TỪ SINGAPORE NHÌN LẠI VIỆT NAM
Nguyễn xuân Sanh
Đầu tháng 7 vừa qua tôi và gia đình vừa đi chơi Singapore một tuần nhân con chúng tôi nghỉ hè. Đây là lần đến thăm Singapore sau hơn 10 năm.
Chúng tôi được gặp các anh Vũ Minh Khương và Giáp Văn Dương tại nhà riêng trong một buổi cơm tối và trò chuyện thân mật. Những ngày còn lại cả gia đình tôi đi tham quan, đi đến rã cả chân. Singapore không mất đi vẻ thu hút mãnh liệt đối với tôi. Tôi xin ghi lại vài ấn tượng và suy nghĩ gửi đến các bạn, và cũng như từ góc độ Singapore tìm hiểu xem tại sao Trung Quốc như thế mà Việt Nam không như thế…
Chắc các bạn ít nhiều đã đến Singapore.
Một người bạn tôi từ Canada bảo những năm đầu 80 anh ấy đến Singapore vì công việc, mỗi lần đến đó thì tâm hồn “tan nát” khi nghĩ đến hoàn cảnh Việt Nam. Singapore chỉ cách Sài gòn 1,45 giờ bay, giống như Hà nội. Thế mà sao sự khác biệt lại kinh khủng thế? Ai xây thành phố nhà nước này?
Singapore có nhiều chủng tộc chủ yếu Hoa, Malaysia và Ấn. Nhưng cả thành phố không hề có vẻ châu Á chút nào, mà nó “Tây” một trăm phần trăm, trừ những khu Tàu, khu Ấn nhỏ truyền thống vẫn còn tiếp tục hoạt động.
Một thành phố phủ xanh thông minh và khoa học. Cái cảm giác đầu tiên là đường phố rất rộng, mật độ đường phố rất lớn, trong khi diện tích của đảo quốc rất nhỏ, chỉ 694km2, xe cộ chạy liên tục không kẹt lúc nào (có lẽ cũng kẹt đôi chút vào những giờ cao điểm), rất thông thoáng, không hề nghe tiếng còi xe inh tai như ở Việt Nam. Trong khi đó TP HCM có diện tích 2,095 km2 gấp hơn 3 lần Singapore, đường sá lại rất chật hẹp, mật độ đường lại quá nhỏ. Ô tô ở Singapore chạy vù vù như mắc cửi, giống như trong trò chơi đu quay nhào lôn trên không (roller coaster) rất nhanh, đến 100km/ giờ trong trung tâm, 120 km ngoài trung tâm. Ai chưa quen tốc độ sẽ sợ hãi; nhưng một hồi rồi thấy mọi người đều lái rất đúng luật, chính xác và an toàn. Hệ thống đường giao thông của Singapore là 3D, trong khi hệ thống đường giao thông ở Việt Nam chỉ là 2D, hay bị tắc nghẽn nặng nề vào những giờ cao điểm. Tôi cho ai thiết kế hệ thống đường giao thông của Singapore là rất thông minh, và không phải dễ thiết kế được hệ thống đường sá như thế. Hệ thống đường giao thông giống như hệ thống các mạch máu chằng chịt lan toả khắp nơi để đưa máu nhanh chóng đến tất cả các bộ phận cơ thể. Chưa nói đến hệ thống tàu điện ngầm MRT, hệ thống xe buýt của Singapore rất hữu dụng. Không có một hệ thống giao thông thông minh như thế, thì không thể có được thành phố hiện đại, trung tâm tài chính, thương mại. So với cơ sở hạ tầng của Singapore, thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam quả là còn thô sơ.
Cảm giác thứ hai là toàn bộ thành phố đều được phủ xanh một cách rất thông minh và khoa học. Không có một tấc đất nào của Singapore mà không có sự chăm sóc của bàn tay con người; không có khái niệm “đất hoang” ở đây. Họ có rất nhiều chủng loại cây thích hợp cho thành phố, và họ trồng cây xanh nhiều tầng như rừng nhiệt đới, tạo nên mảng thiên nhiên dầy đặc khắp nơi. Cây đẹp, tàn to tạo bóng mát nhưng không quá cao gây nguy hiểm như các loại cây sao Pháp đã trồng lâu đời ở Việt Nam. Người ta có ngay cảm tưởng dễ chịu khi ra khỏi phi trường, rằng mình đang sống trong thành phố công viên tươi mát có bàn tay thiết kế và chăm bón tuyệt diệu của con người. Phần lớn các nước châu Á không để ý đến cây xanh. Lý Quang Diệu ngay từ đầu đã có kế hoạch làm xanh cả đất nước như một chương trình lớn. Ông mời chuyên gia cây cỏ nước ngoài đến nghiên cứu thổ nhưỡng và biện pháp, gửi người đi tìm khắp những nơi có khí hậu gần giống Singapore để mang về những giống cây làm giàu cho thảm thực vật của họ. 8000 giống lạ được mang về Singapore và 2000 trong đó đã sống được.
Singapore cũng giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí rất tốt.
Công viên chim Jurong rất ấn tượng, được đặt ngay bên cạnh trung tâm công nghiệp lớn Jurong, nếu không xử lý khí thải thì mấy con chim kia chắc sẽ không sống được lâu. Cuộc xanh hóa của Singapore đã được lãnh đạo các nước lân bang “bắt chước”: Mahathir xanh hóa Kuala Lumpur, Suharto Jakarta, Marcos Manila, Thanin Bangkok, tất cả vào những năm cuối 70.
Với Các Công Trình Văn Hoá Không Chỉ Để Kiếm Tiền
Các công trình văn hóa ấn tượng của Singapore không chỉ là dành cho du khách để kiếm tiền, mà còn để giáo dục con người Singapore. Chẳng hạn như những công trình Công viên chim, Sở thú, Safari đêm, Vườn Bách thảo, Trung tâm khoa học, Lịch sử Singapore (Images of Singapore, một công trình rất ấn tượng tại khu vui chơi Sentosa) đều có tính giáo dục rất cao. Học sinh và thầy cô Việt Nam muốn học hỏi về khoa học, cây cỏ, sinh vật, lịch sử chỉ có nước qua Singapore, chứ không nơi nào ở Việt Nam có những công trình giáo dục cụ thể và qui mô như thế.
Đó là những công trình ấn tượng mà du khách có thể tham quan cả ngày, cả tuần. Thật thấy thương học sinh Việt Nam.
Vì sao với một đảo quốc nhỏ, khi tách khỏi Malaysia vào năm 1965 chỉ có 2 triệu dân (và hiện nay khoảng 3,2 triệu dân, cộng với người nước ngoài đến làm việc là 5,1 triệu), mà ông Lý Quang Diệu đã làm nên lịch sử? Thời thế tạo anh hùng, hay anh hùng tạo thời thế? Tại sao trong khoảng 2 thập kỷ thôi, ông Lý Quang Diệu đã thay đổi hẳn những tật xấu cổ truyền của các dân tộc sống trên đó như khạc nhổ, xả rác, gây tiếng ồn, tính thô bạo trong cư xử, làm ăn gian dối… để biến họ thành những người văn minh, đối xử ân cần và lịch sự với nhau? Ông đã từng bước dẹp nạn taxi dù và tệ bán hàng rong trên hè phố, đặc biệt trước các cổng trường, tệ dắt bò đi ăn vào thành phố gây tai nạn chết người, tệ đốt pháo vào ngày tết cổ truyền Trung Quốc gây thiệt hại về con người và tài sản. Xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố mới dễ hơn nhiều thay đổi thói quen cố hữu của người dân. Nhưng ông đã khôn ngoan làm được.
Lý Quang Diệu kể lại tệ khạc nhổ của người Trung Quốc.
Đó là trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của ông tại Đại sảnh đường nhân dân (Great Hall of the People) năm 1976 tại Bắc Kinh, ông nhận thấy có các ống nhổ được đặt tại các phòng họp nơi tiếp ông. Một số vị lãnh đạo đã sử dụng các ống nhổ này. Khi Đặng Tiểu Bình đến thăm Singapore năm 1978, phía Singapore đặt một ống nhổ màu trắng xanh thời nhà Minh cạnh ghế ông trong phòng họp cho ông sử dụng. Nhưng ông ta không sử dụng, có lẽ ông đã nhận ra rằng người Hoa ở Singapore đã không còn khạc nhổ nữa. Đến lần thăm tiếp của mình tại Bắc Kinh năm 1980, tức bốn năm sau, Lý Quang Diệu không còn thấy các ống nhổ đặt tại các phòng họp nữa.
Vài năm sau ông tiếp một chính khách khác của Trung Quốc đặc trách kinh tế tại Singapore, Lý Quang Diệu nhắc lại việc các lãnh đạo Trung Quốc không còn sử dụng ống nhổ nữa như một điều tốt. Nhưng vị khách này tiết lộ với ông, đó chỉ là hình thức thôi, chứ các vị lãnh đạo vẫn còn tiếp tục sử dụng ống nhổ trong phòng làm việc của họ!
Singapore vừa là trung tâm tài chánh, vừa là một điểm du lịch hấp dẫn (chưa nói đến các chức năng khác như giáo dục, công nghệ, cảng trung chuyển vùng).
Người ta chờ đợi Singapore sắp tới sẽ trở thành trung tâm quản lý tài chánh lớn nhất thế giới vượt cả Thụy Sĩ. Với số dân khiêm tốn 3,2 triệu dân, Singapore có đến gần 12 triệu khách du lịch, gấp 4 lần số khách du lịch đến Việt Nam (Việt Nam dân số trên 85 triệu, có số khách du lịch chỉ khoảng 3 triệu). Người ta bảo rằng 4 (hay 5) người khách du lịch đủ nuôi sống 1 người Singapore.
Tiêu Chuẩn Của “Thế Giới Thứ Nhất”.
Ngay từ đầu lập quốc, ông Lý Quang Diệu đã quyết tâm làm cho Singapore khác biệt các nước thế giới thứ ba một cách triệt để và nhanh chóng, và có tham vọng phải tiến lên thế giới thứ nhất.
“Một nhánh của chiến lược tôi là biến Singapore thành một ốc đảo của Đông Nam Á, bởi vì nếu chúng ta có các tiêu chuẩn của thế giới thứ nhất, thì doanh nhân và khách du lịch sẽ sử dụng đất nước chúng ta thành một bàn đạp cho hoạt động kinh doanh và các tour du lịch trong khu vực.”
Tiếp đến là phải thay đổi hẳn thói quen cổ truyền cản trở của hai triệu dân, thông qua giáo dục họ, giáo dục con cái họ trong nhà trường để có tác dụng lên cha mẹ, và thông qua luật pháp.
Để đạt được “Tiêu chuẩn của thế giới thứ nhất” (First World standards) trong một vùng của thế giới thứ ba, Lý Quang Diệu quyết định biến đất nước thành một thành phố-vườn-nhiệt đới, và phải làm cho nó “sạch và xanh” theo đúng nghĩa.
Với xanh và sạch, Singapore đã nhanh chóng gây được ấn tượng tốt mạnh mẽ cho thế giới. Không những giữ cho cảnh quang xanh, sạch, mà ông còn giữ cho chính quyền Singapore trong sạch. Trong cái bể của tham nhũng nặng nề của châu Á thì Singapore nổi lên như một hòn đảo ít tham nhũng nhất, sạch nhất. Singapore lại thể hiện một lần nữa tinh thần “thoát Á nhập Âu” mà Nhật Bản thời Minh Trị đã đi tiên phong. Việc chuyển đổi một đất nước từ thế giới thứ ba sang đất nước có tiêu chuẩn thế giới thứ nhất là không dễ. Những ý tưởng của Lý Quang Diệu lúc đầu bị xem là không tưởng. Các phóng viên nước ngoài cười chế nhạo những chiến dịch “làm tốt” của Singapore. Nhưng Lý Quang Diệu tin rằng “chúng ta sẽ là những người cười sau cùng. Chúng ta sẽ phải cam chịu trở thành một xã hội thô tục hơn, khiếm nhã hơn, thô bạo hơn nếu chúng ta không làm những nỗ lực này để thay đổi cách sống. Chúng ta chưa đạt tới mức một xã hội có giáo dục và văn minh, và chúng ta không xấu hổ ra sức trở thành một dân tộc như thế trong một thời gian ngắn nhất có thể.”
Người Cầu Học Thật Sự…
Bây giờ đến câu hỏi: Vì sao Trung Quốc làm được những kỳ tích mà Việt Nam thì không?
Thực tế, cuộc thăm viếng lần đầu tiên năm 1978 của Đặng Tiểu Bình tại Singapore là cái mốc lịch sử hết sức quan trọng cho cuộc chuyển đổi Trung Quốc. Đặng đã tận mắt nhìn những thành quả ấn tượng của mấy triệu dân Singapore cần cù, thông minh này và đã hết lời khen ngợi ông Lý Quang Diệu. Cuối chuyến đi, Đặng Tiểu Bình nói:
“Phải chi tôi chỉ có Thượng Hải thôi (dân số gấp ba hay bốn lần dân số Singapore), thì tôi sẽ có thể biến đổi nó nhanh chóng (như ông đã biến đổi Singapore). Nhưng tôi có cả một đất nước Trung Hoa !”.
Trong chuyến đi này Đặng Tiểu Bình đã nghe Lý Quang Diệu “giảng bài” về lợi hại của chủ nghĩa:
“Chủ nghĩa cộng sản chỉ thành công nếu ông tin rằng tất cả mọi người hy sinh mình cho đồng loại chứ không cho gia đình hay chính bản thân mình. Còn tôi, tôi hoạt động trên cơ sở rằng con người, trai cũng như gái, trước nhất lao động cho chính bản thân và gia đình họ, và chỉ trên cơ sở đó họ mới chia sẻ một phần thành quả lao động của họ cho những người đồng loại ít may mắn hơn. Đấy là nền tảng hoạt động của tôi.”.
Ông Lý cho rằng các nhà lãnh đạo kỳ cựu của cuộc trường chinh của Trung Quốc không hiểu gì cả về kinh tế thị trường cả, tuy cũng có thể đã đọc Adam Smith. Lý Quang Diệu nói:
“Nếu Đặng Tiểu Bình không đến đây (trong những năm 70) và thấy các tập đoàn đa quốc gia phương Tây tại Singapore tạo ra sự phồn vinh cho chúng tôi, đào tạo người của chúng tôi để rồi chúng tôi có khả năng xây dựng một xã hội phồn vinh, thì ông ấy sẽ không bao giờ (dám) mở cửa…mở cửa các Đặc khu kinh tế miền ven biển, điều cuối cùng dẫn đến việc cả nước Trung Hoa mở cửa và đi vào WTO.”.
Sự thành công của Singapore là thí dụ “bảo chứng” cho quyết định mở cửa của Đặng Tiểu Bình. Ảnh hưởng của Singapore và của cá nhân ông Lý Quang Diệu lên các nhà lãnh đạo làm chính sách của Trung Quốc là rất to lớn chưa thể đánh giá hết được. Thực tế, các thành phố mới của Trung Quốc là hình ảnh “cảm ứng” của mô hình Singapore của Lý Quang Diệu, dĩ nhiên theo cách làm riêng của Trung Quốc. Hạt giống Singapore đã được đem về trồng trên đất Trung Quốc. Singapore giúp đào tạo cán bộ, chuyên viên cao cho Trung Quốc trong cuộc chuyển đổi này. Hằng năm Trung Quốc gửi 110 – 120 thị trưởng, hay các viên chức cùng cấp, từ các thành phố của họ đến học tập một khóa từ tám đến chín tháng về quản lý công và quản lý thành thị. Họ được dạy bằng ngay tiếng Hoa. Còn gì hay bằng! Sau đó họ đi thực địa và nghiên cứu tại chỗ, và khi về nước, họ viết lại những kinh nghiệm học tập tại Singapore.
Singapore cũng có những liên doanh xây dựng một số thành phố kiểu mẫu, trong đó có thành phố sinh thái Thiên tân. Hai bên có một uỷ ban hỗn hợp họp thường niên, cấp phó thủ tướng.
Kể ra những chi tiết trên là để minh họa phần nào sự dấn thân của Singapore và Lý Quang Diệu vào Trung Quốc thế nào để giúp lãnh đạo Trung Quốc thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế và xây dựng đất nước.
Lý Quang Diệu được xem là gia sư cho giới lãnh đạo Trung Quốc, và có quan hệ rất mật thiết, hiểu biết Trung Quốc rất sâu sắc. Nhiều Tổng Thống Mỹ đã gặp Lý Quang Diệu trước, để nghe ý kiến của ông về Trung Quốc, rồi mới đến thăm Trung Quốc sau. Đối với Trung Quốc, sự hợp tác với Singapore là mưu đem lại lòng tin đối với thế giới cho công cuộc đổi mới của Trung Quốc. Còn đối với Singapore, Lý Quang Diệu giúp Trung Quốc là nhắm có được một chân trên chuyến xe tốc hành Trung Quốc vào thế kỷ 21 mà ông bảo sẽ là thế kỷ Trung Quốc. Và ông đã thú nhận đã đạt được điều đó.
Thế còn chân thứ hai của Singapore ông để ở đâu? Ở Hoa Kỳ:
“Số phận của chúng tôi không chỉ tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Johor hay Indonesia hay ở ASEAN. Nó tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Mỹ trong trật tự mới ngày hôm nay này.”.
Đi một mình với Trung Quốc ông sợ có ngày bị cọp ăn thịt mất. Còn về cách tuyển chọn nhân sự ở Trung Quốc, ông Lý Quang Diệu nhận xét rằng, sau cuộc cách mạng văn hóa, Đảng cộng sản Trung Quốc trở lại mô hình tuyển dụng của vua chúa thuở xưa: chọn lựa qua tài năng, qua học lực, sát hạch. Mỗi thí sinh đều có hồ sơ học lực từ đầu. Và sự xét duyệt để bổ nhiệm dựa trên hồ sơ đó. Cho nên thế hệ lãnh đạo sau đều được học cao hơn thế hệ trước. Bây giờ có cả những thị trưởng có bằng Ph.D, và một số trong họ có bằng MBA của các trường đại học Mỹ. Trung Quốc làm được những kỳ tích là vì lực lượng của Đặng Tiểu Bình là lực lượng đổi mới, sau khi Mao qua đời và “bọn bốn người” bị xử, lực lượng mao-ít đã cáo chung. Các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc muốn đoạn tuyệt với quá khứ của cách mạng văn hóa đã gây quá nhiều đau khổ. Đặng là người đã dám đoạn tuyệt với chủ nghĩa cộng sản, theo lời Lý Quang Diệu; và đó chính là một bước đại nhảy vọt của lãnh đạo Trung Quốc về mặt tư tưởng. Họ có kỳ vọng đưa đất nước tiến lên khỏi sự lạc hậu để thiết lập lại đẳng cấp của dân tộc đã bị mất đi hàng thế kỷ. Đằng sau họ là đống tro tàn không có gì để luyến tiếc. Trong kế hoạch đổi mới, Trung Quốc có Singapore làm mô hình để học hỏi cụ thể, và có Lý Quang Diệu làm người hướng đạo bên cạnh cho cuộc hành trình.
… Kẻ Không !
Còn Việt Nam, đặc thù tình hình đã khiến không có một lực lượng đổi mới rõ ràng nào cả. Những người cũ hôm qua tiến hành cuộc đổi mới hôm nay. Không có một sự đoạn tuyệt về tư tưởng và một sự ‘thay ca’ về nhân sự như ở Trung Quốc; quá khứ cứ mãi là ‘thiêng liêng’ và trở thành ‘điệp khúc chính trị’ thay cho nhận thức mới trong thời kỳ cần thiết có những thay đổi sâu sắc và triệt để; thiếu vắng ý chí vươn lên thật mạnh mẽ để mở đường. Cho nên đổi mới là không triệt để, nếu không muốn nói là nửa vời. Đổi mới ở Việt Nam không vì đổi mới nhằm ‘lột xác’ thực sự để đóng lại chương cũ của quá khứ và mở ra một chương mới trước tình hình mới của thế giới. Mà Đổi mới của Việt Nam nhằm bảo vệ cái cũ nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể học ở Singapore, có thể được Lý Quang Diệu giúp đỡ nhiều hơn, nhưng họ không có động cơ mạnh mẽ, vẫn còn nhìn lại phía sau để luyến tiếc. Họ không học mô hình Singapore ở ngay trước mắt và kho tàng tri thức của Lý Quang Diệu như lãnh đạo Trung Quốc đã làm.
Lý Quang Diệu cho rằng, những người lãnh đạo Việt Nam có thói quen cố hữu của ‘chiến tranh du kích’, không ai nghe ai, không tập trung, chính quy, thiếu một lãnh đạo mạnh, và họ rất nghi ngờ người nước ngoài. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, do thời cuộc bấy giờ, chưa phải là người cầu thị, ông đến Singapore sau 1975 với tư thế của người chiến thắng và người cộng sản tự hào, ông chưa thấy cái to lớn của Singapore và nhu cầu học hỏi, cái lạc hậu của khối xã hội chủ nghĩa, ông vẫn còn ảo tưởng về Chủ nghĩa xã hội trước khi đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sắp đến. Cuộc gặp gỡ đó không để lại những ấn tượng đẹp ở Lý Quang Diệu, như cuộc gặp gỡ với Đặng Tiểu Bình đã làm, chưa nói làm mích lòng chủ nhà là khác. Phải đợi mười năm sau, khi Việt Nam bị cô lập, khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới là người đến với Lý Quang Diệu với tư thế thật sự cầu thị. Và cũng chỉ lúc đó ông Lý Quang Diệu mới có cảm tình với lãnh đạo Việt Nam. Tổng bí thư Đỗ Mười, tuy không phải là người hăm hở đổi mới, nhưng cũng đã có ý muốn áp dụng một số ý tưởng của mô hình Singapore nhưng rồi người ta bàn bạc cho nó tan biến đi; chính ông đã cho dịch các bài phát biểu của Lý Quang Diệu và phổ biến đầu tiên tại Việt Nam.
Người Singapore và nước ngoài vào làm ăn gặp phải những khó khăn không đáng có. Việt Nam không muốn học hỏi cái mới thật sự, mà chỉ muốn tự biên tự diễn và tự hào về mình là chính, loại bỏ tất cả những gì mình không ưa, bị giới hạn trong tầm nhìn, khác với tinh thần đổi mới, cầu thị và sự nhìn xa của Trung Quốc. Thái độ đó tự hại mình, tự che mắt mình, giống như thái độ tự cao tự đại của vua quan Việt Nam xưa khi nhìn người nước ngoài đến muốn làm ăn với Việt Nam. Cái đuôi sam kia vẫn chưa bị xén, và vẫn cứ mọc dài ra vào thế kỷ 21 này.
Chính sách tuyển chọn nhân sự của Việt Nam cũng không dựa trên tài năng, học lực, mà chỉ dựa trên quan hệ, vây cánh, ‘tính truyền thống’, óc vâng lệnh phục tùng để chìu lòng cấp trên, và cấp trên chỉ muốn nghe những gì mình thích từ cấp dưới, hay dựa trên sự ‘mua quan bán chức’. Trong khi phần lớn các thị trưởng, tỉnh trưởng ở Trung Quốc đều là những người trẻ tuổi, học hết cấp ba, thì ở Việt Nam giới này là những người cầm quân trước đây trong quân đội.
Ông Lý Quang Diệu đề nghị với Thủ tướng Kiệt và bộ sậu của ông là nên bổ nhiệm các chiến sĩ lão thành vào các chức vụ tư vấn và đưa những người trẻ, nhất là những người trẻ có khuynh hướng mở cửa kinh tế sang phương Tây lên đảm trách công việc hàng ngày. Ông Lý Quang Diệu cho rằng, Việt Nam cần cởi bỏ ‘chiếc áo chật cộng sản’, thì họ mới tiến nhanh và linh động đến thắng lợi. Lý Quang Diệu nhìn thấy tiềm năng của người Việt Nam qua cuộc chiến tranh gian khổ, và sự thành đạt của Việt Kiều ở Mỹ và Pháp, đó phải là những điều nhắc nhở rằng dân tộc này là dân tộc có những phẩm chất tuyệt vời. Không có quyết tâm đổi mới để đưa đất nước nhanh chóng hóa rồng thì cũng sẽ không có chính sách nhân sự đúng đắn, trong sáng và phù hợp với nhu cầu. Nhân tài bị bốc hơi, bị loại khỏi sân chơi và không được lắng nghe. Ngựa giỏi đã hết trong chuồng.
Người Trung Quốc đã xóa được những hậu quả của cuộc cách mạng văn hóa, của bức tranh mà Mao Trạch Đông đã muốn vẽ áp đặt lên lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa, phục hồi lại DNA của dân tộc. Còn Việt Nam, chẳng biết DNA bốn nghìn năm văn hiến có còn nguyên vẹn hay không trước sự băng hoại nghiêm trọng và kéo dài hiện nay của xã hội? Vai trò lãnh đạo
Sau cùng tôi xin nói thêm đôi lời về Lý Quang Diệu.
Ông là một con người không phải không có tranh cãi. Nhiều người dân chủ không chia sẻ một số quan điểm của ông. Ông xem cuộc xây dựng Singapore là một “cuộc cách mạng xã hội bằng những biện pháp hoà bình”, và không bao giờ đi chệch khỏi mục tiêu đó. Ông tự nhận mình là người theo Khổng giáo:
“Tôi không bị ràng buộc bởi lý thuyết, nhưng sự giáo dục của tôi trong một gia đình kéo dài ba thế hệ làm cho tôi trở thành một người theo Khổng giáo không ý thức.
Niềm tin Khổng giáo thâm nhập vào tôi, rằng xã hội chỉ hoạt động tốt khi mọi người đều nhắm trở thành người quân tử.”.
Ông tin vào đạo ‘ngũ thường’ của Khổng tử. Từ thế giới quan này, ông đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, đặt nặng vai trò của một nhà nước mạnh và ưu việt để gìn giữ trật tự. Nhưng thành quả mới là sự biện minh cho nhà nước đó. Người ta có thể biện minh sự kiểm soát tối đa của nhà nước và sự loại bỏ đa nguyên chính trị cần thiết, vì ổn định và phát triển. Nhưng rồi người ta phải chứng minh bằng thành quả của hành động. Không có thành quả tương ứng, anh chỉ là kẻ tham quyền vô độ. Nếu quyền lực chỉ vì quyền lực, đất nước dễ rơi vào chủ nghĩa ích kỷ, bè phái, tham nhũng và lũng đoạn.
Lý Quang Diệu không xem mình là ‘soft authoritarian’ như một số người ở phương Tây xem ông, bởi vì ông có kết quả để biện minh, và kết quả là rất thuyết phục; và các chính sách của ông cứ bốn đến năm năm đều được cử tri chấp thuận lại với một đa số không dưới 60 phần trăm. Với quan niệm Khổng giáo, ông đặt nặng trách nhiệm của những người lãnh đạo:
“Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta, những tinh hoa được giáo dục theo hệ thống giáo dục Anh, chỉ xứng đáng với vị trí chúng ta bao lâu chúng ta có năng lực phục vụ xã hội.”.
Trước khi rời đại học Frizwilliam, Cambridge, Anh, nơi ông đã học bốn năm ngành luật và đã tốt nghiệp với hạng ưu để trở lại Singapore hoạt động, Lý Quang Diệu trong một bài diễn văn đã khẳng định quyết tâm sắt đá của mình:
“Chúng ta phải đạp đổ niềm tin rằng chúng ta là thấp kém và sẽ luôn mãi thấp kém so với người châu Âu.”.
Ông đã học được sự sống chung hoà bình của các chủng tộc khác nhau từ chính Thụy Sĩ để làm mô hình sống chung cho các sắc tộc của Singapore sau này. Ông tự ý thức việc làm phục vụ cho sự nghiệp của nhân dân Singapore mặc cho những lời chỉ trích:
“Điều mà giới đọc giả thế giới phương Tây không hiểu là cuối cùng tôi không quan tâm họ đánh giá tôi thế nào. Tôi chỉ quan tâm nhân dân mà tôi lãnh đạo đánh giá tôi thế nào.”.
Triều đại Lý Quang Diệu có thể cũng sẽ không vĩnh viễn. Ông nói:
“Mỗi hệ thống cần được xét lại theo thời gian. Không hệ thống nào tồn tại vĩnh viễn. Các điều kiện thay đổi, những thiếu sót trong hệ thống phát triển quá mức, lúc đó người ta cần phải xem xét lại. Anh không thể nói đó là một nguyên lý phổ quát có giá trị vĩnh cửu.”.
và
“Đó là nhiệm vụ của thế hệ hiện tại và tương lai của giai tầng lãnh đạo có nhiệm vụ thay đổi và tu chỉnh hệ thống khi xã hội và công nghệ thay đổi.”.
Dù sao Lý Quang Diệu cũng sẽ đi vào lịch sử như một “người cha lập quốc” bất tử của Singapore. Ông không tin vào Thượng đế, mà tin vào thuyết tiến hóa của Darwin. Singapore có lẽ là sự minh họa hùng hồn cho thuyết tiến hóa này: Thích nghi để tồn tại, một cách thông minh. Ông không làm nô lệ cho một ý tưởng giáo điều nào. Ý tưởng nào không phù hợp, ông vứt nó đi và tìm ý tưởng khác. Ông là một người thực dụng.
“Tôi đuổi bắt các ý tưởng, miễn là chúng đem lại kết quả. Nếu không, tôi nói, xem này, ý tưởng này có thể nghe hay đấy, nhưng thôi chúng ta hãy đi tìm cái gì khác hoạt động có hiệu quả đi”.
Đầu ông là một ‘vườn ươm ý tưởng’. Có người lý tưởng hóa ông khi nói rằng, tại miếng đất Khổng tử của ông, Plato và Machiavelli gặp gỡ nhau, và Lý Quang Diệu chính là một ‘Machiavelli châu Á’.
Về sự thành công của Lý Quang Diệu: ông có lẽ thành công là vì Singapore là mảnh đất nhỏ, dân số lúc độc lập chỉ 2 triệu người; nhưng ông chắc sẽ gặp khó khăn hơn với một đất nước dân số đông vài chục triệu người. Lực lượng đối lập và bảo thủ sẽ đông đảo và sẽ có thể loại ông ra khỏi cuộc chơi. Cũng may mắn cho ông.
Trong chừng mực này, thời cơ đã tạo anh hùng. Dĩ nhiên điều ngược lại cũng đúng.
NGUYỄN XUÂN XANH
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc . . . (Lời Mở Đầu Của Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ)
Friday, April 6, 2018
Thiên mệnh Việt, cuốn sách sau 49 ngày thiền của Đặng Lê Nguyên Vũ viết gì?
02/04/2018
Việc lên rừng núi hoang dã M’drak, nhịn ăn 49 ngày của Đặng Lê Nguyên Vũ là để suy nghĩ và hoàn thành cuốn “Thiên mệnh Việt”. Tức là kịch bản cho một nước Việt hùng cường, vĩ đại.
Khi tôi đến M’drăk, Đắk Lắk, thì ông vua cà phê đã nhịn ăn đến ngày thứ 34 cùng một nhóm gần chục người, trong đó có nhà văn Lưu Trọng Văn.
Cú điện của cháu gái nhà văn Lưu Trọng Văn khiến tôi hộc tốc lên M’drăk xem “tình hình đã như thế nào”. Nội dung người cháu thông báo là: “Cả anh Vũ lẫn chú Văn đã bắt đầu lả đi, chú Văn đến giờ đã bị tụt 8 kg. Hôm nào anh lên cho em gửi cho chú Văn một ít thuốc. Chú Văn bảo ngồi thiền bị kiến rừng đốt”.
Rồi cô bé gửi cho tôi một túi nhỏ, trong đó có lọ dầu và tuýp thuốc bôi chỗ côn trùng cắn. Hôm sau, anh Nguyễn Công Khế – Chủ tịch Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên và tôi kết hợp chuyến công tác Ninh Thuận, đi xe thẳng luôn lên M’drăk thăm ông Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên.
Tôi biết đến cuộc “tuyệt thực” này trong lần ngồi trò chuyện cùng Đặng Lê Nguyên Vũ và anh Nguyễn Công Khế từ giữa tháng 11-2013. Anh Vũ cần một khoảng thời gian tịnh tâm, thiền và nhịn ăn trong 49 ngày để tinh thần minh mẫn, nghĩ những việc lớn. Thực phẩm duy nhất của cuộc “trường chinh” này chỉ là món nước mè đen.
Anh làm thật. Lần đầu lên M’drăk nhịn ăn, thiền được khoảng 1 tuần lại có việc bất ngờ phải trở về thành phố. Khi trở lên phải làm lại từ đầu. Cùng đi với ông vua cà phê là một nhóm quãng chục người, mỗi ngày họ thiền hai lần vào buổi sáng và tối, từ 5 – 7 giờ.
Chuyến bay của Vietnam Airlines đưa chúng tôi đáp xuống phi trường Cam Ranh. Một chiếc Lexus 470 sơn màu cà phê được ông chủ Trung Nguyên điều đến đón cả nhóm. Hành trình đầu tiên là ghé thăm dự án nghỉ dưỡng 27 hecta của Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên đẹp mê hồn tại Vịnh Vĩnh Hy, Ninh Thuận.
Vài năm trước, một nhân vật có máu mặt ở Hollywood đã tìm đến đây để khai thác dự án này. Tuy nhiên, lúc bấy giờ cơ sở hạ tầng chưa có, đường xá chưa mở nên quý ngài từ Hollywood phải ngậm ngùi chia tay bãi biển cát trắng muốt ẩn mình trong cái vịnh đẹp nhất Việt Nam, nước xanh như ngọc.
Trở về Nha Trang dùng bữa cơm tại Vinpearl do tỉ phú đô la Phạm Nhật Vượng chiêu đãi với đủ loại sơn hào hải vị, cả nhóm lên đường trực chỉ M’drăk, lúc này đã quá 10 giờ đêm. Trên đường đi, cậu tài xế luôn miệng phải trả lời những câu hỏi về 34 ngày qua của Đặng Lê Nguyên Vũ. Cả nhóm đặc biệt ấn tượng với câu chuyện về một anh chàng mập mạp trong nhóm sau hơn 1 tháng nhịn ăn ngồi thiền thì cái thùng nước lèo to oạch của anh dần dần biến mất.
12 cây số vòng vo qua đèo Phượng Hoàng, Đắk Lắk đón chúng tôi bằng tiết trời tê tái: 12 độ C. Nơi Đặng Lê Nguyên Vũ ở là trang trại 600 hecta. 0g30, chiếc Lexus đi qua bốt gác trang trại, gập ghềnh trên con đường đất đỏ, lắt léo như đường đua địa hình, xuyên qua những cánh rừng Tây Nguyên và dừng trước một ngôi nhà sàn lớn.
Lấy tay đẩy cánh cửa nhà sàn, trước mắt tôi hiện ra như một doanh trại quân đội. Khoảng 20 chiếc giường đơn kê làm 2 dãy, dễ dàng nhận thấy 4 chiếc giường dành cho 4 chúng tôi thông qua “tín hiệu” là một cái chăn, một cái gối, một cái mùng, bàn chải đánh răng và một cái khăn mặt đặt sẵn trên tấm nệm. Bên cạnh mỗi giường là một cái bàn nhỏ, có ổ cắm điện. Giữa nhà sàn là một dãy bàn dài để đọc sách. Chỉ có một chút hơi thở của đất Sài Gòn tại đây là một bộ phát wifi.
“Úi trời ơi thằng Vũ nó cho mình đi bộ đội” – anh Khế thốt lên, răng khua lập cập. Cả nhóm không lường được cái lạnh của Tây Nguyên nên không ai mang áo ấm. Không có nước uống, cậu tài xế hì hục đi đâu đó, 15 phút sau khiêng về một bình nước 20 lít.
Cả đám không dám đi đâu vì xung quanh trời tối mịt, toàn thấy rừng và vực sâu. Đầu giường, gió rừng rít vù vù. Tôi ghé mắt nhìn qua vách, ánh trăng mờ mờ thì dường như là một con sông, ngay đầu nằm. Cả nhóm thay quần áo, với bàn chải, khăn mặt trên giường đi súc miệng rồi leo lên giường. Nệm lạnh ngắt, phải mất hơn nửa giờ, chỗ nằm mới tạm âm ấm nhờ hơi nóng cơ thể toát ra. Một giấc ngủ chập chờn, đầy mộng mị để cảm được thế nào là hơi thở núi rừng.
Buổi sáng cuối đông M’drak, Đắk Lắk nơi những dãy núi hùng vĩ dắt díu bồng bềnh sương mù bao bọc quanh thung lũng và hồ nước dập dờn bờ lau trắng còn vảng vất tiếng hát của Y Moan chàng ca sĩ Ê đê “Ơi, M’drak”. Đặng Lê Nguyên Vũ im lặng một lúc, đột ngột đứng lên rồi đột ngột cầm quả địa cầu và quay ngược quả địa cầu xuống.
Ông nói: “Đất Bắc trời Nam” là “tượng trời” đã định của nước Việt, tộc Việt. Nếu lật ngược quả địa cầu, Việt Nam hướng trọn tầm nhìn về phía trời Nam ấy theo quy luật mà Tạo hóa đã ấn định. Để xuôi, Việt Nam luôn thấy Trung Quốc là khối núi lừng lững đè lên mình. Lật ngược, Trung Quốc trở thành cái đế vĩ đại cho Việt Nam vươn lên, cất cánh.
Nói rồi ông chủ Trung Nguyên đến bên tượng Thành Cát Tư Hãn, người từng với vó ngựa chinh phục cả đế chế Trung Hoa hùng mạnh, cả châu Âu vĩ đại. Nhìn thẳng vào đôi mắt kẻ chỉ lim dim đầy thách thức khinh mạn của Thành Cát Tư Hãn, ông cười lớn: “Có đúng vậy không, thưa Ngài?”.
Cái tư duy đảo ngược tầm nhìn này khác với cái tư duy của một triết gia phương Tây: Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy cả trái đất. Chưa dừng lại ở những huyệt cốt tử bí ẩn của Tạo hóa đã gieo, đã cấy, đã gài cho tộc Việt gọi là “ấn dấu tượng trời”, Đặng Lê Nguyên Vũ dẫn tôi đến bên bức vách có treo tấm bản đồ Việt Nam có một vòng tròn quây bọc xung quanh hiện rõ chữ S của nước Việt như biểu tượng Thái cực, Âm Dương trong cái vòng tròn ấy.
Đặng Lê Nguyên Vũ bảo, hình ảnh này là duy nhất trên bản đồ hơn 200 quốc gia trên thế giới. Hình chữ S – biểu tượng Thái cực, Âm Dương này không phải tự dưng mà có. Đặng Lê Nguyên Vũ nhấp ly cà phê, khẽ buông lời nói mà tôi cảm nhận hình như không phải chỉ là lời nói của ông mà còn của ai khác. Ai khác ấy, lúc ấy tôi chưa cảm nhận được. Nhưng lời nói đã buông là thế này: Thiên mệnh.
Bây giờ thì tôi đã hiểu rằng vì sao trong nhiều năm trời khi mà công việc kinh doanh của Tập đoàn cà phê Trung Nguyên đang trải qua nhiều thử thách bởi muốn ra biển lớn, ông vẫn dành hầu hết thời gian, thể xác, thể hồn của mình để hoàn thành bộ sách có tên là “Thiên mệnh Việt”.
Cách đây 5 năm cũng tại M’drak này, Đặng Lê Nguyên Vũ đã mời hơn 30 chuyên gia ở nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, chính trị, trong 3 ngày liên tục bàn thảo kịch bản phát triển cho nước Việt. Ông từng nói: Dù thể chế nào cũng cần một kịch bản phát triển đúng đắn. Và, một kịch bản như thế đã được gửi lên lãnh đạo quốc gia. Nhưng “Thiên mệnh Việt” lại ở một tầm nhìn khác. Bắt đầu từ “thuyết hội tụ” Đặng Lê Nguyên Vũ muốn qua “Thiên mệnh Việt” tìm ra công thức sức mạnh của quốc gia Việt. Theo ông, quốc gia Việt chỉ có thể hội tụ, đoàn kết thành một sức mạnh vô biên nếu cùng có cội nguồn chung, nguy cơ chung và tương lai chung.
Trong cuốn “Thiên mệnh Việt” Đặng Lê Nguyên Vũ đã phân tích và đúc kết các bài học thành công và thất bại của Việt Nam cũng như của thế giới, đồng thời vạch ra cương lĩnh phát triển quốc gia trên các trụ cột cốt lõi hài hòa giữa tâm linh, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục. Ông đã đẩy sâu hơn phong trào “Tuổi trẻ khát vọng Việt” do ông khởi xướng cùng các cuộc diễn thuyết của ông tại các diễn đàn cho tuổi trẻ thành lý luận “Công thức thành công” cho một quốc gia.
Theo ông, công thức đó là mọi công dân Việt phải có được:
Tinh thần chiến binh
Tinh thần doanh nhân
Tinh thần sáng tạo.
Trong “Thiên mệnh Việt” ông còn đẩy xa hơn khi đặt tâm thế nước Việt và vai trò Việt trong bình diện không chỉ khu vực mà toàn cầu.
Tinh thần chiến binh
Tinh thần doanh nhân
Tinh thần sáng tạo.
Trong “Thiên mệnh Việt” ông còn đẩy xa hơn khi đặt tâm thế nước Việt và vai trò Việt trong bình diện không chỉ khu vực mà toàn cầu.
Tôi hỏi ông Vũ: Cuốn “Thiên mệnh Việt” ông đã hoàn thành, tức là kịch bản cho một nước Việt hùng cường, vĩ đại ông đã viết xong, vậy vì sao ông còn lên rừng núi hoang dã M’drak này, nhịn ăn 49 ngày để tìm cái gì?
Trước khi trả lời câu hỏi, Đặng Lê Nguyên Vũ dẫn tôi vào thư viện. Ông bảo: M’drak là nơi tôi thường xuyên lui về để… nghĩ. Tại đây có những cuốn sách về… “nghĩ”. Tôi bắt gặp ở đây những cuốn sách về Hery David Thoreau cùng các gạch chân đậm của ông Vũ dưới câu nói của Thoreau: Hãy đặt lẽ phải lên trên luật pháp. Lẽ phải là lẽ thuận của Trời, luật pháp chỉ là lẽ của thế lực người dùng để cai trị. Tôi nghĩ rằng đứng về phía Thượng đế – lẽ Trời là đủ rồi, và một người theo lẽ phải, tự mình đã là một đa số rồi.
Đặng Lê Nguyên Vũ nói: Sau này Gandhi lãnh tụ tinh thần của Ấn Độ cũng nói câu này: “Một người theo lẽ phải tự mình đã là đa số”. Ông Vũ nói: Theo Thoreau, chính phủ tốt là chính phủ không cai trị gì cả. Tôi thấy Thomas Jefferson của Mỹ không dám nói “không cai trị gì cả” mà thận trọng hơn khi xê dịch thành “một chính phủ tốt là chính phủ ít cai trị”.
Trên cuốn sách về cuộc đời Hitler, dưới câu của Hitler về phương pháp tuyên truyền: Cứ nói dối thật nhiều những điều to tát nhất, mọi người sẽ tin vì cái lẽ người ta chỉ quen nói dối vụ nhỏ không thể tin cái điều nói dối to lớn kia là lời nói dối được. Ông Vũ ghi: Phải chăng lời “chỉ dạy” này của Hitler đã được không ít kẻ hậu thế làm theo. Thật đau đớn và tủi hổ cho dân tộc nào phải sống trong sự lừa mị, dối trá….
Trên cuốn sách về cuộc đời Hitler, dưới câu của Hitler về phương pháp tuyên truyền: Cứ nói dối thật nhiều những điều to tát nhất, mọi người sẽ tin vì cái lẽ người ta chỉ quen nói dối vụ nhỏ không thể tin cái điều nói dối to lớn kia là lời nói dối được. Ông Vũ ghi: Phải chăng lời “chỉ dạy” này của Hitler đã được không ít kẻ hậu thế làm theo. Thật đau đớn và tủi hổ cho dân tộc nào phải sống trong sự lừa mị, dối trá….
Tôi ngạc nhiên khi trong tủ sách “nghĩ” của ông Vua cà phê, một nhà kinh doanh ở tuổi 40 này có nhiều sách về các nhà khoa học, cùng luận thuyết thiên văn, vật lý. Trong cuốn sách của Copenich, Đặng Lê Nguyên Vũ tâm đắc với câu nói của nhà thiên văn đại tài này: Không có thuốc gì của người đời chữa được vết cắn của kẻ nói xấu. Trong cuốn nghiên cứu về nhà bác học Einstein, ông thích thú câu: Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí.
Tôi được nghe kể từ nhỏ Đặng Lê Nguyên Vũ đã rất mê đọc sách, khi sống với bà ngoại tại Khánh Hòa, bà ngoại sợ cháu mình thức khuya quá, bắt cháu ngủ sớm, cậu bé Vũ đã chui vào chăn ấm, đốt đèn dầu đọc sách, sớm ra hai lỗ mũi đen kịt vì khói. Ông bảo: Hồi nhỏ vớ được cuốn nào là đọc, thượng vàng hạ cám. Bây giờ đọc những cuốn sách của các triết gia, các nhà khoa học, các Kinh Thánh, Kinh Phật, Tin lành, sách các danh nhân, sách về các quốc gia phát triển, các lý thuyết, học thuyết… là để tìm ra con đường cho mình.
Ông Vũ đọc sách để khảo sách và đối thoại với các nhân vật lịch sử. Ông nhờ nhà điêu khắc Lê Liên tạc gần 50 bức tượng các danh nhân đặt trong thư phòng. Ông thường xuyên “đối thoại” với các danh nhân ấy. Với Machiavelli ông không đồng tình với lý thuyết gia người Ý này khi ông ta cho rằng “bí quyết thành công là biết coi thường mọi động lực khác, chỉ chú trọng đến lòng tham và sự ích kỷ” vì ông nghĩ ngược lại, bí quyết của thành công chính là khát vọng. Chính vì vậy ông đem nguồn lực kinh tế của Trung Nguyên đóng góp cho phong trào “Khát vọng Việt” trong tuổi trẻ với việc in và quảng bá những cuốn sách nói về “khát vọng”.
Khi Adam Smith đẩy thêm luận điểm của Machiavelli: Chính lòng vị kỷ của cá nhân sẽ đưa tới sự trù phú của xã hội. Quốc gia trở nên phồn thịnh hơn nếu mọi người không ngừng nỗ lực để cải thiện sinh hoạt của riêng mình. Chúng ta phải kêu gọi không phải lòng nhân từ mà kêu gọi lòng ích kỷ của con người.
Đặng Lê Nguyên Vũ cho rằng: Các lý thuyết trên đều mang tính thực dụng. Con người có lòng tham, lòng ích kỷ đó là sản phẩm lỗi của Tạo hóa. Tạo hóa không muốn có sản phẩm lỗi ấy. Chính từ cái gốc sản phẩm lỗi này đã dẫn đến tác phẩm “Giấc mơ Trung Quốc” của học giả Lưu Minh Phúc đã làm ông suốt nhiều đêm trăn trở, lo nghĩ. Bởi cái “Giấc mơ Trung Quốc” ấy nếu được thực hiện dựa trên nền tảng của những sản phẩm lỗi thì đất nước Việt, dân tộc Việt sẽ phải gánh chịu biết bao trở lực trên con đường vượt lên, phát triển theo “Thiên mệnh Việt” của mình. Tôi ngạc nhiên khi ông Vua cà phê dành nhiều tâm sức hơn cả để nghiên cứu tư tưởng của Einstein. Không phải tự dưng ông nhắc đi nhắc lại câu nói của Einstein : Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí.
Đặng Lê Nguyên Vũ dẫn tôi ra gốc đa, nơi mỗi buổi sớm lúc gà vừa gáy mớ, mặt trời chưa kịp lên và mỗi chiều khi mặt trời chưa kịp tắt, ông một mình ngồi thiền. Dưới bóng cây đa cổ thụ này, Đặng Lê Nguyên Vũ như là một con người của thế giới khác.
Nhà văn Lưu Trọng Văn người cùng tham gia cuộc nhịn ăn 49 ngày vừa từ dưới hồ lên trông ông như “dát mỏng” ra vì như ông nói bị mất gần chục kilo.
Lúc tôi lên M’drak, Đặng Lê Nguyên Vũ đã nhịn ăn được 30 ngày, khuôn mặt ông hốc hác đi làm đôi mắt to của ông như trồi ra làm đôi con ngươi như muốn bứt bung khỏi hai hốc mắt. Gió từ dãy núi phía tây bắc thổi mạnh, lá đa xào xào, hình như chỉ chờ cho gió lặn hẳn, Vũ mới thong thả nói: Anh hỏi tôi 49 ngày nhịn ăn, thiền định dưới bóng đa này để tìm cái gì ư? Einstein trước khi mất đã buồn bã nói: “Cả cuộc đời ta, ta sẽ chết yên lòng nếu biết được phép mầu nhiệm Chúa đã tạo ra vũ trụ thế nào?”. Einstein đã làm ra thuyết tương đối tiệm cận đến câu trả lời sinh mệnh kia. Theo Einstein người ta có thể đuổi theo kịp quá khứ và sinh ở tương lai nếu có tốc độ vượt ánh sáng. Có nghĩa là Einstein bằng cảm nhận thiên tài duy nhất của mình đã nhận ra hơi thở quá khứ hầm hập thổi phía sau và ông hy vọng sẽ có một nguồn nặng lượng tạo ra tốc độ vượt tốc độ ánh sáng để đuổi kịp quá khứ. Và cảm nhận thiên tài của Einstein còn ở chỗ, ông cho rằng thời gian là một chiều của không gian. Có nghĩa là không gian có bốn chiều mà thời gian chính là chiều thứ 4. Ông khát khao thâm nhập vào chiều thứ 4 ấy.
Tôi hỏi Đặng Lê Nguyên Vũ: Phải chăng chính ông đang tìm con đường thâm nhập vào thời gian – không gian chiều thứ 4 ấy? Đặng Lê Nguyên Vũ im lặng một lúc rồi đột nhiên đọc câu thơ mà “sách sử cõi đời” bảo là của Lý Thường Kiệt, còn “sách sử cõi đạo” bảo là của thiền sư Pháp Thuận:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Đặng Lê Nguyên Vũ nói: Thiên thư là sách trời. Có cuốn sách trời đó không? Nếu có thì chắc chắn cái câu hỏi của Einstein sẽ được giải đáp vì nó chính là kinh của các bộ kinh, vì nó sẽ lý giải sự hình thành của vũ trụ và quy luật của vũ trụ tức cách thức như Einstein bảo “Chúa tạo ra vũ trụ thế nào”.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Đặng Lê Nguyên Vũ nói: Thiên thư là sách trời. Có cuốn sách trời đó không? Nếu có thì chắc chắn cái câu hỏi của Einstein sẽ được giải đáp vì nó chính là kinh của các bộ kinh, vì nó sẽ lý giải sự hình thành của vũ trụ và quy luật của vũ trụ tức cách thức như Einstein bảo “Chúa tạo ra vũ trụ thế nào”.
Vậy Đặng Lê Nguyên Vũ sẽ tìm cuốn Thiên thư ấy ở đâu? Phải chăng ở chính sự im lặng dưới bóng cây đa cổ thụ, giữa sự im lặng rừng rú hoang dã này? Ông bộc bạch: Cuộc đời tôi giờ chẳng thiếu gì. Tôi muốn bất cứ gì cho tôi, cho gia đình tôi, đều có. Vậy tôi bỏ tất cả lên đây để làm gì?
Qua tìm hiểu và có độ lùi thời gian để quan sát, trải nghiệm thực tiễn tôi dần dần hiểu rõ hơn cái lý của cuộc tìm kiếm mà trong câu chuyện cổ tích “Alibaba và 40 tên cướp” có câu niệm chú “Vừng ơi mở cửa ra!”. Hạt vừng chính là hạt mè mà cả đức Phật và đức Chúa Jesu dùng làm năng lượng trên đường chinh phục đức tin nhân loại. Lúc này nó cũng chính là năng lượng giúp cho ông vua cà phê có thể vượt qua thử thách trước mắt 40 ngày nhịn ăn – 40 tên cướp.
Còn “vừng ơi mở cửa ra” kho báu ấy là gì? Chính là “Khí” trong cơ thể con người, chính là nguồn năng lượng của chính bản thể con người. Tuy vậy, dù có thể tiếp cận được nguyên lý nào đó của cuộc chinh phục mà Đặng Lê Nguyên Vũ trải nghiệm nhưng tôi chưa hiểu được sự liên quan nào đó tới “Thiên thư” và tới cái sức mạnh nào có thể giúp Đặng Lê Nguyên Vũ một mình lặng lẽ trong màn đêm hãi hùng trước cái sống và chết để dấn thân thâm nhập vào không gian chiều thứ 4 bí hiểm?
Tôi phải nói “một mình” vì Đặng Lê Nguyên Vũ là người duy nhất trong 12 người tham gia cuộc trải nghiệm đã chuẩn bị rất kỹ và đầy tính toán thời điểm, địa điểm, theo vận hành của Khí này, có được sự dẫn dắt, nói đúng hơn, có được sự chọn lựa và đủ đức tin mãnh liệt, đủ lòng dũng cảm để vượt qua những thử thách có thể nói rất khốc liệt của cõi mê, cõi tỉnh, của cõi ảo, cõi hiện trong vận hành bí hiểm của Khí trời, Khí đất do Tạo hóa quần tụ.
Vì sao Đặng Lê Nguyên Vũ lại là người được “chọn lựa” và đấng nào là “người chọn lựa” là một “huyền bí” như Einstein đề cập, chắc chắn sẽ có ngày được giải mã. Nhà văn Lưu Trọng Văn người theo sát tiến trình trải nghiệm của ông Vua cà phê thổ lộ: Đặng Lê Nguyên Vũ với sự dấn thân, chấp nhận mất mát tất cả, thậm chí có thể mất chính sự sống của mình trong màn đêm đầy vô thức của Tạo hóa để tự mình lần mò, tìm kiếm chính… mình.
Kinh dịch mà Đặng Lê Nguyên Vũ coi là bộ kinh của mọi bộ kinh và cũng chính là Thiên thư” chỉ khi “khảo” được nó thì mới biết được sự tạo lập vũ trụ và quy luật vận hành vũ trụ thế nào. Và Kinh dịch đã phán rằng “Vô cực sinh Thái cực”, Thái cực chính là “Khí”, đồng nghĩa Tạo hóa chính là Khí. “Thái cực sinh lưỡng nghi” (tức âm dương), “lưỡng nghi sinh tứ tượng” (tức bốn phương Nam, Bắc, Tây, Đông), “tứ tượng sinh bát quái” (tức 8 hướng). Thâm nhập vào thế giới của “Khí” chính là thâm nhập vào chính Tạo hóa. Tiếc rằng con người từ khi sinh ra đã được hưởng “Khí” miễn phí nên không biết quý, không biết dụng, thậm chí còn ngu xuẩn làm ô tạp món quà vô giá này của Tạo hóa.
Sau này tại Sài Gòn, tôi hỏi nhà văn Lưu Trọng Văn: “Vậy thì sau 49 ngày kia ông Vua cà phê có gặt hái được kho báu không?”. Ông Văn nói: “Tạm thời đó là một sự kỳ diệu của Tạo hóa mà chỉ có thời gian, tức không gian chiều thứ 4 mới giải đáp được”.
Sau này tại Sài Gòn, tôi hỏi nhà văn Lưu Trọng Văn: “Vậy thì sau 49 ngày kia ông Vua cà phê có gặt hái được kho báu không?”. Ông Văn nói: “Tạm thời đó là một sự kỳ diệu của Tạo hóa mà chỉ có thời gian, tức không gian chiều thứ 4 mới giải đáp được”.
Tuy vậy ông Văn đã giải thích cho thắc mắc của tôi về cái gọi là “cuộc tìm kiếm chính mình” và vì sao nó lại là cái đích trước mắt mà ông Vua cà phê theo đuổi? Ông Văn cho rằng theo tìm tòi, nghiên cứu của Đặng Lê Nguyên Vũ thì con người chính là “hạt của Chúa” chứ không phải hạt High mà nhà bác học Piter High vừa tìm ra.
Điều đó có nghĩa con người chính là tiểu vũ trụ. Theo nguyên lý “cặp đối xứng” và “thống nhất” thì Tạo hóa tức đức Chúa mà Einstein gọi, đã tạo ra vũ trụ thế nào thì cũng tạo ra con người như thế. Và quy luật vận hành của vũ trụ cũng đồng nhất liên thông chặt chẽ với quy luật vận hành sinh tồn của chính con người. Một khi Đặng Lê Nguyên Vũ thâm nhập tìm về được chính con người của mình, bản thể của mình, hiểu quy luật vận hành của nó, được thông toàn bộ kinh, lạc, huyệt mạch, luân xa thì tất yếu sẽ hiểu được quy luật vận hành của vũ trụ.
Và, đó chính là điều mà Einstein từng mong muốn. Khi Nguyên Vũ tìm ra được bản thể của mình từ đó sẽ có thể tìm ra bản thể dân tộc mình, sẽ hiểu thấu di chỉ thiêng liêng của cha ông, Kinh dịch và giải mã totem Rồng, Rùa của dân tộc. Chỉ khi tìm ra mình sẽ tìm ra tâm thức bản thân đồng với tâm thức dân tộc và cao hơn nữa đồng với tâm thức vũ trụ theo đúng quy luật của vũ trụ.
Một khi “Khí” là Tạo hóa thì đồng nghĩa “Khí” cũng chính là con người. Vận hành của “Khí” chính là vận hành của con người thông qua các kinh lạc. Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử thì điều bất ngờ nhất khi tìm hiểu nguồn cội Việt, chúng ta biết rằng Kinh dịch chính là bộ kinh tổng mà Tạo hóa trao cho tộc Việt thông qua vua Phục Hy – ông tổ của tộc Việt hơn 5 ngàn năm trước. Chính vì vậy vị vua kế tiếp Phục Hy đã gọi mình là “Kinh Dương Vương”, còn con của Kinh Dương Vương đã đặt tên là “Lạc Long Quân” như để khẳng định “tượng trời kinh và lạc” – mạch khí dọc ngang trong cơ thể con người.
Khí chính là nguồn năng lượng chủ yếu của sự sống, quá trình nhịn ăn 49 ngày và thiền định là để đồng nhất Khí trời, Khí đất, Khí con người. Sự đồng nhất này tạo nên năng lượng mới cho chính con người, đánh thức các nơ-ron thần kinh mà hơn 90% đang còn li bì giấc ngủ.
Thế là đã phần nào rõ ông Vua cà phê Đặng Lê Nguyên Vũ đi tìm cái gì. Vâng, không gì khác, ông đi tìm sức mạnh của chính mình, một khi mình là một tiểu vũ trụ,… Và, vâng, nếu mỗi người Việt có được sức mạnh ấy thì dân tộc Việt sẽ vô cùng mạnh mẽ, sẽ đáp ứng được “Thiên mệnh Việt” mà “tượng trời” đã chỉ trên mảnh đất hình chữ S cùng khát vọng Rồng bay mà không phải tự dưng tộc Việt – Bách Việt từ xưa đã chọn là totem của mình.
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ tìm chính bản thể mình để đánh thức con Rồng, khát vọng Rồng, sức mạnh Rồng của đất nước Việt, dân tộc Việt. Thực ra đây mới chỉ là những hé mở ban đầu, đằng sau nó còn nhiều câu chuyện, nhiều điều Đặng Lê Nguyên Vũ ấp ủ, trở dạ và quyết tâm tìm kiếm, tìm kiếm đến cùng nữa mà tựu chung cái đích của nó là “Đạo”. Chắc chắn sẽ có lúc chúng tôi được tiếp cận với anh về chữ “Đạo” thiêng liêng này.
Theo Lê Huỳnh Lê – Bách Việt/Motthegioi
Chân dung chàng trai 26 tuổi trở thành giám đốc tập đoàn lớn thế giới khiến dân mạng náo loạn ngày qua
Sử Đình Khanh, chàng trai 26 tuổi từng là học sinh trường THPT chuyên Lê Hồng Phong hiện đang là giám đốc điều hành AirPay trực thuộc tập đoàn Sea tại Singapore.
Sau câu chuyện cựu nữ sinh 8x chuyên Lê Hồng Phong, chị Lê Diệp Kiều Trang trở thành tân giám đốc Facebook tại Việt Nam thì dư luận lần nữ đổ dồn sự chú ý, ngưỡng mộ dành cho một chàng trai tài năng không kém khi trở thành giám đốc trẻ thuộc tập đoàn quốc tế.
Sử Đình Khanh là một trong 10 gương mặt trẻ tiềm năm được Forbes giới thiệu trong năm 2017. Dù mới 26 tuổi nhưng anh đã nắm giữ chức vụ giám đốc vận hành tại tập đoàn sở hữu hàng loại ứng dụng điện tử hiện đại như Shopee, Foody & Delievery Now.
Anh Sử Đình Khanh, giám đốc AirPay trực thuộc tập đoàn Sea.
Đình Khanh là cựu học sinh trường chuyên Lê Hồng Phong khóa 2006-2009, TP.HCM. Sau đó, anh theo học chuyên ngành kỹ sư điện tử và chuyên ngành phụ quản trị kinh doanh trường Đại học Nanyang. Đến năm 2016, anh học thêm khóa MBA thuộc đại học Melbourme.
Vừa tốt nghiệp, anh đã được mời làm việc tại ngân hàng ACB với vị trí chuyên viên phân tích quản lý rủi so. 9 tháng sau, anh chàng rời khỏi ACB để đầu quân cho Sony Electronics khu vực châu Á Thái Bình Dương tại Singapore và liên tục nỗ lực trở thành chuyên viên phân tích kinh doanh cao cấp.
Thành tích khủng của anh trong một chương trình học IT đạt 95 điểm.
Đến năm 2017, Đình Khanh gia nhập công ty Internet Sea Group tại Singapore trên cương vị giám đốc điều hành, trực tiếp chỉ đạo đội ngũ marketing, quản lý đội vận hành và chăm sóc khách hàng.
Chưa hết, dù bận rộn với công việc nhưng anh còn tham gia phát triển ví điện tử AirPay ở thị trường Việt Nam, tiếp tục khẳng định mình trên cương vị giám đốc vận hành của Vietnam Chamber of Commerce (tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ các doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới thông qua cửa ngõ Singapore), quản lý câu lạc bộ đá bóng Sony và quản lý truyền thông của câu lạc bộ Toastmasters International. Bảng thành tích và sự nghiệp khủng của vị giám đốc 9x này khiến không ít người phải nể phục thật sự.
Vị giám đốc 9x sở hữu ngoại hình điển trai, lãng tử.
Còn cực kì nhí nhảnh chụp ảnh cùng banner của thần tượng Hàn Quốc.
Ngoài đời, Sử Đình Khanh được coi là “soái ca” thật sự trong lòng người bạn trẻ khi anh sở hữu ngoại hình điển trai, chiều cao ngưỡng mộ đúng chuẩn tiêu chí “cao phú soái”. Đình Khanh còn đặc biệt yêu thích thể thao bóng đá. Anh cũng là chàng trai vui vẻ, hòa đồng khi tham gia nhiều câu lạc bộ, đưa ra những lời khuyên giúp các bạn trẻ khởi nghiệp.
Ảnh: FBNV
Nghi Ân/Theo Thethaovaxahoi.vn
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiến Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là Hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hòa có đăng bài:”Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại Tiểu đoàn Ngạc Thần (tức Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31, Sư Đoàn 21 Bộ Binh) mà Tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện.
Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ:”Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì... nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường ThiếuSinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bày trường hợp của Quang. Thiếu tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử)
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều... cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau.Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của Trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là Thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận địa phục kích của Trung đoàn chủ lực miền, tên Trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hỏa tiễn nhỏ), đạn 155ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bảy viên đạn màkhông chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bảy trúng... chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11:15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì”Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong Sư Đoàn 21, Trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về Tiểu đoàn Ngạc Thần tức Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31, Tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong Tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê! Quang, nghe nói mày lĩnh bảy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng... thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các Hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải Tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam... huấn luyện. Quang đã được Đại tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác là bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẵm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại độicủa Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
“Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả”. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử...
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài Gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ tham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân cộng sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một Trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- ĐM! Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại tá Cẩn:
- Thưa Đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. ĐM Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng cộng sản?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- ĐM! Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- ĐM! Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. ĐM tên cộng sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: ĐM! Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cười đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú:
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hòa có đăng bài:”Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại Tiểu đoàn Ngạc Thần (tức Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31, Sư Đoàn 21 Bộ Binh) mà Tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện.
Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ:”Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì... nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường ThiếuSinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bày trường hợp của Quang. Thiếu tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử)
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều... cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau.Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của Trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là Thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận địa phục kích của Trung đoàn chủ lực miền, tên Trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hỏa tiễn nhỏ), đạn 155ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bảy viên đạn màkhông chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bảy trúng... chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11:15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì”Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong Sư Đoàn 21, Trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về Tiểu đoàn Ngạc Thần tức Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31, Tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong Tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê! Quang, nghe nói mày lĩnh bảy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng... thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các Hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải Tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam... huấn luyện. Quang đã được Đại tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác là bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẵm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại độicủa Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
“Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả”. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử...
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài Gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ tham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân cộng sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một Trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- ĐM! Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại tá Cẩn:
- Thưa Đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. ĐM Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng cộng sản?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- ĐM! Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- ĐM! Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. ĐM tên cộng sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: ĐM! Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cười đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú:
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M. Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài Gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối.
Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau.
Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại SỹParis ngày 13 tháng 4 năm 1999
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M. Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài Gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối.
Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau.
Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại SỹParis ngày 13 tháng 4 năm 1999
Subscribe to:
Posts (Atom)