói dông dài gây trở ngại tại quốc hội (filibuster), số tối thiểu nghị viên cần thiết để biểu quyết (quorum requirements), giới hạn nhiệm kỳ (term limits), truất phế/đàn hặc (impeachment), quốc hội kiểm soát chi tiêu của CP* (power of the purse), tổ chức bầu cử đều đặn (regular election).
Nhận xét: các khái niệm trên CHƯA thực hiện tại Đông Lào dù đã có cách đây trên dưới 2.000 năm và là khuôn mẫu của các hiến pháp của các nước dân chủ từ mấy trăm năm với Mỹ là nước đầu tiên áp dụng Hiến pháp La Mã.
* Năm 1974, QH Mỹ ra Đạo luật về Ngoại viện (Foreign Assistance Act of 1974) đã chấm dứt quân viện cho VNCH, dẫn đến sự sụp đổ.
Di sản khổng lồ của đế quốc La mã .
Dịch từ: The World According To Rome trên National Geographic số tháng 8 1997 .
Lời nói đầu: 
Nhân loại ngày này thừa hưởng rất nhiều di sản của đế quốc La Mã trong nhiều lãnh vực:
1/ Luật pháp thế giới hiện nay dựa vào luật La Mã, như bài dưới đây.
2/ Các ý tưởng về chính trị hay bộ máy nhà nước đã hình thành rất sớm từ thời La Mã như triumvirate (tam đầu chế/quyền hành trong tay ba người), senate (thượng viện), referendum (trưng cầu dân ý), forum (hội thảo), Vox Popula Vox Dei (ý dân là ý trời), Salus populi suprema lex esto (Let the good (or safety) of the people be the supreme law/Hãy để phúc lợi hay an toàn của dân là luật tối thượng), giám sát và cân bằng (checks and balances), tam quyền phân lập (separation of powers), phủ quyết (veto), nói dông dài gây trở ngại tại quốc hội (filibuster), số tối thiểu nghị viên cần thiết để biểu quyết (quorum requirements), giới hạn nhiệm kỳ (term limits), truất phế/ đàn hặc (impeachment), quốc hội kiểm soát chi tiêu của CP * (power of the purse), tổ chức bầu cử đều đặn (regular election),v.v...
Nhận xét : các khái niệm trên CHƯA thực hiện tại VN dù đã có cách đây trên dưới 2.000 năm và là khuôn mẫu của các hiến pháp của các nước dân chủ từ mấy trăm năm với Mỹ là nước đầu tiên áp dụng Hiến pháp La Mã.
* Năm 1974, QH Mỹ ra Đạo luật về Ngoại viện (Foreign Assistance Act of 1974) đã chấm dứt quân viện cho VNCH, dẫn đến sự sụp đổ.
3/ Kiến trúc: gần như mọi chi tiết trong ngôi nhà ta ở đều có nguồn gốc từ La Mã. Điều này các KTS rành hơn tôi.
4/ Về thiết kế đô thị: các tp ở Âu châu, kể cả thủ đô Washington của Mỹ đều dựa theo thiết kế đô thị của La Mã.
5/ Về xây dựng: kỹ thuật xây cầu/đường/nhà cửa đều xuất phát từ La Mã và sau này hoàn thiện thêm.
6/ Về ngôn ngữ: người La Mã đã có công tạo tiếng La-tinh - cha đẻ của các ngôn ngữ Âu châu (Pháp, Ý, TBN); và tiếng Việt cũng đặt nền tảng trên tiếng La-tinh do các LM người Bồ Đào Nha tạo ra.
. . .
"Một trong những di sản quan trọng nhứt, người La Mã để lại là LUẬT PHÁP. Ý tưởng luật phải viết ra giấy (written law) là một tấm khiên – để bảo vệ cá nhân chống lại người khác và chống lại quyền lực đáng sợ (awesome) của nhà nước – đã là một quan niệm người La Mã thừa hưởng từ người Hy Lạp. Nhưng chính La Mã đã đưa khái niệm trừu tượng này thành thực tiển hàng ngày, và thực tiển này ngày nay được tôn trọng khắp thế giới. Một câu được khắc ở trường Luật Harvard viết: “Non sub homine sed sib deo et lege" (Không phải do người mà do Thượng đế và luật pháp (mà chúng ta được cai trị).”
Pháp Quyền/PQ (rule by law) rất quan trọng đối với văn minh phương Tây đến nỗi phần lớn chúng ta coi đó là điều đương nhiên (for granted). Thực tế, PQ không phải lúc nào cũng là điều cần thiết đối với nhân loại: người TQ thời xưa, đã làm khác với điều người La mã đã làm. Khỗng Phu Tử và các đồ đệ trong nhiều thế kỷ đã ko tin luật thành văn. Một bộ luật đầy bụi thì quá khô cứng/ko uyển chuyển để xử lý sự đa dạng vô tận của rắc rối của con người, họ cảm thấy như vậy. Họ bèn chọn cách tin tưởng vào con người, chứ ko phải là luật pháp – vì dựa vào tính BẢN THIỆN CÓ SẴN của con người - như là bảo đảm tốt nhứt của một xã hội dân sự. Ngay cả ngày nay, quan niệm về luật thành văn và hợp đồng (viết ra giấy) vẫn còn chưa được coi trọng lắm tại TQ và các nước Đông Nam Á khác.
Người La Mã cũng cảm thấy hơi mơ hồ (ambiguity) về sự hoàn thiện (preeminence) của LP. “Corruptissima republicae, plurimae leges.”(Nhà Nước càng tham nhũng, thì luật càng nhiều).-- Sử gia Tacitus đã nhận xét. 
Nhưng trong cuộc đấu tranh liên tục (ongoing) giữa dân thường của La mã và giới tinh hoa (elite) cầm quyền, tiện dân (plebeian) đã quyết định thà dựa vào luật pháp hơn là ý muốn của con người (all-too-human whim) từ nhà cầm quyền (ruler). Dưới áp lực từ đám tiện dân (pleb), giai cấp cầm quyền đã liên tục buộc phải thảo ra luật lệ. Luật đầu tiên, có tên Mười Hai Chương Trình (Twelve Tables), ra đời vào 450 năm trước Công nguyên, và người La Mã tiếp tục soạn thảo luật cho 1000 năm sau đó. Bộ sách Tóm Tắt Về Luật Và Các Sửa Đổi (Compilation of the Digests, the Institutes, and the Revised Code) rất đồ sộ của hoàng đế Justinian, hoàn tất năm 534 sau Công nguyên, được dùng như nền tảng của luật Tây phương kể từ đó.
Một xã hội với một hoàng đế đầy quyền lực có thể giết người tùy thích, một xã hội với hàng triệu nô lệ – được đối xử như đồ vật trong nhà (chattel), ko thể được xem như một xã hội pháp trị (lawful society). Nhưng luật La mã cũng ko lạ lẫm với các người mê chương trình có tên LA Law hay Court TV .
Cũng có cáo trạng (indictment) và các phiên tòa có bồi thẩm (jury trial), các quan tòa chuyên ra lịnh treo cổ và quan tòa đa cảm (softhearted), các công tố viên nặng tay (hard-hitting) và luật sư bào chữa khôn ngoan (wily). Trong nhóm cuối cùng (luật sư), nhân vật Johnnie Cochran của La Mã dĩ nhiên là luật sư Cicero, oai nghiêm và bền bỉ (long-winded), một người đã hoàn thiện những kỹ thuật bào chữa vẫn còn áp dụng ngày nay.
Trong một cách chống lại bồi thẩm đoàn (appeal to the jury), Cicero đã dùng một cách được gọi là praeteritio (không biết).
Ông nói như sau, hôm nay tôi tập trung vào sự vô tội của khách hàng của tôi, do vậy, tôi hoàn toàn ko biết sự kiện rằng công tố viên (prosecutor) trong vụ này là một kẻ tán gái khả ố (infamous philanderer), đã đánh vợ và ăn cắp đồ của bà của y. Một cách khác được gọi là ad misericordiam, kêu gọi lòng thương hại, khi Cicero cho vợ của khách hàng của ông dẫn các con rách rưới, dơ bẩn của bà vào tòa và ngồi khóc trước mặt các quan tòa. Nếu khách hàng ko có con, luôn luôn có những trẻ láu cá (urchin) đường phố được thuê để đóng vai này trong một ngày.
2000 năm trước trường hợp/vụ kiện (case) Miranda, người La mã cũng thành lập những bảo đảm để bảo vệ quyền của nghi phạm bị kết tội. Chúng ta có thể thấy tiến trình này trong phiên xử Thánh Paul, nhà tiên phong của Thiên Chúa giáo được nêu ra (set forth) (trong Tân Ước) ở Tập các Tông đồ (Acts of the Apostles). (Văn bản hơi nghi ngờ vì nó có thể được viết nhằm phần nào đó (in part) gây khó khăn (embarrass) cho người Do thái, nhưng các học giả nói nó chính xác về mặt luật pháp).
Trong chương 22 của Tập này, Thánh Paul được đưa ra trước một quan tòa (magistrate) La Mã về các cáo buộc phạm pháp (criminal charge) – có vẻ như sách động nổi loạn (provoke a riot). Cảnh sát sắp (be about) đánh và nhốt thì ông đột ngột nói (pipe up) rằng ông là người La mã. Điều này thay đổi tất cả, và ông được phép tự do chờ ngày xét xử (pending a trial).
Sau đó, các tu sĩ chánh của TP Jerusalem than phiền với thống đốc TP La mã, ông Festus, rằng tại sao ko truy tố thánh Paul. Festus, trong chương 25 (của Tập trên), với dẫn chứng về luật: “Phong tục La mã ko cho phép giao lại (hand over) bất cứ ai trước khi hắn đối diện với những người cáo buộc và hắn có được cơ hội để bảo vệ hắn chống lại cáo buộc. “
Cuối cùng, ông yêu cầu một đặc quyền khác (assert another legal prerogative) – quyền được kháng án trực tiếp với La Mã. Thủ tục này cho ông được tự do thêm vài năm. Thánh Paul về La mã, nhưng Tập các Tông đồ đã kết thúc ở đây, ko có lời nào về kết cục của vụ này. Một vài học giả cho rằng cáo buộc được hủy bỏ, vì ko có ghi chép khác về trường hợp này; một truyền thuyết (tradition) khác cho rằng thánh đã bị ném vào sư tử theo lịnh của hoàng đế Nero.
Dù cho hoàng đế Augustus thiết lập chế độ một người quyết định, có một khuynh hướng của các hoàng đế là tuân thủ các mệnh lệnh của luật pháp (abide by legal dictates). Không ai có thể làm gì nếu hoàng đế Nero hay Caligula ngồi xổm lên LP (ride roughshod over the law), nhưng trong phần lớn các trường hợp (but for the most part), ngay cả hoàng đế cũng cảm thấy phải tuân thủ.
Nếu một hoàng đế tôn trọng luật pháp, trách nhiệm này còn nặng hơn đối với các viên chức cấp dưới hay các thống đốc các thuộc địa. Một QUAN CHẤP CHÍNH TỐI CAO (consul) của một tỉnh, nếu vi phạm luật, có nguy cơ bị triệu hồi về La mã, nơi mà ông ta có thể bị cùm (would be thrown in pedica/into chains). Một lý do mà quan chấp chánh Festus có thái độ khôn ngoan (fastidious) về các quyền của thánh Paul, có thể là người tiền nhiệm của ông, một người bất tài (inapt) tên Felix, đã bị triệu hồi sau khi các công dân của TP Judaea than phiền rằng ông đã lạm quyền (be abused their rights)".
(Còn tiếp)