Kẻ ném đá dấu tay - Bùi Anh Trinh
H1
https://nsvietnam.blogspot.com/2015/10/ke-nem-dau-tay-bui-anh-trinh.html
* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
Bùi Anh Trinh
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc . . . (Lời Mở Đầu Của Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ)
Saturday, August 25, 2018
Nhạc sĩ phản chiến John Lennon (The Beatles) và vợ Yoko
Bài đọc suy gẫm: Còn Tệ Hơn Sự Chết hay Tổng Thống Thiệu nổi giận cáo buộc Mỹ bán đứng miền nam. Blog 16 giới thiệu tài liệu lịch sử quan trọng trích từ sách“Giải Mã Những Bí Ẩn Của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh. Hình ảnh chỉ là minh họa.
Những cuộc biểu tình phản đối người Mỹ tham chiến tại Việt Nam do phe cánh tả (cộng sản) giật dây cũng là 1 trong những nguyên nhân làm chính phủ Mỹ rút quân.
Tổng thống Richard Nixon qua Việt Nam ủy lạo binh sĩ tham chiến.
Thiệu bắt được bản sơ thảo Hiệp định của Kissinger và Lê Đức Thọ
Năm 1972, ngày 17-10,quân đội VNCH hành quân tại Quảng Tín đã tịch thu được một bản tài liệu mang tên “Chỉ dẫn tổng quát về ngưng chiến” của CSVN. Ngay tức khắc, bản tài liệu được chuyển tiếp bằng máy bay trực thăng qua 5 chặng tới tay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào lúc nửa đêm.
Thiệu đọc và phát hiện ra lâu nay Bunker đã cho ông những thông tin ảo về những thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ tại Paris. Ông cay đắng nhận ra rằng từ trước tới nay Kissinger đã điều đình với Lê Đức Thọ mà không thèm đếm xỉa tới ý kiến của Chính phủ VNCH cũng như không cần để ý tới quyền lợi của nhân dân Miền Nam.
Những gì mà Đại sứ Bunker trình bày với ông về những điều khoản thương lượng tại Paris chỉ là những lời lừa phỉnh như đối với trẻ con. Kể từ lúc này, dưới con mắt của Tổng thống Thiệu thì Bunker là một tay lừa đảo ( Trong khi sự thực Bunker đã bị Kissinger lừa chứ ông ta cũng chẳng biết gì hơn ).
Tổng thống Thiệu lập tức mời một số nhân vật chính trong chính phủ họp bàn về sự phản bội của Hoa Kỳ và tìm cách đối đầu với Kissinger trong chuyến viếng thăm sắp tới của ông ta.
Đại sứ Ellsworth Bunker (thứ hai, phải) đang trao đổi với Đại tướng William C. Westmoreland. Hình dưới: Kissinger bắt tay Lê Đức Thọ sau khi ký hiệp ước, 1972.
Nguyễn Văn Thiệu bác bỏ bản dự thảo hiệp ước
Năm 1972, ngày 18-10, Kissinger đến Sài Gòn vào ban đêm.
Ngày 19-10,
- Buổi sáng, lúc 11 giờ sáng, Kissinger cùng phái đoàn đến dinh Độc Lập trao ủy nhiệm thư của Tổng thống Nixon và thuyết trình trong nửa tiếng về bản dự thảo hiệp định. Sau khi ông thuyết trình xong, Tổng thống Thiệu hỏi ông về bản dự thảo bằng tiếng Việt, Kissinger nói hiện tại ông không có nhưng ông sẽ cho tìm nó trong hồ sơ và gởi cho Tổng thống ( Theo Frank Snepp, lúc này Kissinger chưa biết là chi nhánh CIA tại Sài Gòn đã có văn bản bằng tiếng Việt do điệp viên nằm trong Trung ương Cục của CSVN từ miền Đồng Bằng sông Cửu Long, tức là Khu 9 của CSVN, chuyển tới ).
- Lúc 1 giờ trưa, Tổng thống Thiệu cám ơn về bài thuyết trình của Kissinger, hứa sẽ nghiên cứu và hẹn gặp nhau lại vào lúc 5 giờ chiều.
- Lúc 5 giờ chiều, phái đoàn của Kissinger đến dinh Độc Lập để trả lời các thắc mắc về văn bản dự thảo. Mở đầu Tổng thống Thiệu cho biết ông cần một thời gian để nghiên cứu văn bản bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt, bất ngờ ông buột miệng hỏi : “À, còn ba quốc gia Đông Dương mà ông nói đến là những quốc gia nào vậy?”.
Như đã có chuẩn bị trước, Kissinger đáp ngay : “Thưa ngài, chắc là người ta đánh máy sai đó”. Tổng thống Thiệu biết rằng ông ta nói dối bởi vì trong văn bản có tới 3 lần nói tới 3 quốc gia Đông Dương và ghi bằng chữ (three) chứ không ghi bằng số. Kể từ lúc đó cuộc trao đổi giữa Tổng thống Thiệu và Kissinger trở thành giống như một cuộc điều tra để phát hiện ra sự lừa đảo chứ không còn là một cuộc trao đổi “thành thật và thân mật” như thư giới thiệu của Tổng thống Nixon.
- Sau khi trao đổi một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề không có mục quy định quân Bắc Việt phải trở về Bắc, Tổng thống Thiệu hẹn hôm sau sẽ găp lại từng nhóm chuyên biệt để bàn bạc. Kisssinger đồng ý rồi xin mở tiếp một cuộc họp quân sự ngay sau đó để bàn về vấn đề gấp rút tiếp vận quân sự cho Nam VN trước ngày đình chiến. Cuộc họp gồm có Kissinger, Bunker, Tướng Abrams, Tướng Thiệu và Tướng Cao Văn Viên.
Theo như cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kể lại cho Nguyễn Tiến Hưng trong The Palace File (Khi đồng minh tháo chạy) thì có lẽ món quà viện trợ quân sự khẩn cấp là để “mua chuộc” ( đấm mõm ) sự đồng ý của Tổng thống về nội dung văn bản Hiệp định.
Ngày 20-10,
- Buổi sáng, Kissinger họp với Hội đồng an ninh quốc gia VNCH tại nhà riêng của Ngoại trưởng Vương Văn Bắc. Phía VNCH đưa ra 23 điểm cần làm sáng tỏ. Kissinger phản biện và chỉ thừa nhận có 8 điểm trong 23 điểm là cần phải minh xác mà thôi. Buổi họp kết thúc vào giữa trưa, hai bên hẹn gặp nhau vào buổi chiều.
Hoàng Đức Nhã bỏ ra về giữa cuộc họp để kịp thông báo cho Tổng thống Thiệu rằng có rất nhiều điểm thất lợi trong bản văn bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt mà Kissinger mới đưa ra. (Bản tiếng Việt do chi nhánh CIA tại SG có được từ một nhân vật nội gián nằm trong Trung ương ĐCSVN tại Miền Tây. Sau này được biết là ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Quân khu 9 CSVN ).
- Lúc 4 giờ chiều, Cố vấn Hoàng Đức Nhã gọi điện thoại cho Đại sứ Bunker thông báo buổi họp chiều nay bị hoãn lại vì lý do quân CSVN đang tập trung quân để đánh lớn, Tổng thống Thiệu đang triệu tập các Tiểu khu trưởng để bàn việc đối phó.
Theo lời kể lại của ông Hoàng Đức Nhã thì cuộc nói chuyện điện thoại diễn ra như sau:
Bunker : Thế bao giờ sẽ họp vào ngày mai
Nhã : Tôi sẽ tìm cách thông báo cho ngài sau
Bunker yêu cầu gặp Tổng thống Thiệu.
Nhã : Xin ngài thứ lỗi, vì tình hình khẩn cấp,Tổng thống không muốn nói chuyện điện thoại với bất cứ ai.
Sau đó vài tiếng đồng hồ, Bunker gọi lại.
Bunker : Chúng tôi có thể tới gặp Tổng thống lúc này được không? Chúng tôi sắp rời tòa Đại sứ ngay bây giờ đây.
Nhã : Trong dinh chưa chuẩn bị. Chúng tôi có một số việc khác khẩn cấp…
Bunker : Anh đâu có thể làm như vậy được.
Kissinger giật lấy ống nói : Đây là Tiến sĩ Kissinger.
Nhã : Thưa ông mạnh giỏi ?
Kissinger : Tại sao chúng tôi lại không được gặp Tổng thống?
Nhã : Như tôi mới giải thích cho Đại sứ Bunker. Tôi rất tiếc là Tổng thống không thể gặp quý vị vào lúc này, ông ta sẽ gặp quý vị ngày mai.
Kissinger : Tôi là Đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ, tôi không thể được đối xử như một nhân viên chạy vặt.
Nhã : Chúng tôi không bao giờ coi ông là nhân viên chạy vặt. Nhưng nếu ông nghĩ như vậy thì tôi đâu có thể làm gì được.
Kissinger : Tôi đòi gặp Tổng thống !
Nhã : Xin ông cho phép tôi nhắc lại lần nữa điều mà tôi vừa mới thưa với ông, tôi xin lỗi.
( Nguyễn Tiến Hưng, The Palace File, bản dịch của Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Đàm trang 172, 173 ).
Ngày 21-10,
- Lúc 10 giờ sáng, Kissinger và Bunker đến gặp Tổng thống Thiệu, hai bên bàn thảo về 23 điểm phản đối của VNCH ngày hôm qua, theo Kissinger thì chỉ có 16 điểm cần sửa đổi. Trong 2 tiếng đồng hồ, hai bên bàn thảo về vấn đề quân BắcViệt tại Miền Nam và vai trò của Hội đồng hòa giải dân tộc.
- Trong khi đang họp, nhân viên của Văn phòng Tổng thống bước vào đưa một mật điện từ tòa Đại sứ Hoa Kỳ chuyển sang, đó là một bức điện của Tổng thống Nixon muốn Kissinger trao tận tay Tổng thống Thiệu, trong đó đe dọa sẽ cắt viện trợ nếu Tổng thống Thiệu từ chối bản dự thảo hiệp định.
Buổi họp kết thúc trong sự hài lòng của Kissinger ( Tưởng rằng thư của Nixon đã khống chế được Thiệu ), hai bên hẹn gặp nhau vào sáng hôm sau.
Ngày 22-10,
- Lúc 6 giờ sáng, Tòa đại sứ VNCH tại Washington chuyển về toàn văn bài phỏng vấn của phóng viên tờ Newsweek là Borchgrave với Thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng cho Tổng thống Thiệu. Tổng thống phát hiện rõ ràng Kissinger đã đánh lừa ông về vai trò của “Hội đồng hòa giải” và ý nghĩa của “ngưng bắn da beo”, nhưng ông quyết định không nói ra để xem Kissinger “diễn tuồng” ra sao.
( Thực ra chiều hôm trước Tướng Trần Văn Đôn đã dẫn phóng viên Borchgrave đến gặp Tổng thống Thiệu để xin phỏng vấn sau khi ông ta mới phỏng vấn Phạm Văn Đồng tại Hà Nội vào buổi sáng. Tổng thống Thiệu từ chối trả lời phỏng vấn nhưng Borchgrave vẫn thông báo cho ông biết về nội dung cuộc phỏng vấn Phạm Văn Đồng. Sau đó Borchgrave mới chuyển bài phỏng vấn PVĐ về cho báo Newsweek ).
- Buổi sáng, Kissinger đến gặp Tổng thống Thiệu, trong 45 phút bàn bạc, Tổng thống Thiệu cho biết ông đồng ý với bản dự thảo “nhưng với điều kiện phải sửa đổi lại” ( Đây là một lối nói từ chối của Tổng thống Thiệu nhưng Kissinger không hiểu, bởi vì sau đó Thiệu đòi sửa lại tới 64 chỗ, tức là hầu như sửa lại toàn bộ ). Kissinger ra về với nhiều lạc quan.
- Kissinger đánh điện cho Tổng thống Nixon : “Tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm được lối thoát”. Sau đó ông bay đi Nam Vang để gặp Tổng thống Cam Bốt và trở lại Sài Gòn chiều hôm đó. Tại Nam Vang Kissinger cho Tổng thống Lon Nol biết rằng Tổng thống Thiệu đã đồng ý bản dự thảo hiệp định do Bắc Việt đưa ra.
– Buổi chiều, Kissinger cùng Bunker đến dinh Độc Lâp. Trước tiên Tổng thống Thiệu khuyến cáo Kissinger : “Tôi không đồng ý về việc một số nhân viên của quý vị đi nói khắp Sài Gòn là tôi đã ký. Tôi chưa ký kết gì cả. Tôi không phản đối hòa bình nhưng tôi chưa nhận được một trả lời thỏa đáng nào của quý vị cho nên tôi sẽ không ký”.
Sau đó Tổng thống nhắc lại 4 điểm phản đối chính, đó là: (1) Sự hiện diện của quân Bắc Việt tại Miền Nam. (2) Vai trò của Hội đồng hòa giải được xem như là một chính phủ. (3) Vùng phi quân sự tại vĩ tuyến 17 không được tôn trọng theo như hiệp đình Geneve. (4) Hiện nay tại Đông Dương có tới 4 quốc gia chứ không phải chỉ có 3.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi còn là trung tướng (phải).
Kissinger mất bình tỉnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đã thành công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài Gòn: “Nếu ngài không ký, chúng tôi sẽ xúc tiến một mình”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi ký của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu: “Là một quân nhân thì lúc nào cũng phải chiến đấu, nếu tôi không phải là một quân nhân thì tôi đã từ chức khi HK yêu cầu tôi từ chức và còn mặc cả với tôi về ngày giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với ai là người Mỹ đã đòi tôi từ chức, vì như vậy là nhục; cho nên tôi đã làm như tự mình chọn lấy quyết định đó…” ( Kissinger, White House Years, trang 1385 )
Kissinger đáp lại : “Tôi cảm phục tính hy sinh và lòng can đảm của ngài qua lời phát biểu vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa Kỳ, tôi không khỏi phiền lòng khi ngài cho rằng chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các hải cảng Bắc Việt ) đã liều cả tương lai chính trị của mình để giúp quý ngài. Chúng tôi điều đình với Liên Xô và Trung Quốc là để làm áp lực, buộc họ phải làm áp lực với Hà Nội… Nếu như chúng tôi muốn bán đứng quý ngài thì đã có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó…”( Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386 ).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất bình tỉnh : “Vậy thì thưa Tổng thống, lập trường chót của ngài là không ký, có phải không?”
Thiệu đáp : “Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ không ký và tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở lại Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ Việt Nam rồi nói : “Có gì quan trọng khi Hoa Kỳ để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam Việt Nam? Chúng tôi không hơn gì một chấm nhỏ trên bản đồ của thế giới đối với các ông… … Nhưng đối với chúng tôi, đó là một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Đối với chúng tôi, đặt bút ký vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận một bản án tử hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết. Không, nó còn tệ hơn là sự chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn khố Bộ ngoại giao HK, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Kissinger yêu cầu Thiệu cùng họp lại một lần chót vào sáng ngày mai để trình diễn cho báo chí biết là bản dự thảo vẫn đang được tiếp tục tiến hành. Tổng thống Thiệu đồng ý: “Được rồi, nếu điều đó có thể giúp quý vị thì sáng mai ta có thể có một cuộc họp ngắn, 5 phút”.
Ngày 23-10, sau cuộc họp ngắn với Tổng thống Thiệu, Kissinger lên đường trở về Hoa Kỳ. Trước đó ông đã đánh điện cho Hà Nội, xin hoãn chuyến đi Hà Nội vào ngày 24-10 như đã dự trù.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công kích các điều khoản hiệp định mà Phạm Văn Đồng tuyên bố với phóng viên Borchgrave. Ông tránh không nói tới bản dự thảo hiệp định do Kissinger đưa ra bởi vì đã có hứa với Kissinger là làm ra vẻ như bản dự thảo vẫn đang được tiến hành.
Bùi Anh Trinh
http://tranmuoisau.blogspot.com/2014/11/con-te-hon-su-chet-bui-anh-trinh.html
https://www.facebook.com/trananhtu19?hc_ref=ARQj-O4c4EiIrz8YkUdnai1-qwmQdZNVO96EO4LHOfa3FRYlERu5k2-GX5vBfPYeGwI&__xts__[0]=68.ARA5hN7lAy2wPyMtVDTcml39MRE1j2UgI061U1KwaUxsARb9dZOG-CuyqXCL4q8eXJgz1NGR5ly7SNuzP8Q0yvjkrgkNQImgRRBfHfCwH-dHLX3KgciFmNEHPKTmhlZYZtjBPLo&__tn__=lC-R-R-R
Subscribe to:
Posts (Atom)