Đô thị Chợ Lớn tiếp tục được mở rộng ra về phía Tây với việc sáp nhập thêm các xóm Phú Thới, xóm Mỹ Trung và xóm Phú Định thuộc làng Phú Định và các xóm Hòa Đông, xóm Phú Lâm thuộc làng Tân Hòa Đông vào địa bàn Chợ Lớn. Về phía Bắc, Chợ Lớn được mở rộng hơn với các phần đất của làng Chí Hòa và một phần đất của làng Hòa Hưng. Về phía Nam, địa bàn Chợ Lớn được mở rộng xuống đến phần đất của các xóm Cầu Mật, xóm Thái Phúc thuộc làng Chánh Hưng. Các quận trên địa bàn Chợ Lớn vẫn được giữ nguyên như cũ.
Bản đồ 1958
Ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn 1958 theo bản đồ Đô thành Sài Gòn 1958
Ranh giới Đô thành
Bản đồ năm 1958 mang tên là Đô thành Sài Gòn. Bản đồ cho thấy hai thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn không còn cách nhau riêng biệt nữa mà đã là một đơn vị hành chính có ranh giới chung cho toàn địa bàn.
Bản đồ không thể hiện đầy đủ các đường ranh giới cho toàn bộ Đô thành Sài Gòn, nhưng khi so sánh với những phần thể hiện được trên bản đồ với bản đồ
1942, ta thấy ranh giới hành chính của cả hai thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn không có sự thay đổi gì, chỉ có đơn vị hành chính là có sự thay đổi. Trên địa bàn thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn có 5 quận với 18 hộ.
Ngày 10/5/1948, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ ra nghị định số 2383 - MI/DAA về việc chia khu Sài Gòn – Chợ Lớn ra làm 6 quận. Trên địa bàn thành phố Sài Gòn có các quận 1, quận 2, quận 3 và quận 6. Trên địa bàn thành phố Chợ Lớn có 2 quận là quận 4 và quận 5. Ranh giới được ấn định như sau[1]: Quận 1 gồm có hộ 1
Quận 2 gồm có hộ 2
Quận 3 gồm có hộ 4, cộng thêm một khu tứ giác bao bọc bởi đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai), đại lộ Hui Bon Hoa (Lý Thái Tổ). Đường Général Lizé (Điện Biên Phủ) và ranh giới của hộ 3 và hộ 4 như đã được ấn định theo Nghị định ngày 22/9/1941.
Quận 4 gồm có các hộ: 7,8,9,10,13 và một phần hộ 15 và hộ 18 khu vực Chợ Lớn.
Quận 5 gồm có các hộ: 11,12,14,15,16,17 và 18 (trừ phần đã sáp nhập vào quận 4).
Quận 6 gồm có hộ 3 (Khánh Hội và Vĩnh Hội) của Sài Gòn.
Số đơn vị quận của Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn được tăng lên 7 quận với sắc lệnh số 104-NV của Quốc trưởng Bảo Đại ban hành ngày 27/12/1952 quyết định thành lập thêm quận 7 (phần đất phía Tây của thành phố Chợ Lớn).
Bản đồ 1973
Để nghiên cứu sự mở rộng về mặt hành chính đô thị trong giai đoạn từ năm 1954-1975, chúng tôi sử dụng bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận. Tuy bản đồ không để năm xuất bản nhưng căn cứ vào những thông tin được thể hiện trên bản đồ kết hợp với những tư liệu viết về hành chính Đô thành Sài Gòn trong giai đoạn này chúng tôi có thể xác định đây là bản đồ được vẽ trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1973.
Bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975
So với bản đồ Đô Thành Sài Gòn năm 1958 ở giai đoạn trước, chúng ta thấy bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975 cho thấy ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn được thể hiện khá đầy đủ trọn vẹn và chi tiết từ ranh giới Đô thành cho đến ranh giới từng quận, phường bằng những ký hiệu chú giải trên bản đồ. Sự thay đổi ranh giới hành chính được thể hiện rất rõ rệt cả về mặt địa giới cũng như số lượng đơn vị các quận hành chính trong Đô thành.
Ngày 27/3/1959, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ra nghị định số 110-NV về việc phân chia Đô thành Sài Gòn ra làm 8 quận bao gồm có quận Nhất, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám. Trong số 8 quận mới thành lập trên, chỉ có quận Nhất, Nhì, Ba là giữ nguyên so với giai đoạn trước, các quận còn lại đều được đổi tên và thay đổi về mặt địa giới hành chính. Cụ thể:
Quận Nhất: địa giới quận Nhất cũ, chia ra 4 phường: Bến Nghé, Hòa Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải.
Quận Nhì: địa giới quận Nhì cũ, chia ra 4 phường: Cầu Ông Lãnh, Chợ Bến Thành, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sỹ.
Quận Ba: địa giới quận Ba, chia ra 5 phường: Đài Chiến Sĩ, Bàn Cờ, Chí Hòa, Trương Minh Giảng, Yên Đỗ.
Quận Tư: địa giới thuộc quận Sáu cũ, chia ra 4 phường: Xóm Chiếu, Lý Nhơn, Vĩnh Hội, Bến Xà Lan.
Quận Năm: phần địa giới thuộc quận Tư cũ, phía bắc Kênh Tàu Hũ, chia ra 6 phường Trung Ương, Chợ Quán, An Đông, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ.
Quận Sáu: một phần địa giới của quận Năm cũ, chia ra 7 phường: Bình Tây, Chợ, Bình Tiên, Phú Lâm, Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ Hòa.
Quận Bảy: một phần địa giới của quận Năm cũ, chia ra 6 phường: Cây Sung, Bình Đông, Rạch Cát, Phú Định, Bến Đá, Hàng Thái.
Quận Tám: phần địa giới thuộc quận Tư cũ, phía nam Kênh Tàu Hũ chia ra 5 phường: Xóm Củi, Hưng Phú, Bình An, Chánh Hưng, Rạch Ông.
Năm 1965, Đô thành Sài Gòn có tám quận, bao gồm 54 phường, 707 khóm với tổng cộng 1.485.295 dân[1].
Ngày 15/6/1966, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương ra sắc lệnh số 100-SL/NV sáp nhập xã An Khánh, thuộc quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định vào địa phận quận Nhất Đô thành Sài Gòn. Đến đây, ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn đã được mở rộng hơn về mặt địa giới hành chính so với giai đoạn trước đó. Diện tích Đô thành tăng lên 67,53 km2 và không thay đổi đến tháng 4/1975.
Ngày 5/12/1966, chính quyền lại chia xã An Khánh ra làm 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm trực thuộc quận Nhất.
Ngày 17/1/1967, chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương ra sắc lệnh số 9SL/ĐUHC về việc thành lập quận 9 trên cơ sở 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm của quận Nhất.
Ngày 1/7/1969, Sắc lệnh số 073-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa về việc thành lập quận 10 và quận 11 trên cơ sở một số phường của các quận 3,5,6. Theo đó, địa phận quận 10 hình thành từ hai phường: Chí Hòa, Phan Thanh Giản của quận Ba và hai phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương của quận Năm.
Quận Mười Một hình thành từ phường Phú Thọ của quận Năm và ba phường: Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa của quận Sáu. Từ thời gian này Đô thành có tổng cộng 11 quận và không thay đổi cho đến trước năm 1975, chỉ có số phường trong các quận là có sự thay đổi về mặt tên gọi từ năm 1973. Những thông tin mới về tên gọi phường sau năm 1973 không được thể hiện trên bản đồ cùng với những chú giải về bưu phí nội xứ (áp dụng từ ngày 06/02/73), điện tín nội xứ (áp dụng từ ngày 01/03/72) có ghi trên bản đồ cũng là cơ sở để chúng tôi xác định bản đồ trên được vẽ trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1973.
Năm 1974, toàn bộ Đô thành Sài Gòn có tổng cộng 11 quận, với 60 phường, dân số tổng cộng là 1.825.297 người[2].
Như thế, trong giai đoạn này ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn đã được mở rộng hơn so với giai đoạn trước khi có thêm vùng đất quận 9 phía bên kia sông Sài Gòn (nay thuộc quận 2) và số lượng các quận hành chính trong Đô thành cũng tăng từ 7 quận lên 11 quận trong giai đoạn này.
Bản đồ 1988
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn vào ngày 30/04/1975, ngày 03/05/1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập trên cơ sở sáp nhập các đơn vị hành chính thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dưới đây:
Đô thành Sài Gòn gồm mười một quận. Tỉnh Gia Định gồm các quận Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh và Nhà Bè. Riêng hai quận Cần Giờ và Quảng Xuyên sáp nhập với nhau, mang tên mới là huyện Duyên Hải chuyển sang trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Thành phố Sài Gòn - Gia Định mới lập được tổ chức lại thành 18 quận (bao gồm 11 quận của Đô thành Sài Gòn và 7 xã “đô thị hóa” của tỉnh Gia Định được nâng thành quận là Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Phú Nhuận, Hạnh Thông, Thông Tây Hội (gồm cả xã An Nhơn thuộc quận Gò Vấp tỉnh Gia Định cũ), Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa, cùng 5 huyện: Củ Chi (gồm hai quận Củ Chi và Phú Hòa nhập lại); Bình Chánh (gồm quận Bình Chánh, hai xã: Vĩnh Lộc và Bình Hưng Hòa của quận Tân Bình cũ và xã Bình Lợi là phần đất cắt từ xã Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa cũ, sáp nhập với nhau); Hóc Môn (gồm quận Hóc Môn và hai xã
An Phú Đông, Thạnh Lộc của quận Gò Vấp cũ sáp nhập); Nhà Bè (gồm cả xã Hiệp Phước thuộc quận Cần Giuộc tỉnh Long An cũ) và Thủ Đức. Dân số thành phố Sài Gòn - Gia Định vào tháng 5/1975 theo thống kê của chính quyền thành phố là 3.498.120 người[3].
Ngày 20/05/1976, tổ chức hành chính thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai, 18 quận nội thành được chuyển thành 12 quận mới gồm: 1 (sáp nhập quận Nhất và quận Nhì), 3, 4, 5, 6, 8 (sáp nhập quận Bảy và quận Tám), 10, 11, Bình Thạnh (sáp nhập hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây), Phú Nhuận, Gò Vấp (sáp nhập Hạnh Thông và Thông Tây Hội), Tân Bình (sáp nhập Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa), riêng quận 9 giải thể, chia thành hai xã Thủ Thiêm và An Khánh nhập vào huyện Thủ Đức và gọi là xã.
Ngày 02/07/1976 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 29/12/1978 huyện Duyên Hải, tỉnh Đồng Nai được chuyển giao cho Thành phố Hồ Chí Minh và sau đó đổi tên lại thành huyện Cần Giờ (1991).
Như vậy, toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định có 12 quận nội thành và 6 huyện ngoại thành với diện tích 2.095,01 km2. Từ đây, diện tích toàn thành phố luôn giữ ổn định và không có sự mở rộng về mặt địa giới hành chính cho tới nay mà chỉ có sự mở rộng ở khu vực nội thành với việc thành lập thêm nhiều quận mới lấn ra các huyện ngoại thành. Quá trình này thay đổi qua từng thời kỳ của thành phố theo quá trình đô thị hóa. Có thể hình dung khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh đến trước tháng 4/1997 qua bản đồ sau.
Bản đồ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988
Bản đồ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 cho thấy rõ sự mở rộng về mặt ranh giới hành chính đô thị so với Đô thành Sài Gòn trước năm 1975. Phần diện tích mở rộng bao gồm toàn bộ diện tích các quận Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp. Tuy vậy, phần diện tích quận 9 thuộc Đô thành Sài Gòn trước đây cũng không còn được thể hiện trên bản đồ khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh do đã được trả về cho huyện thủ Đức.
Bản đồ 2003
Ngày 06/01/1997, với Nghị định số 03/CP của Chính phủ về việc thành lập các quận, phường mới ở Thành phố Hồ Chí Minh thì thành phố đã có thêm 5 quận mới bao gồm:
Quận 2 trên cơ sở tách các xã An Khánh, An Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm và một phần xã Bình Trưng của huyện Thủ Đức,
Quận 9 trên cơ sở tách các xã Long Bình, Long Trường, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, Phú Hữu và một phần bốn xã Bình Trưng, Phước Long, Tân Phú và Hiệp Phú của huyện Thủ Đức,
Quận Thủ Đức là phần còn lại của huyện Thủ Đức cũ, gồm Thị trấn Thủ Đức, các xã Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Tam Bình, Tam Phú và một phần ba xã Phước Long, Tân Phú và Hiệp
Phú),
Quận 7 trên cơ sở tách các xã Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Phú Mỹ và một phần thị trấn Nhà Bè của huyện Nhà Bè,
Quận 12 trên cơ sở tách các xã Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, An Phú Đông và một phần hai xã Trung Mỹ Tây và Tân Chánh Hiệp của huyện Hóc Môn.
Ngày 05/11/2003, với Nghị định số 130/2003/NĐ-CP, ranh giới nội thành tiếp tục được mở rộng ra khi có thêm 2 quận mới là Tân Phú (trên cơ sở tách các phường 16, 17, 18, 19, 20 và một phần hai phường 14 và 15 của quận Tân Bình và Bình Tân trên cơ sở tách các xã Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc của huyện Bình Chánh.
Như vậy, từ tháng 11/2003 đến nay Thành phố Hồ Chí Minh có hai mươi bốn đơn vị hành chính trực thuộc gồm 19 quận nội thành (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Tân, Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận, Tân Bình, Tân Phú, Thủ Đức) và 5 huyện ngoại thành (Bình Chánh, Cần Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè).
Quá trình mở rộng địa giới hành chính đô thị Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra liên tục qua các thời kỳ lịch sử. Từ một thành phố Sài Gòn được thành lập dưới chế độ thuộc địa buổi ban đầu chỉ với 25km2 đến nay khu nội thành Thành phố Hồ Chí Minh đã được mở rộng ra với diện tích 442,13km2 (chỉ tính trong phạm vi các quận nội thành) trở thành đô thị lớn thứ 2 cả nước. Việc mở rộng địa giới hành chính trên cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của một đô thị mới chỉ 300 năm tuổi nhưng đã được khẳng định trong quá khứ như là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Và với xu hướng hiện nay khi mà huyện Bình Chánh cũng đã đề xuất với UBND TP.HCM và Bộ Nội vụ nâng cấp Bình Chánh từ huyện thành thị xã, địa giới hành chính đô thị Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được mở rộng theo hướng “dãn nở” ra các huyện ngoại thành tạo ra nhiều trung tâm, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước và công tác quy hoạch, quản lý đô thị trên địa bàn.
Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, bài viết
1. Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và ranh giới hành chính, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2003.
2. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Gia Định, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1994.
3. Nguyễn Thanh Lợi, “Địa lý hành chính Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh” trong Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước con đường Cách mạng tháng Tám 1945-2005, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005.
4. Nguyễn Đình Tư, “Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử” trong Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP.HCM, 2007.
5. Nhiều tác giả, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh 300 năm địa chính, Sở Địa chính Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
6. Trần Văn Giàu (chủ biên), Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình, Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 1987.
7. Website: http://saigon24h.vn.
8. Website: http://vi.wikipedia.org.
Các bản đồ
1. Plan de la ville de Saigon – Cochinchine 1867.
2. Plan de la ville de Saigon (Cochinchine) 1878.
3. Plan topographique 20è Arrondissement et ses environs 1882.
4. Saigon, Cholon et leurs environs 1897.
5. Plan de Saigon – Cholon 1923.
6. Plan de Saigon – Cholon 1942.
7. Đô thành Sài Gòn 1958.
8. Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975.
9. Nội thành Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh 1988.
10. Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003.