Friday, December 14, 2018

Sài Gòn Và Cách Đặt Tên Đường Trước Năm 1975

 0 34
Ngày nay, nhiều học giả đã đánh giá rằng cách đặt tên đường phố ở Sài Gòn trước năm 1975 được thực hiện một cách rất khoa học và mang tính lịch sử, giáo dục cao độ
Theo các tài liệu để lại, người đã đặt tên đường phố ở Sài Gòn trước năm 1975 là ông Ngô Văn Phát, Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn. Ông còn là một nhà văn có bút hiệu Thuần Phong.
Thời Pháp, các đường phố đều mang tên Pháp như : Boulevard Charner, Boulevard Galliéni, Boulevard Kitchener, Boulevard Norodom, …
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài Gòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. Lúc bấy giờ, nhà văn Ngô Văn Phát với bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ đã chịu trách nhiệm lên kế hoạch đặt tên đường. Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. 
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, vị trí địa lý, chiều dài lịch sử, thứ tự của triều đại, … do đó, ngày nay nhiều học giả đã đánh giá cách đặt tên đường phố ở Sài Gòn trước năm 1975 được thực hiện một cách rất khoa học và mang tính lịch sử, giáo dục cao .

  • Những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất và quan trọng nhất đó là chung quanh dinh Độc Lập vốn được xem là trái tim của Sài Gòn.
  • Đường Thống Nhất là đường dài khoảng 2km chạy thẳng từ Thảo Cầm Viên đến dinh Độc Lập nay mang tên đường Lê Duẫn
  • Đường Công Lý chạy ngang dinh Độc Lập nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
  • Đường đi ngang qua Bộ Y Tế được đặt tên là Hồng Thập Tự nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai
  • Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý vì đi ngang qua Pháp Đình Sài Gòn
  • Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
  • Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
  • Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
  • Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
  • Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
  • Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
  • Đường mang tên nhà thơ Nguyễn Du là đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
  • Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
Ngoài ra, nếu để ý, có thể thấy khởi đầu từ Bến xe Miền Tây sẽ là các triều đại xưa nhất như Hồng Bàng, An Dương Vương, Triệu Đà … Bà Triệu …. Đi tiếp, sẽ có các tên đường Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục … Tiếp tục là Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh … Lý Chiêu Hoàng. Nhà Trần thì Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo và các tướng quây quần Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư …. Càng đi vào trung tâm của Sài Gòn, ta sẽ tiếp tục có các tên đường mang tên danh nhân, triều đại gần hơn như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi … và gần đến dinh Độc Lập sẽ là các tên đường thuộc Nhà Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Minh Mạng, Tự Đức cùng các tướng …Chệch qua phía bắc khu trung tâm (phía Quận 3) ta có triều Tây Sơn và các nhà văn, nhà thơ, học sĩ: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương … cùng với các võ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu …
Có nhà nghiên cứu đã cảm phục và cho biết, nếu chỉ cần thuộc sử Việt một chút và chỉ cần đọc tên đường, người đó có thể hình dung mình đang ở khu vực nào ở Sài Gòn

Tiến công lữ dù 3, đánh chiếm đèo M’Drak

09:00 | 10/03/2015
|
Tuần cuối tháng 3 năm 1975, khi Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu không còn hy vọng giữ được cao nguyên, buộc phải “triệt thoái” Quân đoàn II về duyên hải, thì việc chốt phòng ngự, ngăn “cộng quân” phải nghĩ đến 3 con đèo. Đó là đèo An Khê ngăn đối phương theo đường 19 xuống Bình Định ; đèo TuNa trên đường số 7 ( Phú Bổn) ngăn xuống Tuy Hoà và đèo M’Drak (Phượng Hoàng), ngăn QGP truy kích xuống duyên hải Ninh Hoà, Nha Trang theo đường 21.
Kỳ vọng vào quân dù
Nhưng đường 19, đèo An Khê bị Sư đoàn Sao Vàng QGP cắt từ trước. Đèo Tu Na không còn là chiến luỹ, khi sư đoàn 320 truy kích Quân đoàn II chạy dài từ Cheo Reo đến Củng Sơn. Chỉ còn đèo M’Drak-Phượng Hoàng, dọc lộ 21 !
Đèo Phượng Hoàng nằm trên Quốc lộ 21, là ranh giới giữa hai tỉnh Đắc Lắc và Khánh Hòa và là cửa ngõ nối liền Tây Nguyên với miền duyên hải Trung bộ.
Đèo M’Drak hôm nay
Cuối tháng 3 -1975 tướng Lê Quang Lưỡng  nhận lệnh đưa lữ dù 3 của đại tá Lê Văn Phát được tăng cường thêm 1 tiểu đoàn Biệt động quân đổ xuống đèo M’Drak, chặn Quân giải phóng tiến về Dục Mỹ, Ninh Hòa. Nói như các cựu sĩ quan dù:  Nhiệm vụ là  “Trì hoãn trục tiến của các đơn vị Cộng quân, bọc hậu cho các đơn vị bạn trong vùng giao phó”.
Theo chiến thuật của tướng Lưỡng, quân lữ dù 3 triển khai các “đại đội đa năng” độc lập tác chiến, trực thuộc thẳng lữ đoàn. Đây vốn là “sáng kiến” của tướng Lưỡng từ hồi giành giật Thượng Đức, nhằm tăng thêm tay súng trực tiếp tác  chiến, nhờ giảm “biên chế” lính cơ quan, phục vụ, văn phòng.
Theo các cựu sĩ quan VNCH ở hải ngoại bàn luận, “Trục địch quân đi ngay vào tuyến án ngữ của Lữ đoàn 3 nhảy dù trên đèo M’Drak”. Các đại đội đa năng này thực hiện chiến thuật “mạng nhện”, nhằm phát huy tính linh hoạt của cấp phân đội, giăng ra khắp khu vực, chốt các điểm cao “yết hầu” dọc con đường đèo dốc quanh co hiểm trở từ Dục Mỹ đến Khánh Dương M’Drak, chiều dài gần 20 km trên lộ 21, biến M’Drak thành “tấm cản thép”, nút chặn kiên cố liên hoàn ngăn QGP.
Chi viện hỏa lục cho lữ dù này là các trận địa pháo ở căn cứ Dục Mỹ, Lam Sơn. Ngoài ra còn sự chi viện rất mạnh của sư đoàn 6 không quân, bao gồm nhiều trực thăng vũ trang, máy bay ném bom A-37 tăng phái, chi viện hỏa lực từ trên không cho các đại đội giữ các chốt đèo.
Sư đoàn 10 QGP Tây Nguyên, được tăng cường trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo chiến dịch 40, trung đoàn pháo phòng không 234 và 1 tiểu đoàn đặc công, cùng 1 tiểu đoàn xe tăng (thiếu). Cách đánh xác định là vận động tiến công đánh phản kích chiếm đèo.
Đấu trí, đấu lực
Phân tích trước trận đánh, chỉ huy QGP cho rằng, tiến công đánh chiếm đèo, thực chất là vận động tiến công đánh chiếm điểm cao. Theo lý thuyết thì lực lượng tiến công phải mạnh, có hỏa lực pháo chi viện, chế áp tốt. Nhưng ở đây không phải chỉ là 1 đến 2 điểm cao, mà rất nhiều chốt điểm cao trải dài gần 20 ki-lô- mét đường đèo quanh co, các chốt này “kiểu mạng nhện” chi viện cho nhau , cùng pháo binh  bắn chặn, rất khó dứt điểm. Do đó tính chất phức tạp của trận đánh sẽ tăng lên, khi đối phương là quân dù có chi viện mạnh hỏa lực cả phi pháo và không quân, thiết giáp.
Trận đánh diễn ra sáng 29 tháng 4 năm 1975. Ban đầu pháo binh QGP khai hỏa, bắn phá hoại các điểm cao phía tây đèo, diệt các phân đội pháo của VNCH. Toàn mặt trận hình thành 3 mũi tấn công địch, Ở hướng Bắc, Trung đoàn 25 vượt qua các dãy núi cao, từ trên đánh phủ xuống đầu địch. Ở hướng Nam, Trung đoàn 24 lấn tới chân đèo, giành nhau với địch từng mét chiến hào, công sự, mỏm đồi…Máy bay sư đoàn 6 xuất hiện ném bom, bắn rốc két xuống trận địa pháo QGP, lập tức pháo cao xạ, tên lửa vác vai A-72 ( SA-7) của QGP bắn trả dữ dội, buộc máy bay vọt lên cao. Theo phương án, các đơn vị thuộc sư đoàn 10 và phối thuộc đã liên tục tiến công chiếm các điểm cao, chia cắt bộ binh với bộ binh, mở đường cho xe tăng, xe bọc thép đột phá từng chốt quân dù. Một trận hiệp đồng binh chủng ngoạn mục đã diễn ra ở các khúc đèo.
Phải nói rằng, sau các trận ở Đức Lập, Phước An, sư đoàn 10 càng đánh càng mạnh, sức cơ động tốt, hỏa lực dồi dào, nhờ chiến lợi phẩm là pháo, đạn, cơ giới thu được. Nhưng chính là ý chí và sự phấn khích, sự cổ vũ từ những thắng lợi trong chưa đầy 20 ngày thắng lớn ở Nam Tây Nguyên. Các chỉ huy phân tích, quân dù chỉ mạnh khi có hỏa lực đi kèm, chi viện tốt. Bài học trận Thượng Đức cho thấy, quân dù có kỹ thuật cá nhân, đánh “lỳ”, từng cá nhân sử dụng được nhiều loại vũ khí, phân đội tác chiến năng động khi có pháo binh dù và pháo các trận địa chi viện.
Lợi dụng các yên ngựa, khe núi, lữ dù đặt các pháo đội phân tán, nhưng bắn tập trung chặn đội hình QGP. Rõ ràng, tại M’Drak, khi cắt bộ binh với pháo binh, bộ binh với không quân, hiệu ứng tác chiến của lính dù xuống thấp hẳn.
Đến chiều 30 tháng 3, pháo binh QGP bắn khá mạnh. Nhiều khẩu pháo thu được từ  giữa tháng 3 đã phát huy hỏa lực. Không thiếu đạn. Những xe đạn pháo thu ở khu kho Mai Hắc Đế (Buôn-mê-thuột) được chuyển đến đã giáng những đòn sấm sét xuống Lữ dù 3.  Pháo binh QGP diệt từng khẩu pháo, vô hiệu hóa từng cụm hỏa lực, 30% pháo binh, xe tăng dần bị diệt. Nhiều chốt bị mất, hai tiểu đoàn quân dù dần bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Đêm 30-3-1975, do không ứng chiến nổi, một lực lượng quân dù (khoảng một tiểu đoàn) rút chạy về phía đông đèo Phượng Hoàng. Trung đoàn 24 của sư đoàn 10 trong đêm tối mịt mùng đã nhận lệnh đánh chặn tàn quân lữ dù. Tiểu đoàn 5 đã động viên bộ đội truy kích địch, dưới làn đạn pháo. Tới 5 giờ sáng, các chiến sĩ đã vận động tới phía đông đèo.
Để giúp quân dù tháo chạy, các trận địa pháo địch ở Dục Mỹ, Lam Sơn bắn mạnh vào các mũi hướng của trung đoàn 24. Máy bay A37 ném bom bi, bom cháy xuống trận địa, hòng đẩy ta ra khỏi các vị trí. Lại có thêm một tiểu đoàn biệt động quân và một chi đội xe bọc thép nống từ căn cứ Lam Sơn lên giành giật trận địa. Lúc này tàn quân của tiểu đoàn dù cũng cố sức đánh ép từ trên đỉnh đèo xuống. Địch tăng cường hỏa lực, máy bay ngoài dự kiến, khiến tình thế gay go cho trung đoàn 24.
Sư đoàn 10 lập tức lệnh cho trung đoàn 28 sử dụng bộ binh, xe tăng, xe bọc thép xuất kích, áp sát quân dù. Địch chốt ở buôn Ea Thi đánh trả. Lợi thế của quân dù có máy bay A37 ném bom chi viện,  QGP có tổn thất, phải dừng lại. Sau khi nắm lại tình hình, đánh giá địch, sư đoàn 10 điều 4 xe K63 lên tăng cường. Pháo cao xạ cũng có mặt “khóa” vùng trời, xua bọn A37 ra xa. Pháo chiến dịch thuộc của trung đoàn 40 liên tục bắn mãnh liệt hơn. Có trận đấu pháo hàng giờ liền, pháo binh không kịp đào công sự, đặt ngay tại đường nhựa bắn vào các cụm pháo vừa phát hiện, làm rung chuyển cả một vùng đường đèo mấy chục cây số. Có tới 12 khẩu pháo của địch bị phá hủy, khiến pháo VNCH câm họng.
Trong bài “Vĩnh biệt Nha Trang” tác giả Vĩnh Hiếu, một sĩ quan không quân Ngụy viết: “Tháng 3-1975, tại khu vực đèo M’Drak, phi công Huỳnh Râu điện cho (tổ bay): Hãy tác xạ vào đám rừng bên sườn đồi, đừng vào gần. Coi chừng SA-7( A-72)! Nghe vậy, tất cả các giác quan của tôi bừng dậy như chạm vào luồng điện”.   Tên lửa A72 của trung đoàn 234 phát huy kết quả diệt thêm máy bay, buộc chúng phải vọt lên cao.    
Tới 12 giờ, QGP từ các hướng đông chân đèo đồng loạt tiến lên đỉnh đèo, nơi có bình độ cao nhất mà lộ 21 vắt qua, sau 30 phút đánh chiếm, một phần quân dù đã bỏ chạy, QGP chiếm địa bàn quan trọng. Bài học tại trận được rút ra, cần có lực lượng hai phía từ trên đèo và dưới đèo, phối hợp đánh truy kích địch.
Xe tăng đột kích, bộ binh tiến theo, hoả lực tăng tạo uy lực, thốc tới làm địch lúng túng.
Ngay sau đó, phối hợp với pháo tầm xa là các cụm hỏa lực bộ binh bí mật áp sát cụm quân dù bất ngờ nã những đường đạn chính xác vào các chốt còn lại, gây cho quân dù tổn thất nặng nề.
Sau một giờ đánh phá bằng hỏa lực, được lệnh tiến công cao điểm 609. Trước sức tiến công mạnh mẽ bất ngờ, Tiểu đoàn 5 mũ đỏ yêng hùng của trung tá Bùi Quyền không chịu được lối đánh bị chia cắt, không chịu được lối đánh gom của sư đoàn 10, vội vã tháo chạy. Trung đoàn 66 lập tức truy kích, bắn cháy hai xe kéo pháo, một xe M113 và hai xe GMC chở đầy lính. Tiểu đoàn 5 bị xóa sổ, QGP bắt gần 300 tù binh. Trong lúc Trung đoàn 66 tiến công thì  Trung đoàn 28 đã tiêu diệt và bắt sống hơn 200 quân dù , trong đó có toàn bộ ban chỉ huy Tiểu đoàn 6 của trung tá dù Nguyễn Văn Thành.
Trung đoàn 24 tới lúc này được lệnh đánh bọc sau lưng địch, đánh vào sở chỉ huy lữ dù 3 chiếm tiếp trận địa pháo. Hỏa lực đi kèm bắn mạnh áp chế địch. Bộ đội chia thành nhiều mũi đè bẹp quân dù ở các vị trí, làm chủ trận địa chân đèo phía đông. Đường về Dục Mỹ-Ninh Hòa được mở thông. Rất nhiều tù binh là quân thuộc lữ dù của đại tá Lê Văn Phát bị bắt. (Đại đội 11 bắt tới trên 100 tù binh).
Suốt đêm 31- 3, đại tá Phát chỉ huy quân dù gọi máy bay C130 thay nhau thả pháo sáng, bắn đạn 20mm dọc theo đường 21. Pháo từ căn cứ Lam Sơn, Dục Mỹ cũng bắn như vãi đạn để trấn an cho số quân dù còn lại “thục mạng chạy về phía biển”. Lữ đoàn dù 3 bị diệt, lá chắn phía tây tỉnh Khánh Hòa bị đập tan, chốt đèo M’Drak lập tức thông thoáng, toàn bộ hệ thống phòng thủ của lữ dù 3 VNCH từ Tây sang Đông.. rồi binh sĩ Trung tâm huấn luyện Lam Sơn, biệt động quân, pháo binh Dục Mỹ, Trường hạ sĩ quan đều rút chạy về Ninh Hòa.
Có ý kiến cho rằng, sau trận Buôn-mê-thuột, nếu quân đội VNCH kịp điều các lữ dùtái chiếm Nam Tây Nguyên, thì có thể xoay chuyển tình hình. Nhưng với tình huống thế đã cài, địa hình Nam Tây Nguyên và cả Pleicu khá thuận lợi cho triển khai cơ giới QGP. Trong khi phía quân đội VNCH, sức cơ động đường bộ bị khống chế. Với quân dù VNCH, địa hình thuận lợi như các chốt đèo liên hoàn ở M’Drak mà quân dù vẫn không giữ được, thì liệu các lữ dù có thể xoay sở ra sao ở Tây Nguyên. Nên nhớ hỏa lực pháo binh QGP ở Tây Nguyên khá mạnh, sức cơ động cao. Thiết giáp QGP có thể đột kích vào bất cứ địa bàn nào, vùng trời cao nguyên bị pháo cao xạ và tên lửa A72 hầu như không chế, ngay ở tầm cao! Năm 1975, thế và lực QGP Tây Nguyên đã lớn mạnh hơn nhiều.
Các sĩ quan, chiến sĩ QGP tiến công chiếm đèo chưa biết, cũng trong ngày đánh dứt điểm này, Thành phố Đà Nẵng, căn cứ liên hiệp hải, lục, không quân mà tướng Ngô Quang Trưởng cố giữ đã bị QGP “tràn ngập”, thành phố lớn nhất Miền Trung cũng vừa giải phóng.
Như vậy, sau M’Drak , sau 21 ngày Tổng tiến công, toàn bộ Tây Nguyên được giải phóng, Quân đoàn 2, Quân khu II coi như  bị xóa sổ, Quân khu I của VNCH bị đánh mạnh, chia cắt, tan hàng.
 Trần Văn (Tổng hợp)