Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc . . . (Lời Mở Đầu Của Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ)
Saturday, August 31, 2019
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3582551931758607&set=pcb.3582552475091886&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBYW__7esbskS9r0wHubbxvwLICGQfJRioa1N39UENG36Ni07lPRxB12yy0YwHVJpyvCTdsuVf5ukf9
Labels:
borneo,
BRUNEI,
MALAYSIA,
sarawak,
singapore-lý quang diệu
Friday, August 30, 2019
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3580861798594287&set=pcb.3580862525260881&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBYPl2_DVb8H_RkC3bGBuaPAsod09m7LfEK-6fJuo6lwDbvseehVhIwxKVxoGRbKdk5p0fNdLYknziX
Thursday, August 29, 2019
Số 6 : tính tình của những ai có ngày sanh hay tên cộng lại bằng 6, 15, 24, 33, 42, v.v...
Do E.Taylor có tên = 15 = 6 , nên cũng có thêm tánh tình của nhóm 6 . (E.Taylor thuộc tuổi Pisces/Song Ngư) .
Ý nghĩa của số 6
Số 6 rung động cùng nhịp với sao Kim (Venus) . Số này đại diện cho bản chất phụ nữ/nữ tính (feminine essence), sự thông cảm hay thương hại (compassion), và (cho đến khi sao Kim từ bỏ quyền làm chủ tuổi Kim Ngưu khi hành tinh Pan-Horus được khám phá) cũng là tiền bạc . 6 là số của tình yêu và sự lãng mạng .
Khi con giáp theo tử vi Tây phương của bạn là :
Bảo bình, Kim ngưu, Thiên xứng: Số 6 gia tăng cường độ đặc tính những con giáp này .
Hổ cáp , Miên dương : Số 6 thỉnh thoảng đối nghịch với những con giáp này , nhưng , với cố gắng , có thể dùng để cân bằng với chúng .
Những con giáp còn lại : Số 6 sẽ , có lúc , hài hòa với những con giáp này , và ở những thời điểm khác , tương phản gay gắt với chúng . Vào những thời điểm đó , tính khí hay thái độ của họ bất thường, nếu so với tính khí thường ngày của họ, đến nổi (so unusually) họ sẽ làm người khác giật mình (it startles others), và cũng gây ngạc nhiên cho cả chính họ .
TÍNH TÌNH CỦA NHÓM 6
Định nghĩa sau đây áp dụng cho người và thực thể. Người số 6 dường như thu hút mạnh mẻ người khác đến với họ (seem to magnetically attract others to them). Họ được yêu thương một cách thành thật (genuinely) bởi bạn bè và đồng nghiệp – và khi chính họ trở nên gắn bó với nhau (become attached themselves), thì họ hết lòng/tận tụy với người mà họ thương yêu . Trong bản chất của tình yêu của họ , lý tưởng và tình cảm thì nhiều hơn nhục dục (there's more idealism and affection than sensualism in the love nature) . Những người này lãng mạng bẩm sinh với một nét đa sầu/đa cảm mạnh mẽ (strong sentimental streak) , bất kể họ từ chối hay cố gắng che dấu (điều này) như thế nào. Sự rung động của số 6 mang đến cho họ tình yêu nghệ thuật và ái lực/ham thích sâu rộng với âm nhạc (deep affinity for music). Những người này thích nhà đẹp và đồ đạc/đồ dùng trong nhà trang nhã (tasteful furnishings), màu tùng lam/nhạt (pastel colors) , và sự hài hòa trong môi trường chung quanh họ (surroundings) .
Họ thích giải trí/tiêu khiển với bạn bè cũng như làm cho người khác vui vẻ (love to entertain their friends and to make people happy), và họ thường không chịu đựng được (they simply cannot abide) sự bất hòa , những tranh cải , sự hiểu lầm/cải cọ , hoặc sự ghen ghét/ghen tương (discord , arguments , unpleasantness , or jealousy) – dù cho chính họ có thể bày tỏ sự ghen ghét/ghen tương mãnh liệt nếu họ bị đe dọa có thể mất mát người (hay vật) mà họ yêu thương (threatened with the possible loss of someone or something they love) . Nguời số 6 kết bạn dễ dàng, và họ có khuynh hướng thích giải quyết những tranh cải (disputes) giữa bạn bè , đồng nghiệp , và thân nhân , ở những thời điểm đó họ tỏ ra hiền lành (peaceful) và ngoan ngoản như những chú cừu non – cho đến khi bộ mặt cứng đầu/ngoan cố của họ nổi lên ; bấy giờ họ sẽ không còn dể thương/dễ chịu như trước (until their stubborn side surfaces ; then they don't seem quite so sweet ! ) .
Tiền bạc thường đến với họ dễ dàng , đôi khi thông qua tài năng riêng của họ (own talents and abilities) , đôi khi thông qua thừa kế và qua bạn bè và thân nhân giàu có . Nhưng họ được cảnh báo phải coi chừng khuynh hướng khi thì tiêu pha rất phung phí và khi thì rất bủn xỉn/keo kiệt (extremes of extravagance and stinginess) . Ít khi họ có một thái độ trung dung (neutral) về tiền của (finances) . Lúc thì họ thế này , lúc thì họ lại thế kia (it's either one or the other , taking turns in the nature ) . Ở họ , nổi trội sự yêu thích mọi thứ đẹp đẻ trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Phần lớn người số 6 gắn bó sâu đậm với Thiên Nhiên trong một cách thức nào đó , và thích trải qua thời gian ở đồng quê , gần khu rừng yên tỉnh và những giòng suối chảy róc rách (country , near the silent woods and singing streams) , có tác động làm dịu những cảm xúc của họ (tranquilizing effect on their emotions) . Sự ưa thích những gì xa xĩ/xa hoa là đặc điểm của họ (fondness for luxury marks the 6 vibration) . Sự xấu xí là cực kỳ xúc phạm/chướng tai gai mắt (extremely offensive) đối với họ. Họ say mê sự trang nhã và lùi bước trước sự lòe loẹt/sặc sở và sự thô lổ (admire the tasteful and shrink from loudness and vulgarity) . Cách cư xử của họ thông thường không chỗ chê (their manners are , as a general rule , impeccable) , và họ thường lịch sự trong quan hệ với người khác (their associations with others) . Tuy nhiên , khi họ cảm xúc mạnh mẻ về điều gì , họ sẽ không ngần ngại tỏ lộ ý kiến của họ . Họ yêu thích thảo luận , tranh luận chính trị và những vấn đề khác (fond of discussing and debating politics and other matters) , và họ thường thắng cuộc , bởi vì lý luận . . . và những nụ cười hấp dẩn/không cưởng lại được của họ) . / .
Dịch xong lúc 1:11 PM ngày thứ bảy 20-11-2010 từ trang 237-39 của quyển Linda Goodman's Star Signs) .
Chú thích : Pastel : (thực vật học) cây tùng lam ; màu tùng lam ; (nghệ thuật) màu phấn , bức tranh màu phấn ; màu nhạt (light-colored) . Abide : verb chịu đựng .
Do E.Taylor có tên = 15 = 6 , nên cũng có thêm tánh tình của nhóm 6 . (E.Taylor thuộc tuổi Pisces/Song Ngư) .
Ý nghĩa của số 6
Số 6 rung động cùng nhịp với sao Kim (Venus) . Số này đại diện cho bản chất phụ nữ/nữ tính (feminine essence), sự thông cảm hay thương hại (compassion), và (cho đến khi sao Kim từ bỏ quyền làm chủ tuổi Kim Ngưu khi hành tinh Pan-Horus được khám phá) cũng là tiền bạc . 6 là số của tình yêu và sự lãng mạng .
Khi con giáp theo tử vi Tây phương của bạn là :
Bảo bình, Kim ngưu, Thiên xứng: Số 6 gia tăng cường độ đặc tính những con giáp này .
Hổ cáp , Miên dương : Số 6 thỉnh thoảng đối nghịch với những con giáp này , nhưng , với cố gắng , có thể dùng để cân bằng với chúng .
Những con giáp còn lại : Số 6 sẽ , có lúc , hài hòa với những con giáp này , và ở những thời điểm khác , tương phản gay gắt với chúng . Vào những thời điểm đó , tính khí hay thái độ của họ bất thường, nếu so với tính khí thường ngày của họ, đến nổi (so unusually) họ sẽ làm người khác giật mình (it startles others), và cũng gây ngạc nhiên cho cả chính họ .
TÍNH TÌNH CỦA NHÓM 6
Định nghĩa sau đây áp dụng cho người và thực thể. Người số 6 dường như thu hút mạnh mẻ người khác đến với họ (seem to magnetically attract others to them). Họ được yêu thương một cách thành thật (genuinely) bởi bạn bè và đồng nghiệp – và khi chính họ trở nên gắn bó với nhau (become attached themselves), thì họ hết lòng/tận tụy với người mà họ thương yêu . Trong bản chất của tình yêu của họ , lý tưởng và tình cảm thì nhiều hơn nhục dục (there's more idealism and affection than sensualism in the love nature) . Những người này lãng mạng bẩm sinh với một nét đa sầu/đa cảm mạnh mẽ (strong sentimental streak) , bất kể họ từ chối hay cố gắng che dấu (điều này) như thế nào. Sự rung động của số 6 mang đến cho họ tình yêu nghệ thuật và ái lực/ham thích sâu rộng với âm nhạc (deep affinity for music). Những người này thích nhà đẹp và đồ đạc/đồ dùng trong nhà trang nhã (tasteful furnishings), màu tùng lam/nhạt (pastel colors) , và sự hài hòa trong môi trường chung quanh họ (surroundings) .
Họ thích giải trí/tiêu khiển với bạn bè cũng như làm cho người khác vui vẻ (love to entertain their friends and to make people happy), và họ thường không chịu đựng được (they simply cannot abide) sự bất hòa , những tranh cải , sự hiểu lầm/cải cọ , hoặc sự ghen ghét/ghen tương (discord , arguments , unpleasantness , or jealousy) – dù cho chính họ có thể bày tỏ sự ghen ghét/ghen tương mãnh liệt nếu họ bị đe dọa có thể mất mát người (hay vật) mà họ yêu thương (threatened with the possible loss of someone or something they love) . Nguời số 6 kết bạn dễ dàng, và họ có khuynh hướng thích giải quyết những tranh cải (disputes) giữa bạn bè , đồng nghiệp , và thân nhân , ở những thời điểm đó họ tỏ ra hiền lành (peaceful) và ngoan ngoản như những chú cừu non – cho đến khi bộ mặt cứng đầu/ngoan cố của họ nổi lên ; bấy giờ họ sẽ không còn dể thương/dễ chịu như trước (until their stubborn side surfaces ; then they don't seem quite so sweet ! ) .
Tiền bạc thường đến với họ dễ dàng , đôi khi thông qua tài năng riêng của họ (own talents and abilities) , đôi khi thông qua thừa kế và qua bạn bè và thân nhân giàu có . Nhưng họ được cảnh báo phải coi chừng khuynh hướng khi thì tiêu pha rất phung phí và khi thì rất bủn xỉn/keo kiệt (extremes of extravagance and stinginess) . Ít khi họ có một thái độ trung dung (neutral) về tiền của (finances) . Lúc thì họ thế này , lúc thì họ lại thế kia (it's either one or the other , taking turns in the nature ) . Ở họ , nổi trội sự yêu thích mọi thứ đẹp đẻ trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Phần lớn người số 6 gắn bó sâu đậm với Thiên Nhiên trong một cách thức nào đó , và thích trải qua thời gian ở đồng quê , gần khu rừng yên tỉnh và những giòng suối chảy róc rách (country , near the silent woods and singing streams) , có tác động làm dịu những cảm xúc của họ (tranquilizing effect on their emotions) . Sự ưa thích những gì xa xĩ/xa hoa là đặc điểm của họ (fondness for luxury marks the 6 vibration) . Sự xấu xí là cực kỳ xúc phạm/chướng tai gai mắt (extremely offensive) đối với họ. Họ say mê sự trang nhã và lùi bước trước sự lòe loẹt/sặc sở và sự thô lổ (admire the tasteful and shrink from loudness and vulgarity) . Cách cư xử của họ thông thường không chỗ chê (their manners are , as a general rule , impeccable) , và họ thường lịch sự trong quan hệ với người khác (their associations with others) . Tuy nhiên , khi họ cảm xúc mạnh mẻ về điều gì , họ sẽ không ngần ngại tỏ lộ ý kiến của họ . Họ yêu thích thảo luận , tranh luận chính trị và những vấn đề khác (fond of discussing and debating politics and other matters) , và họ thường thắng cuộc , bởi vì lý luận . . . và những nụ cười hấp dẩn/không cưởng lại được của họ) . / .
Dịch xong lúc 1:11 PM ngày thứ bảy 20-11-2010 từ trang 237-39 của quyển Linda Goodman's Star Signs) .
Chú thích : Pastel : (thực vật học) cây tùng lam ; màu tùng lam ; (nghệ thuật) màu phấn , bức tranh màu phấn ; màu nhạt (light-colored) . Abide : verb chịu đựng .
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3578043795542754&set=pcb.3578053988875068&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARB_GKEnjv5oYXZl4Iqz6UcM6hjIVQI7Sjre4NcyM4vh4MsnV0ycN7DY6YjmbcF3u-s58OaID4J7jao8
Wednesday, August 28, 2019
https://www.facebook.com/trananhtu19/posts/3576580349022432
https://wealthygorilla.com/eddie-murphy-net-worth/?fbclid=IwAR1JTVv54na-Tnc10gw96x96Vwq22vnWGs0eTOcsfyT_BnG99QZSYanVUWA
https://wealthygorilla.com/eddie-murphy-net-worth/?fbclid=IwAR1JTVv54na-Tnc10gw96x96Vwq22vnWGs0eTOcsfyT_BnG99QZSYanVUWA
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3576322912381509&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARCJXZmLB2YwLqSj-2uAIUr8jv4oRkYZqRsbS9cHUK84QlOk-vNnnm5qTL8uWYsy-E6dWuSYSGg85XHe
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3576157159064751&set=pcb.3575528559127611&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARDzsQVXfufjWm2N3V3wlk5DLsYcefqaoypazHf7KO2nMh_UkfQjOvSpgC5-LvsQ7T0E6iVLCgDhNvf2
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=953509924662834&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARDyXncQVsQtRR0NxvXgv2bg06LU1X4l5gDLsIdIGxVqBhNPgjoSnXtZw63VS4GzSxJ7qqj5SWjrf9t8
Viện dưỡng lão bên Tây thế nào? 01/10/2011 10:08
Tại các nước có nền kinh tế phát triển, đặc biệt là ở Châu Âu, châu Mỹ, châu Úc…, dân số già đi sẽ gia tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc cho người già. Nếu như ở phương Đông, theo truyền thống, cha mẹ khi tuổi cao sức yếu sẽ được con cái phụng dưỡng tại nhà, thì ở phương Tây, những người cao niên được đưa vào sống trong các viện dưỡng lão hoặc các cơ sở chăm sóc người cao tuổi.
Sở dĩ có điều này là vì trong nếp sống phương Tây, con cái sống độc lập với cha mẹ sau tuổi trưởng thành (18 tuổi) nên người già thường phải tự lo cho bản thân thay vì trông chờ vào sự túc trực, chăm sóc của con cái. Hơn nữa, trong suốt quãng đời lao động, họ đã đóng thuế cao nên khi về già, họ được nhà nước đài thọ khi sống trong các viện dưỡng lão và hưởng dịch vụ y tế.
Viện dưỡng lão bên Tây thế nào?
Tiêu chuẩn theo quy định
Trong viện dưỡng lão, họ được chăm sóc về y tế với chế độ dinh dưỡng đặc biệt mỗi ngày. Tùy tình trạng sức khỏe, bệnh lý mà họ được phân thành những khu riêng biệt. Ví dụ như khu dành cho người có sức khỏe khá, khu người già yếu, hay khu cho người có sức khỏe tâm thần kém...
Ở khu vực cho người già yếu, các cụ được ngồi trên xe lăn hoặc các loại ghế bành đặc biệt có bánh xe đẩy và được các điều dưỡng viên túc trực chăm sóc. Tại mỗi giường nằm đều có chuông để gọi điều dưỡng.
Ngoài việc cho người già uống thuốc chữa bệnh hoặc thuốc bổ mỗi ngày, các điều dưỡng viên còn giúp đỡ họ trong vấn đề vệ sinh cá nhân. Mọi việc khác như giặt giũ quần áo, ra giường, ăn uống, vui chơi giải trí... cũng đều có các nhân viên lo liệu.
Ngoài chế độ chăm sóc chuyên nghiệp, cơ sở vật chất cũng rất tốt. Các cụ ông, cụ bà được ở trong những căn phòng riêng tươm tất, đầy đủ các tiện nghi cơ bản như giường nệm, bàn ghế, tivi, tủ lạnh.
Họ có những không gian sinh hoạt chung như phòng tiếp khách, nhà cầu nguyện, nhà ăn, phòng giải trí... Hàng ngày, mỗi người đều có thời khóa biểu sinh hoạt riêng như đi bộ ngoài trời, dự buổi lễ cầu nguyện, tập thể dục, chơi trò chơi, loto, tập hát, đọc sách báo...
Bên cạnh đó, viện dưỡng lão cũng là mái nhà chung nơi người già có thể gặp gỡ và sinh hoạt cùng với những người đồng thế hệ để giảm đi nỗi cô đơn vào tuổi xế chiều. Những cụ bà mạnh khỏe có thể ngồi cùng nhau đan lát, vẽ tranh… trong khi các cụ ông được đưa đi chơi games. Những buổi tiệc được tổ chức trong năm (ví dụ như: Lễ Giáng Sinh, với người Việt thì là Tết Nguyên đán, Lễ Vu Lan, rằm Trung Thu…) nhằm quy tụ tất cả người già trong viện và thân nhân của họ đến chung vui, giúp không khí viện dưỡng lão trở nên rộn ràng, ấm áp hơn. Hoặc kể cả những ngày thường, con cái cũng có thể đăng ký vào thăm cha mẹ, ông bà hoặc đón họ về chơi với gia đình rồi quay trở lại.
Khi đảm bảo được những điều trên, viện dưỡng lão sẽ là lựa chọn tốt nhất cho những người cao niên. Bởi lẽ, nếu như người cao tuổi ở nhà với người thân, con cháu sẽ không thể thường trực chăm sóc do bận phải đi làm, đi học… Kể cả khi thuê người giúp việc, họ cũng không thể chuyên nghiệp như các điều dưỡng viên đã có bằng cấp ở các viện dưỡng lão. Bên cạnh đó, trong khi tại các viện dưỡng lão, người già có nhiều đối tượng cùng thế hệ để giao tiếp, thì ở nhà, khoảng cách thế hệ là rào cản rất lớn để có thể thấu hiểu và sẻ chia.
Tại phòng sinh hoạt chung khu High care của viện dưỡng lão ở North Sunshine (Úc), có một bà cụ treo tấm bảng nhỏ ở bức tường sát cạnh ghế ngồi hàng ngày của bà hàng chữ: “Ngày càng già đi không có nghĩa là mọi thứ trở nên tệ hơn”. Thế nhưng, dẫu sao đó cũng chỉ là những khẩu hiệu nhằm đấu tranh với nỗi cô đơn, tủi thân trong chính bản thân họ.
Viện dưỡng lão bên Tây thế nào?
Không như chốn thiên đường
Alice Oshatz – một cụ già 85 tuổi tại Mỹ – muốn tìm kiếm một viện dưỡng lão tốt để cậy nhờ bởi ở độ tuổi này bà không còn đủ khả năng chăm sóc cho bản thân; tuy nhiên, bà cũng không muốn chuyển đến ở với con cái. “Con gái tôi sẵn lòng nuôi và chăm sóc tôi nhưng sức khỏe tôi càng ngày càng suy yếu và tôi sẽ trở thành gánh nặng cho nó” – bà nói.
Thế nhưng vào viện dưỡng lão theo bà Alice cũng chính là nỗi sợ hãi của hơn một nửa số người già tại Mỹ. 38% người cao niên tại Mỹ sẽ cố nán lại ở nhà chừng nào có thể, kể cả khi phải xoay sở mọi thứ một mình (vì ở tách biệt với con cái).
Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 36 triệu người già trên 65 và cho tới năm 2050, con số các cụ cao niên sẽ tăng cỡ 86,7 triệu. Với số lượng người già cao như vậy, nhu cầu đòi hỏi thêm các viện dưỡng lão có dịch vụ chăm sóc y tế thường trực là điều tất yếu.
Tuy nhiên, việc chăm sóc người cao tuổi rất vất vả, đòi hỏi không chỉ chuyên môn cao mà quan trọng nhất là chữ “tâm” do hoạt động ở các viện dưỡng lão chủ yếu vẫn mang tính nhân đạo. Chính vì thế, nguồn nhân lực tình nguyện làm việc ở các viện dưỡng lão luôn trong tình trạng khan hiếm, dẫn đến việc khó có thể khắt khe trong quá trình tuyển dụng.
Nhà nước có thể giám sát các tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, trình độ nhân lực và quy trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại các viện dưỡng lão. Tuy nhiên, họ khó lòng kiểm soát được tình yêu thương và trách nhiệm của các điều dưỡng viên đối với người cao niên tại đây.
Theo một bài báo cáo về sự ngược đãi trong Viện dưỡng lão của phóng viên Vince Gonzales, đài CBS thì người Mỹ rất sợ phải vào viện dưỡng lão. Đó là nơi cuối cùng mà bất đắc dĩ họ phải đi vào. Hơn 1/4 số viện dưỡng lão tại Mỹ bị chỉ trích là làm gia tăng bệnh và tỷ lệ tử vong ở người cao niên. Ở bang California, chỉ có khoảng 2% các viện dưỡng lão được tin tưởng về khía cạnh đạo đức nghề nghiệp.
Năm 2009, Bruce Love – con trai của một quân nhân người Mỹ – đã phát hiện ra người mẹ 75 tuổi của mình là Helen Love bị điều dưỡng viên tại viện dưỡng lão bạo hành đến mức cơ thể bầm tím, chệch xương cổ và gãy cổ tay. Điều đáng nói là việc này bị viện dưỡng lão che giấu trong một thời gian dài; hơn nữa, điều dưỡng viên Tim Saelee được cấp chứng chỉ hành nghề và vẫn được tuyển dụng mặc dù trước đây từng dính líu vào một vụ bạo hành ở một viện dưỡng lão khác. Không lâu sau ca phẫu thuật, Helen qua đời. Hai người con trai Bruce và Gary từ đó luôn sống trong sự dày vò, ân hận. “Tôi luôn thấy mình tội lỗi, chính vì chúng tôi mà bà phải chịu đựng nỗi đau đớn như vậy.” – Bruce nói.
Việc bê bối của các Viện dưỡng lão không phải là vấn đề riêng của Mỹ mà nó cũng xảy ra ở các nước khác như Canada và Úc. Viện nghiên cứu thông tin y tế Canada cũng có những báo cáo cho biết, trong số những người già của Canada sống lâu dài tại viện dưỡng lão, có tới 44% mắc chứng trầm cảm, tình trạng thể chất và chất lượng cuộc sống đều không tốt đẹp.
Viện dưỡng lão bên Tây thế nào?
Rõ ràng viện dưỡng lão tại các nước phát triển phương Tây có thể cung cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản và quy trình chăm sóc sức khỏe được nghiên cứu kỹ lưỡng; tuy nhiên, những điều ấy chưa hẳn đã đủ để đảm bảo sức khỏe thể chất và tinh thần cho người cao tuổi. Trên hết, nó đòi hỏi một trái tim nhân hậu, lòng biết ơn thế hệ đi trước của những người làm công tác điều dưỡng và quản lý các viện dưỡng lão, các trung tâm chăm sóc sức khỏe người già.
Hàng ngày, dọc hành lang lối đi ở các viện dưỡng lão, người ta đều dễ dàng bắt gặp rất nhiều cụ còng lưng trên chiếc xe lăn ngồi hóng gió với nỗi cô đơn của tuổi già. Đây là nơi yêu thích nhất của các cụ, bởi lẽ đó là vị trí dễ nhìn thấy các con nhất nếu chúng lỡ có đến thăm.
Hồng Đào
Tuesday, August 27, 2019
Monday, August 26, 2019
một bằng cớ về công ơn trời biển của tq đối với đcsvn .
bộ đội ngồi trên xe molotova và xe đang kéo pháo cao xạ do tq sản xuất trong ngày chào mừng hà nội được giải phóng năm 1954 .
(quân đội pháp tại vn không dùng cao xạ , súng liên thanh lớn nhứt là 12.7 ly dùng cho bộ binh) .
các cao xạ này do tq chế tạo , dựa trên kiểu của lx , và đưa vào vn để dự trận đbp .
bộ đội ngồi trên xe molotova và xe đang kéo pháo cao xạ do tq sản xuất trong ngày chào mừng hà nội được giải phóng năm 1954 .
(quân đội pháp tại vn không dùng cao xạ , súng liên thanh lớn nhứt là 12.7 ly dùng cho bộ binh) .
các cao xạ này do tq chế tạo , dựa trên kiểu của lx , và đưa vào vn để dự trận đbp .
Sunday, August 25, 2019
Lùa Dân Đi Vùng Kinh Tế Mới tại Củ Chi ngày 16/04/1976
https://www.facebook.com/Duy1975/videos/2225043731052552/
Xem thêm:https://youtu.be/XTfaPAudpo8
https://www.facebook.com/Duy1975/videos/2225043731052552/
Xem thêm:https://youtu.be/XTfaPAudpo8
Saturday, August 24, 2019
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3559630844050716&set=pcb.3559632427383891&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARAAVMVM1XXMDYila0Fz8hNCIQvJZAfFTQBFElwrOhLjlSd7wyY2TFhvVfQlb93Ub0zfxXUeycNScrLs
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3559630844050716&set=pcb.3559632427383891&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARAAVMVM1XXMDYila0Fz8hNCIQvJZAfFTQBFElwrOhLjlSd7wyY2TFhvVfQlb93Ub0zfxXUeycNScrLs
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3561762180504249&set=pcb.3561771610503306&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBgFpYOXbdUI4FAmRKczhiUCK4UER3HRUbSpmHPRPANJBtuAHA5vTsrrl39bICa9PDVIhJxdTM84Vh7
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3561762180504249&set=pcb.3561771610503306&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARClYc0c75utUlDivU-E8J_TpqoMFSKT5B3tmcIMWsbf0OVGpb-i6PkpnPs6Zkuc44RMZWms0KQDikPT
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3563441183669682&set=pcb.3563400123673788&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARB_WUt4BR47omlY3aO0n9iTZoDrOmn5NUPlZVmUbtC95Xe2hv2ZojxqYeOQjqWwYaKaBmo4hktc_5uI
Wednesday, August 21, 2019
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3552741561406311&set=pcb.3552745251405942&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBv-FB7rx2DeYznLLMesS0ZoFYz-5KxF3D4YZJ_IcMjU94HMbotJv14QCsuVZPAZaVW96nprmvGRExz
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3552791588067975&set=pcb.3552792181401249&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARAOmUfJhYMD3qsz937cvlytg8V_luGrNMMGcec1GvVxWqiRAXt3M-XB_ea34SkU1YJVw1fQ2XHH4lQI
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3552747374739063&set=a.862986513715176&type=3&eid=ARAl_vbIfLMphNiSCOJKkBoMlvldVMmufETIDF2VKTeqfATvSVvXR0x2PE5jiTKXyMDltGajMj-O4ffT
Sunday, August 18, 2019
California có gì đặc biệt, so với phần còn lại của nước Mỹ?
Ở phía đông của bang này có rặng Sierra Nevada, dài trên 400 mile, chia cách phần lớn bang này với các bang phía đông của nó như Nevada, Utah, Colorado, v.v... (Do rặng/dãy này cao nên gần như phủ tuyết quanh năm nên được gọi là Sierra Nevada: vì sierra, rặng/dãy núi; nevada, tuyết).
Cũng nhờ rặng núi này, nên phần nào, khí hậu của Cali cũng khác với các bang này. Vì sát Thái Bình Dương nên Cali ko bị lạnh quá hay có khí hậu sa mạc (như Nevada hay Utah hay Arizona).
Do chịu ảnh hưởng của TBD nên khí hậu ôn hòa, gần như VỰA TRÁI CÂY (cornucopia) của nước Mỹ.
Và điều đặc biệt nhứt, vùng phía Bắc, từ San Francisco đến San Jose là trung tâm KỸ THUẬT CAO của nước Mỹ, hay của thế giới. Hầu như các phát minh về computer, về internet, v.v... đều xuất phát từ đây. Các đại gia về máy tính như Hewlett Parker, Apple hay internet như Google, Yahoo, Facebook, Twitter, eBay, Cisco, hay thiết bị máy tính như ổ cứng, thẻ nhớ Western Digital hay Crucial. Chỉ có hai đại gia Microsoft và Amazon, xé lẻ, đặt tại bang Washington.
Theo các nhà Lý Thuyết Số (Numerologist), Cali là nơi hội tụ của những người đã từng sống ở châu Atlantide. Châu này đã có nền KHKT vượt trội nhưng vì quá nhiều tội lỗi nên bị Thượng đế trừng phạt bằng cách gây động đất và nhấn chìm xuống biển cách đây hàng chục ngàn năm*. Phần chìm xuống biển nay là biển Đại Tây Dương (Atlantic Ocean).
Hồi năm 1994, khi tôi mới về SJ, các hãng điện tử mọc lên như nấm nên người tị nạn VN kéo đây để "chồng tách, vợ ly" (chồng làm technician, vợ làm assembly). Chỉ đến khoảng đầu thập niên 2000, khi "quả bóng" điện tử xì hơi, các hãng dời hết qua TQ.
* Được nói đến trong các sách cổ hay tôn giáo, mà rõ nhứt là sách của Pythagore.
Ở phía đông của bang này có rặng Sierra Nevada, dài trên 400 mile, chia cách phần lớn bang này với các bang phía đông của nó như Nevada, Utah, Colorado, v.v... (Do rặng/dãy này cao nên gần như phủ tuyết quanh năm nên được gọi là Sierra Nevada: vì sierra, rặng/dãy núi; nevada, tuyết).
Cũng nhờ rặng núi này, nên phần nào, khí hậu của Cali cũng khác với các bang này. Vì sát Thái Bình Dương nên Cali ko bị lạnh quá hay có khí hậu sa mạc (như Nevada hay Utah hay Arizona).
Do chịu ảnh hưởng của TBD nên khí hậu ôn hòa, gần như VỰA TRÁI CÂY (cornucopia) của nước Mỹ.
Và điều đặc biệt nhứt, vùng phía Bắc, từ San Francisco đến San Jose là trung tâm KỸ THUẬT CAO của nước Mỹ, hay của thế giới. Hầu như các phát minh về computer, về internet, v.v... đều xuất phát từ đây. Các đại gia về máy tính như Hewlett Parker, Apple hay internet như Google, Yahoo, Facebook, Twitter, eBay, Cisco, hay thiết bị máy tính như ổ cứng, thẻ nhớ Western Digital hay Crucial. Chỉ có hai đại gia Microsoft và Amazon, xé lẻ, đặt tại bang Washington.
Theo các nhà Lý Thuyết Số (Numerologist), Cali là nơi hội tụ của những người đã từng sống ở châu Atlantide. Châu này đã có nền KHKT vượt trội nhưng vì quá nhiều tội lỗi nên bị Thượng đế trừng phạt bằng cách gây động đất và nhấn chìm xuống biển cách đây hàng chục ngàn năm*. Phần chìm xuống biển nay là biển Đại Tây Dương (Atlantic Ocean).
Hồi năm 1994, khi tôi mới về SJ, các hãng điện tử mọc lên như nấm nên người tị nạn VN kéo đây để "chồng tách, vợ ly" (chồng làm technician, vợ làm assembly). Chỉ đến khoảng đầu thập niên 2000, khi "quả bóng" điện tử xì hơi, các hãng dời hết qua TQ.
* Được nói đến trong các sách cổ hay tôn giáo, mà rõ nhứt là sách của Pythagore.
Bà Angela Merkel : ảnh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3543946612285806&set=pcb.3543948352285632&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARAjqvCXghSOOc67DuWPux2CfoQ8itlAyXDrdfkagJvxkIxOBbg5zegiMknAiAJUDkYlTF6Fig_d65N1
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3543946612285806&set=pcb.3543948352285632&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARAjqvCXghSOOc67DuWPux2CfoQ8itlAyXDrdfkagJvxkIxOBbg5zegiMknAiAJUDkYlTF6Fig_d65N1
Dân Kirghiz (adj là kyrgyz) ở Kyrgyzstan, nói tiếng Turkic .
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3543925608954573&set=pcb.3543924272288040&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBZtpJSMZ44JL_wT1f0yh9DPgVZIV9yjoc303-PEriog6PJVqyoW34QCvcM-G52GS_8Wd_1VKDyvQfr
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3543925608954573&set=pcb.3543924272288040&type=3&__tn__=HH-R&eid=ARBZtpJSMZ44JL_wT1f0yh9DPgVZIV9yjoc303-PEriog6PJVqyoW34QCvcM-G52GS_8Wd_1VKDyvQfr
Văn sĩ tỉ phú Joanne Rowling
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3545597428787391&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARBckAOspxMhfl1cSnA64Vo8Tx-M2uHdp1AlMZEd6X-MNF9y26xReM2psEotvFjI8XRKiUwWVySlccr7
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3545597428787391&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARBckAOspxMhfl1cSnA64Vo8Tx-M2uHdp1AlMZEd6X-MNF9y26xReM2psEotvFjI8XRKiUwWVySlccr7
Friday, August 16, 2019
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3540134906000310&set=a.197514143595753&type=3&av=100000115071295&eav=AfbmgRHPY2HX-iBX0YudpOAYcs-iuG0S-P5jLAVbRqRM4h8_5iR8oQW2uHke5Zj40JQ&eid=ARASH-PKfrybmZYeeXFZwXMZO9WQ7XBnxvh1n4F9Q5itOVghOsXFIhKfX47RHj_Bbf4nBctmQHuIcIRC
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3537952386218562&set=a.862986513715176&type=3&eid=ARBQ9XUf0mg5nwiC7zV_lo-BsnlDdrkyrOGsunAZwdIIJJOE4wb3ROHJJkcCEAILzTcWz8bIT8Js6vkL
Giống nhau giữa cuộc chiến Mã Lai và VN
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3539312016082599&set=pcb.3539228056090995&type=3&av=100000115071295&eav=AfZ1fanNDqPekasW1VeKTAYGikGFrVD99Rac-daA8WsikWfh9d3wbeH3KrUwnEwiPqM&__tn__=HH-R-R&eid=ARAYCYUDNED6ffTpSdtPZAez4_FCwEH4CLLAzajTtjt_OteV9yJnh_dXuIvYgnMf08cy3eSsLDwRjJPS
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3539312016082599&set=pcb.3539228056090995&type=3&av=100000115071295&eav=AfZ1fanNDqPekasW1VeKTAYGikGFrVD99Rac-daA8WsikWfh9d3wbeH3KrUwnEwiPqM&__tn__=HH-R-R&eid=ARAYCYUDNED6ffTpSdtPZAez4_FCwEH4CLLAzajTtjt_OteV9yJnh_dXuIvYgnMf08cy3eSsLDwRjJPS
Thursday, August 15, 2019
Chuyện "ba câu hỏi khó của một nhà vua", do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại.
Tài Trần : Câu chuyện này chất chứa tinh thần của Thiền nghĩa là chỉ có GIỜ PHÚT HIỆN TẠI LÀ QUAN TRỌNG NHỨT vì ta ko thể biết điều gì sẽ xảy ra trong khoảnh sắp tới , còn quá khứ thì ko thể nào phục hồi được .
Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:
1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.
Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.
Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.
Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.
Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.
Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.
Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.
Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết.
Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia.
Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.
Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.
Nhà vua tới gần ông đạo và nói: "Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc ? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả ? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên ?"
Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo:
"Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".
Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.
Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.
Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.
Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt:
"Xin bệ hạ tha tội cho thần".
"Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?"
"Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa".
"Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".
"Xin bệ hạ tha tội cho thần".
"Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?"
"Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa".
"Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".
Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.
Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: "Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà".
Vua hỏi: "trả lời bao giờ đâu nào ?"
"Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ổng thì ổng sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: "chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu hay làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.
Labels:
ba câu hỏi của một nhà vua,
leon tolstoy,
nước nga,
thiền,
tolstoy
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=944098158937344&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARAK_NqeS8polUkHJ6nC7Qw4ewJCvXs8xhSz6mcpS-Zo1Tot_SXmBiQsXS2Mhq2E4RpesMXAq7QO4WJG
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=944477012232792&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARDBN8NsgeTvJmX20DV3-bPfXR0GnUkKtTMhroFo327-_5GOdw5FOySUE9DSGnPMNLY_-yUV5jqngPZL
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=944477012232792&set=a.197514143595753&type=3&eid=ARDBN8NsgeTvJmX20DV3-bPfXR0GnUkKtTMhroFo327-_5GOdw5FOySUE9DSGnPMNLY_-yUV5jqngPZL
Tuesday, August 13, 2019
Sau 69 năm, Người Phật Giáo Hòa Hảo vẫn chờ Thầy trở lại?
Tài liệu xác nhận rõ cái chết của Giáo chủ
Tài liệu xác nhận rõ cái chết của Giáo chủ
Mỗi năm cứ tới ngày Đức Thầy thọ nạn, người Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) tổ chức lễ tưởng nìệm tuy trong điều kiện vô cùng khó khăn vì nhắc tới Đức Thầy thọ nạn bị nhà cầm quyền cộng sản ngăn cấm. Khi làm lễ tượng niệm, tổ chức trong tư gia, họ vẫn bị cộng sản khủng bố, đàn áp thô bạo vì tội hội họp đông người không có phép. Nhưng vì lòng thương Thầy, mến Đạo, họ vẫn thách thức với cộng sản, vẫn tổ chức lễ trong vòng gia đình, với bà con lối xóm.
Đức Thầy thọ nạn năm Đinh Hợi, năm Bính Thân sẽ là năm thứ 69. Ngày nay, người Phật Giáo Hòa Hảo vẫn tin Thầy sẽ trở lại, ngồi chờ? Hay sẽ cùng đứng lên hành động, đòi công lý nếu biết chắc Đức Thầy đã bị cộng sản Hồ Chí Minh ám hại?
Công cuộc tranh đấu chống thực dân giành độc lập gồm có nhiều thành phần dân tộc đâu chỉ có riêng cộng sản. Vã lại, lúc bấy giờ, cộng sản hảy còn yếu hơn các lực lượng khác. Muốn giành quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh phải giết những người yêu nước thật sự mà không cộng sản, có uy tín trong xã hội, có tài giỏi hơn những người công sản. Giỏi hơn cả Hồ Chí Minh vạn lần.
Những xung đột đẩm máu giửa lực lượng Quốc gia và cộng sản
Xin nhắc sơ lược một vài biến cố của thời cuộc Việt nam từ năm 1945 để hiểu tại sao cộng sản câm thù PGHH và ra tay ám hại Giáo chủ.
Sau khi Nhựt bổn lật đổ chánh quyền Pháp tại Đông Dương, ngày 10-03-1945, nhà trí thức ái quốc Hồ văn Ngà thành lập Đảng Việt nam Quốc gia từ sự phối hợp với Đảng Nhân dân Cách mạng gồm có các nhà cách mạng ái quốc Phan Khắc Sửu, Võ Oanh, Trấn Quốc Bửu, Trần văn Ân, Ngô Đình Đẩu, Nguyễn văn Sâm,…
Ngày 12-03-1945, Hoàng Đế Bảo Đại ra tuyên cáo hủy bỏ tất cả Hiệp ước bất bình đẳng đã ký với Pháp ngày 6-6-1862 và ngày 15-08-1884. Hành động của Hoàng Đế Bảo Đại có hiệu lực pháp lý khôi phục nền độc lập dân tộc và sự thống nhứt đất nước.
Ngày 14-08-1945, hưởng ứng lời kêu gọi kết hợp lực lượng tranh đấu của nhà trí thức ái quốc Hồ văn Ngà, Giáo chủ PGHH, các nhân sĩ Trần văn Ân, Nguyễn văn Sâm, Trần văn Thạch,… liên kết các đảng phái để thành lập một tập hợp lớn «Mặt Trận Quốc Gia Thống nhứt».
Sau khi Nhựt bổn đầu hàng Đồng Minh, Triều tiên, Nam dương tuyên bố Độc lập. Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt vừa ra đời đã triệu tập một cuộc biểu tình tuần hành trên khắp các đường phố Sài gòn qui tụ cả 200 000 người tham dự, biểu dương một lực lượng quần chúng hùng hậu chào mừng Việt nam độc lập trước dư luận quốc tế và quốc nội.
Tháng 8 năm 1945, Nhựt bổn chọn trao trả Chánh quyền Nam kỳ cho Hội đồng Nam kỳ do nhơn sĩ Trần văn Ân làm Chủ tịch. Nhưng sau đó, ngày 22-08-1945, Việt Minh tổ chức biểu tình trước Nhà Hát lớn Hà nội và cướp Chánh quyền ở chánh phủ Trần Trọng Kim một cách an toàn vì Nhựt đã đầu hàng và Đồng Minh chưa tới. Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị để làm «Công dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị nô lệ».
Trong Nam, ngày 25-08-1945, Việt Minh cướp Chánh quyền bằng cách thành lập một thứ chánh quyền cách mạng theo kiểu cộng sản, Lâm Ủy Hành chánh Nam bộ, với 9 Ủy viên và Trần văn Giàu, cộng sản Đệ tam, tự phong Chủ tịch. Ngày 02-09-1945, Hà nội và Sài gòn đều biểu tình, tuyên bố Việt nam độc lập lần nữa. Hồ Chí Minh bổng nhiên xuất hiện trước đồng bào ở Hà nội và đọc Tuyên ngôn độc lập, tự cho mình Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 07-09-1945, các đảng phái Quốc gia và Nhóm Đệ Tứ phản đối quyết liệt, đả đảo Lâm Ủy Hành chánh độc đoán và thiếu lương thiện. Trần văn Giàu đã phải nhượng bộ, mở rộng sự tham dự tổ chức. Phạm văn Bạch thay Trần văn Giàu làm Chủ tịch, do 2 ông Dương văn Giáo và Trần văn Ân giới thiệu.
Ngày 08-09-1945, tại Cần thơ, tín đồ PGHH biểu tình hô hào chống «độc tài», ủng hộ Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt. Khẩu hiệu chống «độc tài» lúc bấy giờ của PGHH đưa ra thật hoàn toàn mời mẻ và xa lạ với ngôn ngữ tranh đấu của quần chúng việt nam, nhứt là nông dân Miền Đồng bằng sông Cữu long, làm cho cộng sản bị dị ứng mạnh.
Ngày 09-09-1945, Trần văn Giàu cho công an bao vây Trụ sở Việt nam Độc lập Vận động Hội của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ ở đường Miche, Sài gòn, để bắt Đức Thầy, nhưng không bắt được. Ngày 13-09-1945, công an của Trần văn Giàu do Lý Huê Vinh cầm đầu, bắt đầu khủng bố tiêu diệt những người tranh đấu chống Pháp không theo cộng sản như các Ông Vũ Tam Anh (Nguyễn Ngọc Nhẫn – " Tam Anh " là 3 chữ N), Hồ văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Lãnh tụ Đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu. Rìêng Hồ văn Ngà bị cộng sản giết ở Bạc liêu. Để giết ông, cộng sản lên án ông là «việt gian». Hồ văn Ngà bình tỉnh bảo với mấy người sẽ giết ông, một cách thật thà của người Nam kỳ «Mấy em có giết qua thì giết nhưng đừng nói qua là việt gian. Qua không bao giờ là việt gian hết».
Tù binh Pháp ở Sài gòn được Tướng Douglas Gracey của Anh thả ra và phát võ khí nói là để tự vệ, họ tấn công các vị trí quân sự và cơ sở Hành chánh của Nam bộ. Ngày 24-09-1945, bốn Sư đoàn Dân quân Cách mạng đồng loạt đứng lên với đồng bào các giới chống lại Pháp với đủ thứ vỏ khí cả võ khí thô sơ. Nam Bộ Kháng Chiến thật sự bắt đầu.
Ngày 25-09-1945, Lâm Ủy Hành chánh bị Tướng Gracey đuổi ra khỏi Dinh Gia Long, sau đó rút êm về Chợ Đệm, vùng quê hương của Nguyễn văn Trấn và Trần văn Giàu (Gò Đen). Ở lại Sài gòn, lực lượng Quốc gia gồm có các Ông Trần văn Ân, Nguyễn văn Sâm, Kha vạng Cân, Hồ văn Ngà tổ chức chống Pháp, phong tỏa Sài gòn, làm cho thành phố không điện, không nước, thiếu lương thực, …Dân chúng lớn tuổi, trẻ nít, được lịnh tảng cư.
Sài gòn-Chợ lớn gần như một thành phố chết, nhiều nơi chìm trong khói lửa. Pháp kêu gọi hưu chiến để hoản binh, chờ tiếp vận, nhứt là về lương thực. Lực lượng võ trang Bình Xuyên, Thanh niên Đoàn, lui về bố trí các yếu điểm chờ lịnh mới.
Lợi dụng tình hình hưu chiến, Việt Minh chui ra lùng bắt các nhà ái quốc, các đảng phái quốc gia, tiêu diệt để kháng chiến chỉ có lãnh đạo là cộng sản. Năm 1946, Trần văn Giàu bị điều động về Hà nội. Trên đường đi, Giàu ghé qua Thái lan để có thể nghe ngóng tình hình để đề phòng số phận. Tại đây, gặp lại Ông Trịnh Hưng Ngẫu, Giàu đưa cho ông xem một danh sách 2500 trí thức ở Miền nam không theo cộng sản mà Giàu phải giết mà chưa kịp giết hết (Lời tiết lộ của chính Trần văn Giàu với Ông Trịnh Hưng Ngẩu tại Bangkok, ngày 13-03-1946, trên đường về Hà nội, được Ông Trịnh Hưng Ngẩu thuật lại trong hồi ký của Ông tự xuất bản ở Sài gòn ngày 19-09-1973).
Cộng sản xung đột trực tiếp với PGHH
Xung đột giửa cộng sản và lực lượng Quốc gia ngày càng nghiêm trọng, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ thật lòng muốn tìm cách giải tỏa để giử sức mạnh chống Pháp. Trong phiên hợp với Lâm Ủy Hành chánh kéo dài, bổng Lý Huê Vinh tới đưa cho Trần văn Giàu bức điện tín báo tin «Hòa Hảo nổi dậy, đảo chánh chiếm chánh quyền Cần thơ». Giáo chủ PGHH phủ nhận, giải thích PGHH biểu tình, không võ trang, được phép của Chánh quyền Cần thơ, nhằm bày tỏ nguyện vọng «Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp, tẩy uế các phần tử thối nát trong Ủy Ban Hành chánh Nam bộ» . Cuộc biểu tình đông gần hai mươi ngàn tín đồ PGHH, biểu dương thanh thế cũng nhằm ủng hộ Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt. Trần văn Giàu không thể để cho một thế lực nào khác ngoài công sản lớn mạnh nên đã chủ trương đàn áp triệt để cuộc biểu tình và đã dìm tín đồ PGHH trong biển máu. Sau này, ở nhiêu nơi Miền tây, vào ngày 08-09, có nhiều nơi gần như cả làng cùng làm đám giổ thân nhân bị cộng sản sát hại trong cuộc biểu tình.
Vào đầu tháng 4-1947, các tổ chức chống Pháp phe Quốc gia cho di chuyển các đơn vị võ trang của Cao Đài, PGHH, Đại Việt, Bình Xuyên về chiếm đống Đồng Tháp Mười. Bị lực lượng của Nguyễn Bình phục kích ám hại trên đường đi nên chỉ có lực lượng PGHH và Đại Việt tới được vì thông thuộc đường đi. Kế hoặch chiếm đống Đồng Tháp Mười do đó không thực hiện được .
Biến cố ngày 16-04-1947
Ngày 16-04-1947 là thời điểm vô cùng trọng đại đối với toàn bộ khối tín đồ PGHH, ngày nay phải lên gần 7 triệu (phát triển theo dân số vì PGHH bao gồm cả gia đình) vì ngày đó, Giáo Chủ PGHH «vắng mặt».
Dư luận bên ngoài khối tín đồ cho rằng cộng sản đã ám hại Ngài. Nhưng người PGHH thì tin tưởng Thầy của họ chỉ tạm thời vắng mặt thôi. Hằng ngày, họ lo trao dồi «đời đạo song tu» để chờ ngày Thầy trở lại. Sự vắng mặt Giáo chủ đã dẩn đến tình trạng thiếu lãnh đạo của PGHH về cả mặt tôn giáo và tranh đấu giành độc lập cho Việt nam.
Từ đây người PGHH phải đối phó sanh tử cùng lúc với hai kẻ thù : Pháp và Việt Minh. Trước kia, họ chỉ chiến đấu với thực dân Pháp, và cảnh giác với người cùng chiến tuyến là Việt Minh. Nay thì họ phải chiến đấu với Việt Minh lẩn núp sát cánh, đang rình rập tiêu diệt họ bằng đủ mọi thủ đoạn gian ác, tàn độc học được từ Lê-nin và Staline.
Nhắc lại đêm 16-04-47, Giáo chủ PGHH, với tư cách Ủy viên Đặc biệt của Ủy Ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ, cương quyết đi tới sào huyệt của Việt minh tại làng Tân Phú, Tỉnh Long Xuyên, theo thư mời của Trần văn Nguyên, Đặc phái viên, kiêm Thanh tra Chánh trị Miền Tây Nam bộ, và Bữu Vinh, dự phiên họp với Ủy viên Quân sự và Thanh tra Chánh trị Miền tây của Việt Minh để tìm cách hóa giải những xung đột giửa các phe để có một sức mạnh đoàn kết cùng đánh thực dân. Buổi họp lúc bấy giờ thường diển ra ban đêm vì lý do an ninh, tránh bi Tây ruồng bố và oanh tạc. Trong buổi họp hôm đó, Việt Minh đã bố trí sẳn một toán Vệ Quốc đoàn võ trang phục kích bao quanh phòng họp, chờ lúc thuận lợi xả súng bắn thẳng vào Giáo chủ.
Theo tín đồ PGHH thì sau vụ ám hại có chủ mưu đó, Giáo chủ không chết vì còn viết thư trước mặt một tín đồ và sai người này mang thư về trao cho 2 ông chỉ huy Quân sự Nguyễn Giác Ngộ và Trần văn Soái. Bức thư viết tay của Đức Thầy được ông Mai văn Dậu kiểm tra nét chữ viết và chữ ký tên, xác nhận đúng là do Đức Thầy viết *.
Nhưng từ biến cố đó cho tới nay, Giáo chủ vẫn chưa trở lại dìu dắt tín đồ của Ngài. Vậy đúng là Ngài đã chết trong tay Việt Minh sát hại?
Những tài liệu nói về cái chết của Giáo chủ
Tết Bính Thân sẽ là năm thứ 69 Giáo chủ mất tích. Từ đó tới nay hoàn toàn không có một dấu hiệu nào về sự hiện diện của Ngài ở đâu đó. Trong lúc đó, về cái chết của Ngài, chánh quyền Pháp và cả cộng sản hà nội đã phổ biến những thông tin rất khả tín.
1 - Tài liệu của Pháp
Chánh quyền pháp có nhiều báo cáo của các cơ quan an ninh được Đại Tá Phòng Nhì Pháp, Ông Savani, năm 1951, tập họp và đúc kết thành một tập sách 162 trang cả phụ bản tài liệu dưới nhan đề «Những ghi chú về Giáo phái PGHH» (Notes sur la Secte PGHH, mã số 300 893 của thư viện CHEAM, Paris VI). Theo tài liệu này, Ban Thường vụ của Ủy Ban Hành chánh Nam Nộ, ngày 28/04/1947, lên án Giáo chủ PGHH phản động, Quyết định do Ông Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ, ký tên (mà không phải Chủ tịch là Phạm văn Bạch ký) :
1 – Ông Huỳnh Phú Sổ bị cách chức Ủy viên Đặc biệt của Nam bộ kể từ ngày ra Quyết định này,
2 - Giám đốc Tư Pháp có nhiệm vụ truy tố Ông Huỳnh Phú Sổ về tội phản động,
3 - Quyết định này sẽ gởi khẩn về Chánh phủ Trung ương,
4 - Ủy viên Nội vụ và Giám đốc Tư pháp, tùy theo nhiệm vụ của mình, nhận lãnh thi hành Quyết định này.
Gần một tháng sau, ngày 20 tháng 5 năm 1947, Ủy Ban Nam Bộ ra Thông Cáo về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và bản án của Ngài :
“Ban Chấp Hành nam Bộ thông báo với đồng bào những điều sau đây :
Trong buổi hợp bất thường ngày 25 tháng 4 năm 1947,Ban Chấp Hành Nam Bộ đã đề cử Một Tòa Án Đặc biệt cách chức Ủy viên Đặc biệt của Ông Huỳnh Phú Sổ và tuyên án tử hình Ông vì tôi phản động và âm mưu tạo bất ổn tại Miền Tây trong lúc mọi lực lượng nhân dân phải được bảo vệ để theo đuổi Kháng chiến.
“Ông ấy tổ chức cho riêng Ông những Toán võ trang, Cơ quan An ninh và Tòa Án đặc biệt giống như một Quốc gia trong một Quốc gia.
“Ông ra lịnh võ trang Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH.
“Ông ra lịnh cho Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH nổi dậy, bắt giết cán bộ Chánh phủ và dân chúng.
“Ông bí mật gởi lực lượng võ trang của Ông tới Miền Tây để bảo vệ và khuyến khích những người cướp bốc và gây bất ổn.
“Đảng viên Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH đã hợp tác với Quân đội Pháp để đánh lại Quân đội Chánh phủ và khủng bố đồng bào dân sự.
- Ông Huỳnh Phú Sổ đã bị hành quyết.
Bản văn do Ban Chấp Hành Nam Bộ ký chớ không phải do Chủ tịch hay Phó Chủ tịch ký.
Giáo chủ vắng mặt từ ngày 16/04/1947, tới ngày 20/05/1947 mới có tin chánh thức Ngài bị Tòa án của Nam Bộ Kháng chiến tuyên án và bản án được thi hành. Theo Đại tá Savani, trong «Notes sur la Secte PGHH», sau khi bị giết, thân xác của Ngài bị chặc ra làm 3 khúc, chôn ở 3 nơi khác nhau cách xa. Qua mấy ngày sau, công an cộng sản đào lên kiểm soát coi cả 3 khúc còn ở đó không vì họ sợ 3 phần của thân xác Ngài sẽ ráp lại và Ngài sống lại trở về tiếp tục hoạt động (trg 35-39).
Ngày 21 tháng 4, tức sau khi Giáo chủ bị cộng sản bắt, Giám đốc Công An Kiều Tân Lập, Thanh Tra Chánh trị Miền Tây Trần văn Nguyên, thay mặt Ban Chấp Hành và Ban Thường Vụ Nam Bộ ra lịnh cho các Cơ quan Hành chánh, Quân đội và Công An truy lùng và thanh toán Dân Xã Đảng ở khắp nơi bắt gặp, sử lý tùy theo sáng kiến của cán bộ.
Vậy phải chăng họ đã giết Ngài rồi mà chưa công bố?
2– Tài liệu của cộng sản Hà nội
Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, đảng viên cộng sản, hoạt động trong Quân đội Binh Xuyên, năm 1949, được Trung Uơng đưa về Miền Tây xâm nhập vào lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo làm Sư Thúc Hòa Hảo để vừa chia rẻ và lôi kéo tín đồ PGHH về theo cộng sản vì Giáo chủ đã bị họ sát hại, không còn người lãnh đạo nữa. Trí đóng quân tại Đình Quỳnh, Rạch giá. Một hôm Trí tiếp Bữu Vinh tại văn phòng. Tình cờ, Hồng Anh vào văn phòng Mười Trí, nhìn thấy chiếc đồng hồ vàng Bữu Vinh đang đeo trên tay. Đó là chiếc đồng hồ của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ từng đeo trước đây (Hồng Anh và Tư Đốc là cán binh võ trang PGHH đi theo Mười Trí).
Lập tức, Hồng Anh chạy ra ngoài tìm Tư Đốc để hỏi có nhớ chiếc đồng hồ của Thầy không? Tư Đốc trả lời không nhớ, chỉ nhớ đó là chiếc đồng hồ vàng mà thôi.
Hồng Anh quả quyết là đống hồ của Thầy. Vậy chính Bữu Vinh đã giết Thầy và sau đó đoạt đồng hồ của Thầy. Hồng Anh phải giết Bữu Vinh trả thù Thầy.
Tư Đốc cản Hồng Anh đừng làm ngay để chờ anh ta coi lại. Tư Đốc vào văn phòng Mười Trí phụ dọn cơm đải khách để có cơ hội quan sát kỷ.
Tư Đốc nhìn thấy khẫu súng lục nhỏ xíu mà trước đây Gìáo chủ thường dấu trong người. Đúng là khẫu sủng của Giáo chủ.
Đồng hồ, cay súng là hai tang vật không còn chối cải được nữa. Nhưng khi biết chuỳện, Mười Trí liền can thiệp. Trí xác nhận Bữu Vinh là người bắt Huỳnh Phú Sổ nhưng giết thì không phải 1 người mà là nhiều người đã bìểu quyết lấy quyết định giết (Ngưyên Hùng, Sư Thúc Hòa Hảo, nxb Tổng Hợp Hậu Giang, 1990, trg 325,326, 327).
Vậy Việt Minh cộng sản đã giết Huỳnh Giáo chủ.
Điện tín về cái chết của Giáo chủ PGHH
Chúng tôi có được những thông tin quan trọng này do một người Mỹ làm nghiên cứu ở Đại học Madison về Hà nội (Trung Tâm Lưu Trử Quốc gia IV – Hà nội, Phông (Fond) : Ủy Ban Kháng chiến Nam Bộ), tìm tài liệu lịch sử việt nam trong giai đoạn 45-75 gởi cho. Dưới đây, chúng tôi chép lại 3 bức điện liên quan tới PGHH và Giáo chủ :
«Dan xa Cantho da phan dong bat nhon vien chanh phu nap cho dich lay muoi thuoc vai o Traon nap hai xe VM stop Chem VQQ khi dan xep ho da dao HCM stop TU lap hanh cahnh cong an hoi te stop VQQ da dung vo luc de doi pho voi bon qua khich giet nguoi do ket qua do mau stop Yeu cau UBHC NB cho biet thai do doi voi UV Dac biet cua Nam bo stop
17 / 04 - Uy Ban Hanh Chanh Longxuyen goi Uy Vien Noi Vu
Chung toi da bat Huynh Phu So stop Dang giam tai van phong quan su stop Noi vu cho biet phai dua ve Nam bo hay cho tinh quyen xu tai cho stop Bang chung phan quoc da ro ret STOP Xin tra loi cap toc stop
20 / 04 - UY BAN HANH CHANH LGX goi UBHC NAM BO
Duoc cong dien 117/CD chung toi pahi tuan theo nhung toan luc da dem di tieu quan phien loan Phat giao dang muu doat Thay chung va lun bat chung toi phai tron tranh ngay dem nen chi co the lam theo cau chot cua cong dien stop”.
Điều 3 của Quyết định bắt Giáo chủ PGHH và 2 bức công điện ngày 17 và 20/04 nói rỏ cộng sản Việt Minh trong Nam bắt và giết Giáo chủ PGHH, chớ không phải việc làm tự chuyên của cán bộ địa phương trong tình hình bất ổn, như cộng sản hà nội thường giải thích. Trái lại, việc sát hại Huỳnh Giáo chủ có liên lạc đều đặng với Trung Ương Nam Bộ và báo cáo đầy đủ ra Hà nội. Hồ Chí Minh phải biết. Vả lại, không ngoài chủ trương của Hồ Chí Minh phải tiêu diệt những người tranh đấu ái quốc không cộng sản để giành độc quyền lãnh đạo kháng chiến. Không chỉ lúc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh tìm cách thanh toán các tổ chức khác không cộng sản, mà sau 75, cộng sản cũng tập trung tiêu dìệt hàng ngũ lãnh đạo PGHH từ cấp địa phương tới Trung ương vì họ sợ PGHH nổi dậy trả thù Thầy.
Trong Luận văn tốt nghiệp ngành nghiệp vụ Trinh sát của Trường đại học An ninh, Bộ Nội vụ, Thiếu tướng Huỳnh Hữu Chiến nhận xét về hiễm họa thực tế của khối PGHH :
“Huỳnh Phú Sổ cho lập Đảng Dân Xã, một tổ chức phản động làm rường cột chủ yếu để nắm PGHH. Cho xây dựng lực lượng quân sự Hòa Hảo để xử dụng chống cách mạng. Lập hệ thống Ban TRị sự để cai trị tín đồ PGHH, ý đồ của Huỳnh Phú Sổ là lợi dụng PGHH, dựa vào đế quóc đánh đổ cộng sản, xây dựng Nam Bộ thành Vương quốc Hòa Hảo do Sổ làm thủ lĩnh.” ( Thiếu tướng Huỳnh Hữu Chiến, Hoạt động lợi dụng PGHH của địch nhằm chống lại chính quyền nhân dân trên địa bàn tỉnh An Giang và công tác đấu tranh của công an tỉnh An Giang từ năm 1975 – 1990, trg 3/40).
Việt Minh giết Giáo chủ vì lo sợ Dân Xã Đảng sẽ cùng với các Tổ chức khác nắm quyền lãnh đạo kháng chiến ở Nam bộ trong lúc Việt Minh còn yếu . Dân Xã Đảng sẽ là một đảng mạnh vì PGHH lúc bấy giờ có trên 2 triệu tín đồ mà mỗi tín đồ là một đảng viên thực thụ hay tìm lực. Về chủ trương, Dân Xã Đảng đưa ra lý thuyết «Dân chủ Xã hội» là một lý thuyết hoàn toàn mới mẻ lúc bấy giờ, nhưng lại phù hợp với giáo lý Tứ Ân của PGHH mà «Ân Đồng bào và Nhân loại» vốn là nền tảng của tư tưởng dân chủ xã hội mà ngày nay nhiều quốc gia tiên tiến như ở Bắc Âu đang áp dụng.
Ngoài ra, về chủ trương tiêu diệt PGHH của cộng sản hà nội, một ký giả người Nga có trao cho ông Như Phong Lê văn Tiến, ký giả báo Mỹ (Times, Newsweek, nay đã mất ở Mỹ), một bản tin nói rỏ «Chánh quyền Hà nội ban hành chỉ thị phải tiêu diệt triệt để PGHH trong vòng 10 năm, từ 1978-1988». Sau khi lùng bắt, thủ tiêu một số Cán bộ Ban Trị Sự, cộng sản nhận thấy số tín đồ, nhứt là thành phần trẻ đã không giảm, mà còn gia tăng. Chưa mản 10 năm, công sản đã phải hủy bỏ kế hoặch này.
Từ sau 30/04/75, cộng sản vẫn kiểm soát, khủng bố tín đồ PGHH, ngăn cấm triệt để mọi sanh hoạt tôn giáo, lưu hành kinh sách, tịch thu các cơ sở văn hóa xã hội của PGHH và biến mục tiêu sử dụng có tính cách sỉ nhục.
Năm 2000, tín đồ cương quyết tổ chức kỷ niệm 60 năm lập Đạo, không phụ thuộc vào chánh quyền. Thấy không thể ngăn cản được – theo cách “giết không được, tha làm phước” - chánh quyền cho thành lập Ban Trị Sự Lâm thời với ông Mười Tôn, người địa phương, đảng viên cộng sản tập kết về, làm Chủ tịch, để chánh thức tham dự lễ. Hà nội đã không ngờ đã có hơn triệu rưởi lược người đi về dự lễ (Reuter, BBC việt ngữ, RFA việt ngữ, cùng loan báo).
Giờ đây, chánh quyền cộng sản hà nội vẫn chưa cho PGHH lập lại những Độc Giảng Đường để phổ biến giáo lý, chưa hoàn trả những cơ sở vật chất tịch thâu trái phép.
Trước đây, khi vận động giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đi ra ngoại quốc và ôm về kinh sách của Nga Tàu để đảng cộng sản học tập và làm theo, rước về xứ những cố vấn Nga, cố vấn Tàu chỉ đạo chánh trị để Việt nam sẽ từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, lột xác không còn Việt nam nữa. Trong lúc đó, Giáo chủ PGHH đi vào lòng nông dân Miền Tây, vận động sức mạnh của nông dân để đánh đuổi thực dân cho Việt nam độc lập.
Ngày nay, người tín đồ PGHH có đầy đủ chánh nghĩa để đòi công lý cho Giáo chủ và PGHH. Giáo chủ mất tích là tội phạm hoàn toàn ở đảng cộng sản vì tính cách liên tục pháp lý. Các cơ sở vật chất phải trả lại cho PGHH. Quyền hành đạo của 7 triệu tín đồ phải được phục hồi trọn vẹn.
Trường hợp chủ trương tiêu diệt PGHH là tội chống nhân loại điển hình của cộng sản hà nội. Mà tội chống nhơn loại là tội bất khả thời tiêu.
Thầy đã chết vì bị cộng sản sát hại. Ngày nay, người PGHH vẫn kiên trì bất động chờ Thầy hay phải đứng lên hành động, hỏi tội đảng cộng sản « Tại sao giết Thầy chúng tôi?».
Phụ bản
Ghi chú :
* Theo Thành Nam trích dẩn của Vương Kim, PGHH trong dòng lịch sử Dân tộc, Đuốc Từ Bi xuất bản, Cal, huê kỳ, 1991, trg 433.
* Tôi hỏi Ông Phạm Ngọc Thuần (người ký tên Quyết định ngày 28/04/4, nay đã mất) trong một buổi gặp nhau ăn cơm trưa tại nhà Ông Đinh văn Hoàng, nguyên Giáo sư, Phó Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Sài gòn (vừa mất hôm tháng 03/2011 tại Antony, ngoại ô Tây-Nam Paris),ở Le BlancMesnil, ngoại ô Đông-Bắc Paris, về bản văn trên, Ông Thuần trả lời là ông hoàn toàn không biết bản văn ấy trước khi được phổ biến. Nó được họ làm sẳn và ký tên Ông rồi cho phổ biến. Tôi hỏi theo Ông, Hồ Chí Minh có ra lệnh không?
Phạm Ngọc Thuần : Hồ Chí Minh không ra lệnh đi nữa thì cũng phải biết chuyện này.
** Tôi có được các tài liệu trên đây từ năm 1985. Có gởi cho Ông Thành Nam sử dụng khi Ông biên khảo “PGHH trong dòng lịch sử Dân tộc”.
Nay tôi mới phổ biến vì trưóc giờ tôi giử lòng kính trọng sự tin tưởng của đồng bào tín đồ PGHH về “Đức Thầy tạm vắng mặt, sẽ trở về”.
Đức Thầy thọ nạn năm Đinh Hợi, năm Bính Thân sẽ là năm thứ 69. Ngày nay, người Phật Giáo Hòa Hảo vẫn tin Thầy sẽ trở lại, ngồi chờ? Hay sẽ cùng đứng lên hành động, đòi công lý nếu biết chắc Đức Thầy đã bị cộng sản Hồ Chí Minh ám hại?
Công cuộc tranh đấu chống thực dân giành độc lập gồm có nhiều thành phần dân tộc đâu chỉ có riêng cộng sản. Vã lại, lúc bấy giờ, cộng sản hảy còn yếu hơn các lực lượng khác. Muốn giành quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh phải giết những người yêu nước thật sự mà không cộng sản, có uy tín trong xã hội, có tài giỏi hơn những người công sản. Giỏi hơn cả Hồ Chí Minh vạn lần.
Những xung đột đẩm máu giửa lực lượng Quốc gia và cộng sản
Xin nhắc sơ lược một vài biến cố của thời cuộc Việt nam từ năm 1945 để hiểu tại sao cộng sản câm thù PGHH và ra tay ám hại Giáo chủ.
Sau khi Nhựt bổn lật đổ chánh quyền Pháp tại Đông Dương, ngày 10-03-1945, nhà trí thức ái quốc Hồ văn Ngà thành lập Đảng Việt nam Quốc gia từ sự phối hợp với Đảng Nhân dân Cách mạng gồm có các nhà cách mạng ái quốc Phan Khắc Sửu, Võ Oanh, Trấn Quốc Bửu, Trần văn Ân, Ngô Đình Đẩu, Nguyễn văn Sâm,…
Ngày 12-03-1945, Hoàng Đế Bảo Đại ra tuyên cáo hủy bỏ tất cả Hiệp ước bất bình đẳng đã ký với Pháp ngày 6-6-1862 và ngày 15-08-1884. Hành động của Hoàng Đế Bảo Đại có hiệu lực pháp lý khôi phục nền độc lập dân tộc và sự thống nhứt đất nước.
Ngày 14-08-1945, hưởng ứng lời kêu gọi kết hợp lực lượng tranh đấu của nhà trí thức ái quốc Hồ văn Ngà, Giáo chủ PGHH, các nhân sĩ Trần văn Ân, Nguyễn văn Sâm, Trần văn Thạch,… liên kết các đảng phái để thành lập một tập hợp lớn «Mặt Trận Quốc Gia Thống nhứt».
Sau khi Nhựt bổn đầu hàng Đồng Minh, Triều tiên, Nam dương tuyên bố Độc lập. Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt vừa ra đời đã triệu tập một cuộc biểu tình tuần hành trên khắp các đường phố Sài gòn qui tụ cả 200 000 người tham dự, biểu dương một lực lượng quần chúng hùng hậu chào mừng Việt nam độc lập trước dư luận quốc tế và quốc nội.
Tháng 8 năm 1945, Nhựt bổn chọn trao trả Chánh quyền Nam kỳ cho Hội đồng Nam kỳ do nhơn sĩ Trần văn Ân làm Chủ tịch. Nhưng sau đó, ngày 22-08-1945, Việt Minh tổ chức biểu tình trước Nhà Hát lớn Hà nội và cướp Chánh quyền ở chánh phủ Trần Trọng Kim một cách an toàn vì Nhựt đã đầu hàng và Đồng Minh chưa tới. Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị để làm «Công dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị nô lệ».
Trong Nam, ngày 25-08-1945, Việt Minh cướp Chánh quyền bằng cách thành lập một thứ chánh quyền cách mạng theo kiểu cộng sản, Lâm Ủy Hành chánh Nam bộ, với 9 Ủy viên và Trần văn Giàu, cộng sản Đệ tam, tự phong Chủ tịch. Ngày 02-09-1945, Hà nội và Sài gòn đều biểu tình, tuyên bố Việt nam độc lập lần nữa. Hồ Chí Minh bổng nhiên xuất hiện trước đồng bào ở Hà nội và đọc Tuyên ngôn độc lập, tự cho mình Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 07-09-1945, các đảng phái Quốc gia và Nhóm Đệ Tứ phản đối quyết liệt, đả đảo Lâm Ủy Hành chánh độc đoán và thiếu lương thiện. Trần văn Giàu đã phải nhượng bộ, mở rộng sự tham dự tổ chức. Phạm văn Bạch thay Trần văn Giàu làm Chủ tịch, do 2 ông Dương văn Giáo và Trần văn Ân giới thiệu.
Ngày 08-09-1945, tại Cần thơ, tín đồ PGHH biểu tình hô hào chống «độc tài», ủng hộ Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt. Khẩu hiệu chống «độc tài» lúc bấy giờ của PGHH đưa ra thật hoàn toàn mời mẻ và xa lạ với ngôn ngữ tranh đấu của quần chúng việt nam, nhứt là nông dân Miền Đồng bằng sông Cữu long, làm cho cộng sản bị dị ứng mạnh.
Ngày 09-09-1945, Trần văn Giàu cho công an bao vây Trụ sở Việt nam Độc lập Vận động Hội của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ ở đường Miche, Sài gòn, để bắt Đức Thầy, nhưng không bắt được. Ngày 13-09-1945, công an của Trần văn Giàu do Lý Huê Vinh cầm đầu, bắt đầu khủng bố tiêu diệt những người tranh đấu chống Pháp không theo cộng sản như các Ông Vũ Tam Anh (Nguyễn Ngọc Nhẫn – " Tam Anh " là 3 chữ N), Hồ văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Lãnh tụ Đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu. Rìêng Hồ văn Ngà bị cộng sản giết ở Bạc liêu. Để giết ông, cộng sản lên án ông là «việt gian». Hồ văn Ngà bình tỉnh bảo với mấy người sẽ giết ông, một cách thật thà của người Nam kỳ «Mấy em có giết qua thì giết nhưng đừng nói qua là việt gian. Qua không bao giờ là việt gian hết».
Tù binh Pháp ở Sài gòn được Tướng Douglas Gracey của Anh thả ra và phát võ khí nói là để tự vệ, họ tấn công các vị trí quân sự và cơ sở Hành chánh của Nam bộ. Ngày 24-09-1945, bốn Sư đoàn Dân quân Cách mạng đồng loạt đứng lên với đồng bào các giới chống lại Pháp với đủ thứ vỏ khí cả võ khí thô sơ. Nam Bộ Kháng Chiến thật sự bắt đầu.
Ngày 25-09-1945, Lâm Ủy Hành chánh bị Tướng Gracey đuổi ra khỏi Dinh Gia Long, sau đó rút êm về Chợ Đệm, vùng quê hương của Nguyễn văn Trấn và Trần văn Giàu (Gò Đen). Ở lại Sài gòn, lực lượng Quốc gia gồm có các Ông Trần văn Ân, Nguyễn văn Sâm, Kha vạng Cân, Hồ văn Ngà tổ chức chống Pháp, phong tỏa Sài gòn, làm cho thành phố không điện, không nước, thiếu lương thực, …Dân chúng lớn tuổi, trẻ nít, được lịnh tảng cư.
Sài gòn-Chợ lớn gần như một thành phố chết, nhiều nơi chìm trong khói lửa. Pháp kêu gọi hưu chiến để hoản binh, chờ tiếp vận, nhứt là về lương thực. Lực lượng võ trang Bình Xuyên, Thanh niên Đoàn, lui về bố trí các yếu điểm chờ lịnh mới.
Lợi dụng tình hình hưu chiến, Việt Minh chui ra lùng bắt các nhà ái quốc, các đảng phái quốc gia, tiêu diệt để kháng chiến chỉ có lãnh đạo là cộng sản. Năm 1946, Trần văn Giàu bị điều động về Hà nội. Trên đường đi, Giàu ghé qua Thái lan để có thể nghe ngóng tình hình để đề phòng số phận. Tại đây, gặp lại Ông Trịnh Hưng Ngẫu, Giàu đưa cho ông xem một danh sách 2500 trí thức ở Miền nam không theo cộng sản mà Giàu phải giết mà chưa kịp giết hết (Lời tiết lộ của chính Trần văn Giàu với Ông Trịnh Hưng Ngẩu tại Bangkok, ngày 13-03-1946, trên đường về Hà nội, được Ông Trịnh Hưng Ngẩu thuật lại trong hồi ký của Ông tự xuất bản ở Sài gòn ngày 19-09-1973).
Cộng sản xung đột trực tiếp với PGHH
Xung đột giửa cộng sản và lực lượng Quốc gia ngày càng nghiêm trọng, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ thật lòng muốn tìm cách giải tỏa để giử sức mạnh chống Pháp. Trong phiên hợp với Lâm Ủy Hành chánh kéo dài, bổng Lý Huê Vinh tới đưa cho Trần văn Giàu bức điện tín báo tin «Hòa Hảo nổi dậy, đảo chánh chiếm chánh quyền Cần thơ». Giáo chủ PGHH phủ nhận, giải thích PGHH biểu tình, không võ trang, được phép của Chánh quyền Cần thơ, nhằm bày tỏ nguyện vọng «Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp, tẩy uế các phần tử thối nát trong Ủy Ban Hành chánh Nam bộ» . Cuộc biểu tình đông gần hai mươi ngàn tín đồ PGHH, biểu dương thanh thế cũng nhằm ủng hộ Mặt Trận Quốc gia Thống nhứt. Trần văn Giàu không thể để cho một thế lực nào khác ngoài công sản lớn mạnh nên đã chủ trương đàn áp triệt để cuộc biểu tình và đã dìm tín đồ PGHH trong biển máu. Sau này, ở nhiêu nơi Miền tây, vào ngày 08-09, có nhiều nơi gần như cả làng cùng làm đám giổ thân nhân bị cộng sản sát hại trong cuộc biểu tình.
Vào đầu tháng 4-1947, các tổ chức chống Pháp phe Quốc gia cho di chuyển các đơn vị võ trang của Cao Đài, PGHH, Đại Việt, Bình Xuyên về chiếm đống Đồng Tháp Mười. Bị lực lượng của Nguyễn Bình phục kích ám hại trên đường đi nên chỉ có lực lượng PGHH và Đại Việt tới được vì thông thuộc đường đi. Kế hoặch chiếm đống Đồng Tháp Mười do đó không thực hiện được .
Biến cố ngày 16-04-1947
Ngày 16-04-1947 là thời điểm vô cùng trọng đại đối với toàn bộ khối tín đồ PGHH, ngày nay phải lên gần 7 triệu (phát triển theo dân số vì PGHH bao gồm cả gia đình) vì ngày đó, Giáo Chủ PGHH «vắng mặt».
Dư luận bên ngoài khối tín đồ cho rằng cộng sản đã ám hại Ngài. Nhưng người PGHH thì tin tưởng Thầy của họ chỉ tạm thời vắng mặt thôi. Hằng ngày, họ lo trao dồi «đời đạo song tu» để chờ ngày Thầy trở lại. Sự vắng mặt Giáo chủ đã dẩn đến tình trạng thiếu lãnh đạo của PGHH về cả mặt tôn giáo và tranh đấu giành độc lập cho Việt nam.
Từ đây người PGHH phải đối phó sanh tử cùng lúc với hai kẻ thù : Pháp và Việt Minh. Trước kia, họ chỉ chiến đấu với thực dân Pháp, và cảnh giác với người cùng chiến tuyến là Việt Minh. Nay thì họ phải chiến đấu với Việt Minh lẩn núp sát cánh, đang rình rập tiêu diệt họ bằng đủ mọi thủ đoạn gian ác, tàn độc học được từ Lê-nin và Staline.
Nhắc lại đêm 16-04-47, Giáo chủ PGHH, với tư cách Ủy viên Đặc biệt của Ủy Ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ, cương quyết đi tới sào huyệt của Việt minh tại làng Tân Phú, Tỉnh Long Xuyên, theo thư mời của Trần văn Nguyên, Đặc phái viên, kiêm Thanh tra Chánh trị Miền Tây Nam bộ, và Bữu Vinh, dự phiên họp với Ủy viên Quân sự và Thanh tra Chánh trị Miền tây của Việt Minh để tìm cách hóa giải những xung đột giửa các phe để có một sức mạnh đoàn kết cùng đánh thực dân. Buổi họp lúc bấy giờ thường diển ra ban đêm vì lý do an ninh, tránh bi Tây ruồng bố và oanh tạc. Trong buổi họp hôm đó, Việt Minh đã bố trí sẳn một toán Vệ Quốc đoàn võ trang phục kích bao quanh phòng họp, chờ lúc thuận lợi xả súng bắn thẳng vào Giáo chủ.
Theo tín đồ PGHH thì sau vụ ám hại có chủ mưu đó, Giáo chủ không chết vì còn viết thư trước mặt một tín đồ và sai người này mang thư về trao cho 2 ông chỉ huy Quân sự Nguyễn Giác Ngộ và Trần văn Soái. Bức thư viết tay của Đức Thầy được ông Mai văn Dậu kiểm tra nét chữ viết và chữ ký tên, xác nhận đúng là do Đức Thầy viết *.
Nhưng từ biến cố đó cho tới nay, Giáo chủ vẫn chưa trở lại dìu dắt tín đồ của Ngài. Vậy đúng là Ngài đã chết trong tay Việt Minh sát hại?
Những tài liệu nói về cái chết của Giáo chủ
Tết Bính Thân sẽ là năm thứ 69 Giáo chủ mất tích. Từ đó tới nay hoàn toàn không có một dấu hiệu nào về sự hiện diện của Ngài ở đâu đó. Trong lúc đó, về cái chết của Ngài, chánh quyền Pháp và cả cộng sản hà nội đã phổ biến những thông tin rất khả tín.
1 - Tài liệu của Pháp
Chánh quyền pháp có nhiều báo cáo của các cơ quan an ninh được Đại Tá Phòng Nhì Pháp, Ông Savani, năm 1951, tập họp và đúc kết thành một tập sách 162 trang cả phụ bản tài liệu dưới nhan đề «Những ghi chú về Giáo phái PGHH» (Notes sur la Secte PGHH, mã số 300 893 của thư viện CHEAM, Paris VI). Theo tài liệu này, Ban Thường vụ của Ủy Ban Hành chánh Nam Nộ, ngày 28/04/1947, lên án Giáo chủ PGHH phản động, Quyết định do Ông Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ, ký tên (mà không phải Chủ tịch là Phạm văn Bạch ký) :
1 – Ông Huỳnh Phú Sổ bị cách chức Ủy viên Đặc biệt của Nam bộ kể từ ngày ra Quyết định này,
2 - Giám đốc Tư Pháp có nhiệm vụ truy tố Ông Huỳnh Phú Sổ về tội phản động,
3 - Quyết định này sẽ gởi khẩn về Chánh phủ Trung ương,
4 - Ủy viên Nội vụ và Giám đốc Tư pháp, tùy theo nhiệm vụ của mình, nhận lãnh thi hành Quyết định này.
Gần một tháng sau, ngày 20 tháng 5 năm 1947, Ủy Ban Nam Bộ ra Thông Cáo về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và bản án của Ngài :
“Ban Chấp Hành nam Bộ thông báo với đồng bào những điều sau đây :
Trong buổi hợp bất thường ngày 25 tháng 4 năm 1947,Ban Chấp Hành Nam Bộ đã đề cử Một Tòa Án Đặc biệt cách chức Ủy viên Đặc biệt của Ông Huỳnh Phú Sổ và tuyên án tử hình Ông vì tôi phản động và âm mưu tạo bất ổn tại Miền Tây trong lúc mọi lực lượng nhân dân phải được bảo vệ để theo đuổi Kháng chiến.
“Ông ấy tổ chức cho riêng Ông những Toán võ trang, Cơ quan An ninh và Tòa Án đặc biệt giống như một Quốc gia trong một Quốc gia.
“Ông ra lịnh võ trang Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH.
“Ông ra lịnh cho Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH nổi dậy, bắt giết cán bộ Chánh phủ và dân chúng.
“Ông bí mật gởi lực lượng võ trang của Ông tới Miền Tây để bảo vệ và khuyến khích những người cướp bốc và gây bất ổn.
“Đảng viên Dân Xã Đảng và tín đồ PGHH đã hợp tác với Quân đội Pháp để đánh lại Quân đội Chánh phủ và khủng bố đồng bào dân sự.
- Ông Huỳnh Phú Sổ đã bị hành quyết.
Bản văn do Ban Chấp Hành Nam Bộ ký chớ không phải do Chủ tịch hay Phó Chủ tịch ký.
Giáo chủ vắng mặt từ ngày 16/04/1947, tới ngày 20/05/1947 mới có tin chánh thức Ngài bị Tòa án của Nam Bộ Kháng chiến tuyên án và bản án được thi hành. Theo Đại tá Savani, trong «Notes sur la Secte PGHH», sau khi bị giết, thân xác của Ngài bị chặc ra làm 3 khúc, chôn ở 3 nơi khác nhau cách xa. Qua mấy ngày sau, công an cộng sản đào lên kiểm soát coi cả 3 khúc còn ở đó không vì họ sợ 3 phần của thân xác Ngài sẽ ráp lại và Ngài sống lại trở về tiếp tục hoạt động (trg 35-39).
Ngày 21 tháng 4, tức sau khi Giáo chủ bị cộng sản bắt, Giám đốc Công An Kiều Tân Lập, Thanh Tra Chánh trị Miền Tây Trần văn Nguyên, thay mặt Ban Chấp Hành và Ban Thường Vụ Nam Bộ ra lịnh cho các Cơ quan Hành chánh, Quân đội và Công An truy lùng và thanh toán Dân Xã Đảng ở khắp nơi bắt gặp, sử lý tùy theo sáng kiến của cán bộ.
Vậy phải chăng họ đã giết Ngài rồi mà chưa công bố?
2– Tài liệu của cộng sản Hà nội
Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, đảng viên cộng sản, hoạt động trong Quân đội Binh Xuyên, năm 1949, được Trung Uơng đưa về Miền Tây xâm nhập vào lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo làm Sư Thúc Hòa Hảo để vừa chia rẻ và lôi kéo tín đồ PGHH về theo cộng sản vì Giáo chủ đã bị họ sát hại, không còn người lãnh đạo nữa. Trí đóng quân tại Đình Quỳnh, Rạch giá. Một hôm Trí tiếp Bữu Vinh tại văn phòng. Tình cờ, Hồng Anh vào văn phòng Mười Trí, nhìn thấy chiếc đồng hồ vàng Bữu Vinh đang đeo trên tay. Đó là chiếc đồng hồ của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ từng đeo trước đây (Hồng Anh và Tư Đốc là cán binh võ trang PGHH đi theo Mười Trí).
Lập tức, Hồng Anh chạy ra ngoài tìm Tư Đốc để hỏi có nhớ chiếc đồng hồ của Thầy không? Tư Đốc trả lời không nhớ, chỉ nhớ đó là chiếc đồng hồ vàng mà thôi.
Hồng Anh quả quyết là đống hồ của Thầy. Vậy chính Bữu Vinh đã giết Thầy và sau đó đoạt đồng hồ của Thầy. Hồng Anh phải giết Bữu Vinh trả thù Thầy.
Tư Đốc cản Hồng Anh đừng làm ngay để chờ anh ta coi lại. Tư Đốc vào văn phòng Mười Trí phụ dọn cơm đải khách để có cơ hội quan sát kỷ.
Tư Đốc nhìn thấy khẫu súng lục nhỏ xíu mà trước đây Gìáo chủ thường dấu trong người. Đúng là khẫu sủng của Giáo chủ.
Đồng hồ, cay súng là hai tang vật không còn chối cải được nữa. Nhưng khi biết chuỳện, Mười Trí liền can thiệp. Trí xác nhận Bữu Vinh là người bắt Huỳnh Phú Sổ nhưng giết thì không phải 1 người mà là nhiều người đã bìểu quyết lấy quyết định giết (Ngưyên Hùng, Sư Thúc Hòa Hảo, nxb Tổng Hợp Hậu Giang, 1990, trg 325,326, 327).
Vậy Việt Minh cộng sản đã giết Huỳnh Giáo chủ.
Điện tín về cái chết của Giáo chủ PGHH
Chúng tôi có được những thông tin quan trọng này do một người Mỹ làm nghiên cứu ở Đại học Madison về Hà nội (Trung Tâm Lưu Trử Quốc gia IV – Hà nội, Phông (Fond) : Ủy Ban Kháng chiến Nam Bộ), tìm tài liệu lịch sử việt nam trong giai đoạn 45-75 gởi cho. Dưới đây, chúng tôi chép lại 3 bức điện liên quan tới PGHH và Giáo chủ :
«Dan xa Cantho da phan dong bat nhon vien chanh phu nap cho dich lay muoi thuoc vai o Traon nap hai xe VM stop Chem VQQ khi dan xep ho da dao HCM stop TU lap hanh cahnh cong an hoi te stop VQQ da dung vo luc de doi pho voi bon qua khich giet nguoi do ket qua do mau stop Yeu cau UBHC NB cho biet thai do doi voi UV Dac biet cua Nam bo stop
17 / 04 - Uy Ban Hanh Chanh Longxuyen goi Uy Vien Noi Vu
Chung toi da bat Huynh Phu So stop Dang giam tai van phong quan su stop Noi vu cho biet phai dua ve Nam bo hay cho tinh quyen xu tai cho stop Bang chung phan quoc da ro ret STOP Xin tra loi cap toc stop
20 / 04 - UY BAN HANH CHANH LGX goi UBHC NAM BO
Duoc cong dien 117/CD chung toi pahi tuan theo nhung toan luc da dem di tieu quan phien loan Phat giao dang muu doat Thay chung va lun bat chung toi phai tron tranh ngay dem nen chi co the lam theo cau chot cua cong dien stop”.
Điều 3 của Quyết định bắt Giáo chủ PGHH và 2 bức công điện ngày 17 và 20/04 nói rỏ cộng sản Việt Minh trong Nam bắt và giết Giáo chủ PGHH, chớ không phải việc làm tự chuyên của cán bộ địa phương trong tình hình bất ổn, như cộng sản hà nội thường giải thích. Trái lại, việc sát hại Huỳnh Giáo chủ có liên lạc đều đặng với Trung Ương Nam Bộ và báo cáo đầy đủ ra Hà nội. Hồ Chí Minh phải biết. Vả lại, không ngoài chủ trương của Hồ Chí Minh phải tiêu diệt những người tranh đấu ái quốc không cộng sản để giành độc quyền lãnh đạo kháng chiến. Không chỉ lúc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh tìm cách thanh toán các tổ chức khác không cộng sản, mà sau 75, cộng sản cũng tập trung tiêu dìệt hàng ngũ lãnh đạo PGHH từ cấp địa phương tới Trung ương vì họ sợ PGHH nổi dậy trả thù Thầy.
Trong Luận văn tốt nghiệp ngành nghiệp vụ Trinh sát của Trường đại học An ninh, Bộ Nội vụ, Thiếu tướng Huỳnh Hữu Chiến nhận xét về hiễm họa thực tế của khối PGHH :
“Huỳnh Phú Sổ cho lập Đảng Dân Xã, một tổ chức phản động làm rường cột chủ yếu để nắm PGHH. Cho xây dựng lực lượng quân sự Hòa Hảo để xử dụng chống cách mạng. Lập hệ thống Ban TRị sự để cai trị tín đồ PGHH, ý đồ của Huỳnh Phú Sổ là lợi dụng PGHH, dựa vào đế quóc đánh đổ cộng sản, xây dựng Nam Bộ thành Vương quốc Hòa Hảo do Sổ làm thủ lĩnh.” ( Thiếu tướng Huỳnh Hữu Chiến, Hoạt động lợi dụng PGHH của địch nhằm chống lại chính quyền nhân dân trên địa bàn tỉnh An Giang và công tác đấu tranh của công an tỉnh An Giang từ năm 1975 – 1990, trg 3/40).
Việt Minh giết Giáo chủ vì lo sợ Dân Xã Đảng sẽ cùng với các Tổ chức khác nắm quyền lãnh đạo kháng chiến ở Nam bộ trong lúc Việt Minh còn yếu . Dân Xã Đảng sẽ là một đảng mạnh vì PGHH lúc bấy giờ có trên 2 triệu tín đồ mà mỗi tín đồ là một đảng viên thực thụ hay tìm lực. Về chủ trương, Dân Xã Đảng đưa ra lý thuyết «Dân chủ Xã hội» là một lý thuyết hoàn toàn mới mẻ lúc bấy giờ, nhưng lại phù hợp với giáo lý Tứ Ân của PGHH mà «Ân Đồng bào và Nhân loại» vốn là nền tảng của tư tưởng dân chủ xã hội mà ngày nay nhiều quốc gia tiên tiến như ở Bắc Âu đang áp dụng.
Ngoài ra, về chủ trương tiêu diệt PGHH của cộng sản hà nội, một ký giả người Nga có trao cho ông Như Phong Lê văn Tiến, ký giả báo Mỹ (Times, Newsweek, nay đã mất ở Mỹ), một bản tin nói rỏ «Chánh quyền Hà nội ban hành chỉ thị phải tiêu diệt triệt để PGHH trong vòng 10 năm, từ 1978-1988». Sau khi lùng bắt, thủ tiêu một số Cán bộ Ban Trị Sự, cộng sản nhận thấy số tín đồ, nhứt là thành phần trẻ đã không giảm, mà còn gia tăng. Chưa mản 10 năm, công sản đã phải hủy bỏ kế hoặch này.
Từ sau 30/04/75, cộng sản vẫn kiểm soát, khủng bố tín đồ PGHH, ngăn cấm triệt để mọi sanh hoạt tôn giáo, lưu hành kinh sách, tịch thu các cơ sở văn hóa xã hội của PGHH và biến mục tiêu sử dụng có tính cách sỉ nhục.
Năm 2000, tín đồ cương quyết tổ chức kỷ niệm 60 năm lập Đạo, không phụ thuộc vào chánh quyền. Thấy không thể ngăn cản được – theo cách “giết không được, tha làm phước” - chánh quyền cho thành lập Ban Trị Sự Lâm thời với ông Mười Tôn, người địa phương, đảng viên cộng sản tập kết về, làm Chủ tịch, để chánh thức tham dự lễ. Hà nội đã không ngờ đã có hơn triệu rưởi lược người đi về dự lễ (Reuter, BBC việt ngữ, RFA việt ngữ, cùng loan báo).
Giờ đây, chánh quyền cộng sản hà nội vẫn chưa cho PGHH lập lại những Độc Giảng Đường để phổ biến giáo lý, chưa hoàn trả những cơ sở vật chất tịch thâu trái phép.
Trước đây, khi vận động giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đi ra ngoại quốc và ôm về kinh sách của Nga Tàu để đảng cộng sản học tập và làm theo, rước về xứ những cố vấn Nga, cố vấn Tàu chỉ đạo chánh trị để Việt nam sẽ từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, lột xác không còn Việt nam nữa. Trong lúc đó, Giáo chủ PGHH đi vào lòng nông dân Miền Tây, vận động sức mạnh của nông dân để đánh đuổi thực dân cho Việt nam độc lập.
Ngày nay, người tín đồ PGHH có đầy đủ chánh nghĩa để đòi công lý cho Giáo chủ và PGHH. Giáo chủ mất tích là tội phạm hoàn toàn ở đảng cộng sản vì tính cách liên tục pháp lý. Các cơ sở vật chất phải trả lại cho PGHH. Quyền hành đạo của 7 triệu tín đồ phải được phục hồi trọn vẹn.
Trường hợp chủ trương tiêu diệt PGHH là tội chống nhân loại điển hình của cộng sản hà nội. Mà tội chống nhơn loại là tội bất khả thời tiêu.
Thầy đã chết vì bị cộng sản sát hại. Ngày nay, người PGHH vẫn kiên trì bất động chờ Thầy hay phải đứng lên hành động, hỏi tội đảng cộng sản « Tại sao giết Thầy chúng tôi?».
Phụ bản
Ghi chú :
* Theo Thành Nam trích dẩn của Vương Kim, PGHH trong dòng lịch sử Dân tộc, Đuốc Từ Bi xuất bản, Cal, huê kỳ, 1991, trg 433.
* Tôi hỏi Ông Phạm Ngọc Thuần (người ký tên Quyết định ngày 28/04/4, nay đã mất) trong một buổi gặp nhau ăn cơm trưa tại nhà Ông Đinh văn Hoàng, nguyên Giáo sư, Phó Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Sài gòn (vừa mất hôm tháng 03/2011 tại Antony, ngoại ô Tây-Nam Paris),ở Le BlancMesnil, ngoại ô Đông-Bắc Paris, về bản văn trên, Ông Thuần trả lời là ông hoàn toàn không biết bản văn ấy trước khi được phổ biến. Nó được họ làm sẳn và ký tên Ông rồi cho phổ biến. Tôi hỏi theo Ông, Hồ Chí Minh có ra lệnh không?
Phạm Ngọc Thuần : Hồ Chí Minh không ra lệnh đi nữa thì cũng phải biết chuyện này.
** Tôi có được các tài liệu trên đây từ năm 1985. Có gởi cho Ông Thành Nam sử dụng khi Ông biên khảo “PGHH trong dòng lịch sử Dân tộc”.
Nay tôi mới phổ biến vì trưóc giờ tôi giử lòng kính trọng sự tin tưởng của đồng bào tín đồ PGHH về “Đức Thầy tạm vắng mặt, sẽ trở về”.
Monday, August 12, 2019
Những ngày tù chung với ông Đạo Dừa
* Viết theo lời kể của Joseph Cao ở Paris để tặng những chiến sĩ can trường của đất nước.
Tôi biết về ông Đạo Dừa rất ít.
Trước kia, có một dạo tôi hiểu lầm ông. Nói hiểu lầm thì không đúng lắm: Tôi đã đánh giá sự đấu tranh của ông một cách phiến diện, hời hợt. Tôi được biết ông tên Nguyễn Thành Nam, một nhà trí thức tân tiến, đỗ bằng kỹ sư Canh Nông ở Pháp, có tinh thần ái quốc cao. Ông thành tài về nước, không làm việc cho Pháp, dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc. Vào thuở tôi còn mài đũng quần nơi những lớp trung học Pháp, tên tuổi của ông đã lẫy lừng, tương lai rạng ngời hào quang. Người Pháp ở Đông Dương rất ưu đãi dân thuộc địa thông thạo Pháp ngữ. Từ các công sở đến tòa án, hễ ai nói thông được tiếng Pháp kể như nắm được chiếc chìa khóa vàng trong tay, vào cửa nào cũng thông cũng lọt. Huống chi đối với những nhà khoa bảng xuất thân từ những đại học ở "chánh quốc" áo gấm về nước! Với cái tài ấy, cái thế ấy, giá khéo luồn lọt một tí, làm gì chẳng thừa miếng đỉnh chung?
Nhưng ông kỹ sư Nam ấy lại không đem cái tài học của ông làm việc cho Pháp. Ông cũng không dùng cái vốn liếng văn hóa Tây phương gây lợi cá nhân, cho có được vợ đẹp con ngoan, cho có trang trại giàu sang trưởng giả, hoặc khai khẩn dinh điền màu mỡ cò bay thẳng cánh... Ông đã rũ bỏ cảnh phồn hoa quyến rũ, dứt lìa văn minh vật chất ông có thể thụ hưởng thừa thãi, để về một cồn vắng... trèo lên ngồi trên ngọn cây dừa mà tu, và thành là ông Đạo Dừa!
Tôi từng nghe mấy người anh bà con, cùng ở Pháp về chuyến tàu với ông, không ngớt bàn tán về hành động ấy của ông:
- Kỹ sư Nam ở Bến Tre tính gì thế? Toan làm chính trị? Hay muốn chóng nổi danh?
- Hắn bất hợp tác với nhà cầm quyền ư? Chủ trương tranh đấu bất bạo động như thánh Gandhi bên Ấn Độ à? Bối cảnh chính trị ở Việt Nam khác xa với bên ấy lắm cơ mà!
- Hay hắn lập dị? Cũng muốn tỏ ra ta đây anh hùng cách mạng?
Tôi nghe nói mà chán ngắt cho mấy ông anh họ ấy. Họ còn ham thụ hưởng, có dám dấn thân như thế đâu. Cũng có kẻ xu thời, làm chính trị sa lông. Thứ chánh trị không tốn kém gì, không hy sinh nguy hiểm gì, mà lại được tiếng là kẻ thức thời.
Tôi là lớp trẻ vừa trưởng thành, vừa mới hiểu biết, trong thập niên 30-40. Chúng tôi thường thao thức theo tiếng gọi thức tỉnh của hồn nước, của các bậc tiền bối yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, ông Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ... Và cái chết oanh liệt của các bậc anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học, Ký Con...đã khơi dậy lòng yêu nước khắp nơi.
Chúng tôi sống trong ký túc xá, giữa bốn bức tường kín học đường, song cũng biết được đại khái những hoạt động của các ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Hồ Văn Ngà... và vô số nhà trí thức Trung Nam Bắc... đã không chạy theo vinh hoa phú quý thuở bấy giờ mà lại dấn thân làm quốc sự. Những quyển sách quốc cấm như Phan Đình Phùng, Con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Giặc Cờ Vàng... được chúng tôi lén lút chuyền tay nhau, nửa đêm chun vào cầu tiêu, xem mê mệt không thôi. Phong Trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục với những tổ chức đưa thanh niên du học nước ngoài, những trường bí mật đào tạo nhân tài đất nước đã nhiều đêm là mộng trắng canh trường của lòng trai háo hức dấn thân vào phiêu lưu của chúng tôi. Chúng tôi không còn lòng học hành nữa. Cái học trong nước, dẫu đến cao đẳng, cũng chỉ để làm nô lệ. Chúng tôi từng chứng kiến, căm hờn và ứa lệ, khi trông thấy đang trong giờ giảng bài, vị giáo sư đáng kính mến bỗng bị lính kính, mật thám Pháp vào lớp, xích tay lại dẫn ra xe...
Giữa cái buổi giao thời đặc biệt ấy của đất nước, bọn thực dân cai trị cố tình bên trên đè ép xuống, dân chúng ở dưới ngộp ngạt trôi mình, có một số thanh niên Tây học, đâm ra hoang mang mất hướng. Một số bỏ sở làm lương to, đi lên núi Cấm tu hành, hoặc toan luyện bùa phép chống lại súng đạn, hoặc toan tìm hậu duệ các tiền bối kháng Pháp thời xưa? Một số lại ủy mị hơn, tìm quên lãng hận mất nước trong làn khói phù dung! Một số tìm đường trốn ra nước ngoài, cố sao móc nối được một anh thủy thủ ngoại quốc có tàu buông neo ở Nhà Rồng, năn nỉ sao cho anh ta thương tình dấu dưới hầm tầu để đi được thoát. Nếu rủi ra khơi rồi mà thuyền trưởng hay được, bất quá hắn xiềng chân lại, chờ đến một bến cảng nào đó thì tống khứ lên bờ, miễn đừng trong thuộc địa của Pháp thôi, là cũng sướng đời rồi! Tuy không nói nhiều ngoại ngữ, chỉ biết tiếng Pháp rất hạn chế trong thương trường quốc tế, nhưng những thanh niên mạo hiểm vẫn tin tưởng ở sức lực và bàn tay tháo vát của mình để có thể kiếm được cái ăn qua buổi, miễn không ngửa tay xin ăn. Mà dù không kiếm sống được, chết đói xứ lạ là cùng, còn hơn sống nô lệ nơi quê nhà vốn nổi tiếng vựa lúa Châu Á!
Tôi có một số bạn bắt mối được với một bạn thủy thủ tàu buôn Pháp, bọn này đòi 50 đồng mới cho xuống tàu. Ba đứa đều là học sinh, còn trong cảnh cơm cha áo mẹ, làm sao có đến một số bạc to lớn như thế? Bán cả đồ đạc, quyên góp khắp bạn bè mãi mới được 40 đồng, định sẽ năn nỉ xin bớt, chắc bọn chúng cũng chịu, nhưng khi đem tiền ra bến, hỡi ôi, con tàu buôn hôm nọ đã nhổ neo, ra lòng sông Sài Gòn rồi!
Sở dĩ tôi nói lên việc này là để cùng quý bạn hình dung lại thời điểm ấy của những công dân Việt Nam, như dòng sông Cửu Long đợt sóng này nối tiếp đợt sóng khác, đã ý thức được những việc cần phải làm của người bị trị. Quyền yêu nước không phải ở một người, ở một đảng phái nào. Bây giờ, người ta tha hồ tô hồng, chuốt lục lịch sử đảng họ. Bẻ cong cả lịch sử. Phủ nhận công ơn của những người ngoài đảng ta! Các văn sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa tán tụng tận mây xanh về việc đi tìm đường cứu nước của "bác", làm như chỉ có "bác" của họ mới độc đáo đi nước ngoài. Ở Sài Gòn, có một dinh thự to tát và tráng lệ của thực dân Pháp bỏ lại bến Nhà Rồng, đáng lẽ thuộc về nhân dân đang thiếu nhà ở, thì đảng lại làm thành ngôi nhà kỷ niệm nơi xuất xứ đi ra nước ngoài của lãnh tụ. Để thờ những vật vớ vẩn! Sao không thờ bao nhiêu bậc tiền hiền cách mạng trước "bác" hoặc đồng thời với "bác", tài ba hơn và sự hy sinh cống hiến nhiều hơn?
Cổ nhân bảo: luận anh hùng, chớ luận vào thành công hay thất bại, phải luận vào sự tiên phong khởi đầu. Những người thắp sáng, những nhà khai hoang, trong lãnh vực thương nước yêu nòi mới thực hiển hách. Cũng như nơi tuyến đầu, người lính trước tiên nhận diện được quân thù mà cảnh giác cho bạn đồng ngũ, dù có bị bắn ngã chết, vẫn giữ công đầu! Tổ quốc Việt Nam không quên ơn những người con ấy. Dầu hiện nay, họ bị bôi nhọ, hay xuyên tạc. Trong số đó có ông Đạo Dừa. Với một năm ở tù chung ở khám Cần Thơ, tôi mới thật sự biết ông. Khâm phục ông nhẫn nại, kiên quyết và bất khuất hơn người.
Trước kia, tôi chỉ biết ông có chí hướng hơn người. Ông tìm con đường tranh đấu riêng. Ông không theo phe này, lập hội kín nọ. Ông làm cách mạng quần chúng. Lấy số đông dân chúng làm hậu thuẫn. Ông pha màu tôn giáo vào chính trị, và ông đã khởi xướng lên một mình. Một loại tôn giáo hòa đồng. Thực chất là lấy tình thương bao la để khuyến dụ và cảm hóa mọi người. Ông đã gặt hái ít nhiều thành công. Lúc bấy giờ, tôi vẫn còn cho ông là một con người đáng tôn kính, song có phần lập dị.
Nhân một dạo, tôi có dịp đi đò máy từ bến bắc Rạch Miễu sang tỉnh lỵ Bến Tre, khi con đò chạy ngang qua một cái cồn đất nọ, người đi đò cùng trầm trồ trỏ tay bảo:
- Ông Đạo Dừa ngồi trên đọt dừa đó, thấy không? Ổng ngồi mấy năm nay rồi. Mặc nắng mưa, trưa tối!
Một bà lão già nói bằng giọng cung kính:
- Ai cũng tưởng ổng chịu không nổi, mà chết rồi! Nhưng người ta vẫn thấy ông ngồi trơ trơ đó. Mà ông phải nhà nghèo hèn gì, con nhà giàu sang, danh giá. Vậy mà ông lại đi tu. Nói là để độ đời!
Tôi hỏi lại:
- Tây để cho ông làm như vậy sao? Ông ra vẻ chống đối như vậy, bỉ mặt cho người Pháp ở Đông Dương lắm.
- Mèn ơi, họ bắt ổng giam vô tù mấy lần. Ổng tịnh khẩu, không thèm nói chuyện. Nhưng viết giấy hỏi Tây là ổng có tội gì mà bị bắt? Đụng chạm nhân quyền sao đó! Tây cãi không lại lý của ổng, phải thả ổng ra. Ổng lại trèo lên cây dừa mà ngồi. Tây giận lắm, sai người đốn bỏ cây dừa của ổng. Mất cây dừa đó, ổng lại trèo lên cây dừa khác. Mèn ơi, ai trông thấy ổng trèo dừa mà hổng thương đứt ruột! Tây lại sai người đốn dừa nữa, ổng lại ngồi trên cây khác. Đốn hết dừa cù lao này, thì ổng sang qua cù lao kia. Bến Tre là xứ dừa mà. Không lẽ Tây đốn hết dừa của tỉnh? Thằng Tây đành chịu thua ổng luôn.
- Rồi ổng ăn gì?
- Ổng chỉ uống nước dừa, có khi ăn thêm vài trái chuối để sống. Vậy nên người ta mới kêu ổng là ông Đạo Dừa.
- Thời buổi lộn xộn, ổng ngồi hoài như vậy, không sợ nguy hiểm?
- Ổng hổng sợ. Mà dân cũng thương ổng, ngấm ngầm bảo vệ cho ổng.
- Ổng tịnh khẩu hoài, không mở miệng nói chuyện? Không thuyết pháp sao? Vậy làm sao truyền đạo?
- Ổng không nói. Chỉ viết ra trên giấy. Nói chuyện cũng bằng giấy tờ. Vậy mà đệ tử đông lắm. Ở khắp nơi, đâu cũng có. Cả ở Lục tỉnh, ở miền Trung nữa. Vì đạo của ông tốt một cái là thờ kính ông bà, tôn trọng lễ nghĩa và ăn ở hòa mục với mọi người.
Tôi chăm chú nhìn lên ngọn dừa khi phà chạy ngang mé cồn. Trên ngọn một cây dừa cao, một hình bóng người nhỏ thó, mặc áo vải vàng, ngồi thu lu trên một giạt bằng cây to, trông thấy bấp bênh lơ lửng. Trời trưa nắng như hun đốt, mắt nhìn lên lóe sao. Thế mà bóng người nọ vẫn ngồi xếp bằng an tọa, tịnh nhiên. Ông ngồi như thế đã mấy năm trời? Gương kiên nhẫn của ông thật đáng phục!
Tôi vì bận việc ở Bến Tre, đến xế chiều mới xuống phà trở sang tỉnh Mỹ Tho. Ông Đạo Dừa vẫn ngồi trên ngọn dừa nơi cồn đất nọ. Ngọn gió chiều thổi lộng lòng sông rộng. Cây dừa trông từ xa thấy chao đảo. Thế nhưng ông đạo vẫn ngồi bằng an, tâm tư vắng lặng vào cõi hư vô nào? Hay ông đang nghiền ngẫm một thế cờ hay để giải thoát cho đất nước, cho con người? Bên kia bờ tỉnh lỵ Mỹ Tho đang sáng choang ánh đèn phồn hoa, lại có tiếng ca nhạc từ đài phát thanh nào đó phát ra âm điệu xa vời quyến rũ, mê ly. Như tất cả giục giã con người đừng hoài phí tuổi xuân, cứ quyện hồn vào những hoan lạc, say sưa... Tôi bất giác ngước nhìn hình bóng ông Đạo Dừa ngồi nơi hoang tịch nọ. Cái bóng dáng gầy còm của người trí thức ngậm câm tiếng nói ấy lại có một sức mạnh huyền vi rọi xuống lương tâm con người. Cảnh giác người đời đừng mê bả béo mồi thơm mà quên hờn mất nước!
Sau đó, tôi bị kẹt! Mãi lâu sau tôi mới lại có dịp về miệt Tiền Giang. Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường những người đàn ông có, đàn bà có, già có, trẻ có, mặc quần áo bằng vải màu vàng hoặc màu già, áo thì là áo bà ba gài nút ở giữa hay là vạt miễng, có người để tóc dài chít khăn màu vàng. Những người ấy ăn nói lễ phép, từ tốn và thân thiện. Tôi hỏi ra mới biết đấy là đệ tử của ông Đạo Dừa. Ông Đạo chủ trương hòa đồng tôn giáo. Ông thờ các bậc sáng thế. Phật Thích Ca ông cũng trọng, Chúa Ki Tô ông cũng kính, cả đến Lão Tử ông cũng theo, Khổng Tử ông cũng học... Tất cả các vị có lòng từ bi, bác ái, yêu thương nhân loại, xả thân vì chúng sanh, ông đều phụng thờ. Đó là tình thương yêu phải học tập, phải noi theo. Đệ tử của ông rải rác khắp nơi. Họ hành đạo và truyền đạo với lòng tin vững chắc, dù phải gặp rất nhiều khó khăn, cả những hiểm nguy. Vì trong cái thế giới nhiễu nhương, còn lắm người nhắm mắt chạy theo thế lực kim tiền, thì trái tim thương yêu của người thiện lương dù mở rộng mấy cũng ít có người cảm thông. Rồi sau đó, tôi lại gặp một số đệ tử của ông Đạo Dừa trong cảnh nhà tù! Hỏi đến Thầy họ, Thầy họ chắc cũng bị cầm giữ đâu đó. Họ vẫn không rời chiếc áo bà ba vạc miễng của họ. Sau lưng áo, họ vẽ hai chữ Tu Tù thật lớn. Họ lặng thinh, không nói gì. Ai muốn hiểu sao hiểu. Có thể bảo là vì tu nên mới bị tù. Có thể có nghĩa ở tù vẫn cứ tu. Lại có nghĩa lấy việc ở tù làm công quả học thành đạo. Theo họ, họ bảo tu cho đất nước hòa bình, con người thương yêu con người hơn. Chỉ có tình thương yêu mới khai trừ họa chiến tranh. Chỉ có tình thương yêu, mới san sớt đồng đều, mới thông cảm nhau, không cần đấu tranh giai cấp!
Tôi hỏi người đệ tử của ông Đạo Dừa:
- Nghe nói Thầy anh muốn làm người hòa giải?
- Phải. Cậu Hai yêu nước thương dân, không nỡ nhìn triệu triệu thanh niên ở hai phía bị nướng thiêu trong nạn nồi da xáo thịt. Chiến tranh đã hơn ba mươi năm, dân chúng điêu linh, xã hội tàn hoại, đất nước nghèo khổ lắm rồi, sao người ta lại không chịu ngưng tay?
- Thấy anh tin là hai bên có thể ngồi lại với nhau?
- Cậu Hai tin ai cũng có lòng yêu nước thật sự. Lòng yêu nước đứng trên quyền lợi của bè cánh, đảng phái.
- Và Thầy anh tin "bác Hồ" sẽ từ bỏ đảng cộng sản? Hay đặt quyền lợi của đảng, của Nga Sô, của Trung cộng ra ngoài để cứu nước cứu dân?
- Nếu ông Hồ yêu nước, ông phải làm như vậy!
Tôi khẽ thở dài:
- Thầy anh chủ trương tốt, nhưng tình hình chính trị phức tạp lắm, lại thêm lòng dạ tham lam của con người, tham vọng của quốc tế... Không như việc Thầy anh nuôi con mèo chung với con chuột một lồng...
- Thú vật còn biết dung nhau, con người lại không thể sao? Việc nước nhà mình đã đến lúc mình phải tính với nhau, không cần đến anh Mỹ, anh Nga, anh Tàu chen vào nếu họ không có thiện chí giúp đỡ!
- Tôi sợ Thầy anh ôm mãi cái không tưởng ấy. Giá mà thành được như thế, người dân Việt nào lại không thích?
Về sau, tôi lại nghe tin ông Đạo Dừa trở về Cồn Phụng, tức là cái cồn đất ông trèo lên ngồi trên cây dừa mấy mươi năm về trước. Khi ấy cồn đã có đông dân cư tụ tập. Nhà ở khang trang. Dân tình dễ sống. Có văn hóa. Có tình người. Có trật tự. Có cả mấy người Mỹ tu ở đấy. Ai trông thấy tướng đi lênh khênh của họ trong bộ quần áo bà ba màu vàng may rộng khổ mà vẫn thấy túm bó, với đôi bàn chân đi đất rón rén của họ, đều phải che miệng cười. Nhưng là cái cười đầy thiện cảm, thân ái. Họ gặp ai cũng chắp tay cúi đầu, nói trọ trẹ:
- Chào ông!... Chào bà!... Chào anh!... Chào chị!... Mạnh giỏi!
Nơi Cồn Phụng còn treo một biểu ngữ to Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Đó là một câu sấm xưa từ mấy trăm năm, mà người ta cho là trong bài sấm Trạng Trình, tiên đoán về hậu vận nước nhà. Nhưng không ai hiểu câu sấm ấy ứng vào thời kỳ nào? Sao không đánh nhau mà thành? Và cái thành ấy có lợi cho phe nào? Tôi thầm nghĩ ông Đạo Dừa đưa lên câu biểu ngữ để kêu gọi ngưng chiến.
Nơi bến cồn có đậu một chiếc tàu sắt mà ông Đạo Dừa cho trang trí theo mỹ thuật Việt Nam và đặt tên là thuyền Bát Nhã. Trên con thuyền rộng lớn ấy, nơi phía trước, ông bầy ra nhiều hàng ghế sắt cho du khách ngồi. Nhiều phái đoàn ngoại quốc đến phỏng vấn ông, thu băng, quay phim. Ông ngồi nơi chiếc ghế đặt phía trước, có hai đệ tử đứng hai bên. Chính hai đệ tử nọ trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới biên vào giấy cho họ phát biểu thêm những chi tiết.
Tôi đến nhằm lúc hết giờ phỏng vấn, nhưng cũng được đệ tử của ông nói về chánh kiến của đạo. Ông nhận ra tôi, chỉ mỉm cười. Nụ cười hiền hòa và thân thiết. Ông vẫn không ngớt tay lẫy những hột bắp, để sau đó tự ông nấu lấy ăn. Trước kia ông chỉ uống nước dừa. Dạo sau này, vì làm việc nhiều, vì đệ tử khuyên lơn, ông mới ăn thêm buổi ngọ (buổi trưa) bằng bắp nấu. Tôi trông thấy ông gầy ốm quá, thân hình nhỏ thó, đôi tay khẳng khiu, mặt thỏn như trẻ nít, song đôi mắt tinh anh sáng rực khác thường. Các phóng viên truyền hình ngoại quốc không ngớt tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục trước một ông già ốm tong teo như cây sậy mà lại có một mãnh lực chịu đựng kiên cường. Tự ông làm ra thức ăn cho ông, tuy rằng đệ tử của ông rất đông. Nếu ông để cho họ phục dịch, chắc họ sung sướng lắm. Nhưng ông chủ trương có làm mới có ăn, ông phải tự tay làm lấy thức ăn cho ông. Nếu ông bị rủi ro nằm bệnh ngày nào, ngày đó ông nhịn đói. Không ai khuyên lơn, năn nỉ ông được một miếng nào. Tôi trông thấy những việc ông làm, lòng vơi bớt đi những thành kiến thắc mắc về ông. Ông thật sự thể hiện tình thương yêu to lớn. Ông xót xa đau đớn khi thấy chiến tranh kéo dài, dân tộc điêu linh tang tóc, đất nước kiệt quệ tài nguyên, lẽ ra có thể làm dân giàu, nước mạnh! Nhưng giữa khi đôi bên say chiến, nhất quyết một được một thua, tiếng gọi hòa bình của ông chỉ là tiếng gào khản trong sa mạc! Rồi đây, Cồn Phụng của ông, nơi ông tạo được một xã hội kiểu mẫu nho nhỏ ấy có được yên? Thân phận của ông và bầy đệ tử rồi sẽ nổi trôi, chìm ngụp thế nào trong cảnh biến loạn tang thương của đất nước?
Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái ngày uất hận của người Việt tự do ! Cộng sản đã thôn tính được miền Nam Việt Nam, và chỉ qua một thời gian ngắn đã làm cho toàn quốc đói rách và sa đọa hơn bao giờ hết! Tôi lại gặp ông Đạo Dừa trong ngục thất Cần Thơ. Đầu tiên, tôi trông thấy ông, cũng như tôi, bị liệt kê vào thành phần tối nguy hiểm và bị biệt giam. Tức là nhốt trong co-nét, thùng sắt to tướng đựng đồ viện trợ của Mỹ hồi xưa. Mỗi người một co-nét. Nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái -- xin lỗi độc giả -- cũng tại chỗ. Cửa co-nét đóng lại, mình một mình trong tối bưng, trơ trọi và... thối bung! Không trông thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Không biết ngày tháng, thời khắc. Thỉnh thoảng mới được chúng mở cửa co-nét dọn dẹp vệ sinh. Ôi mừng ơi là mừng. Mừng trông thấy được ánh sáng. Trông thấy những vật cử động sao lạ mắt quá chừng! Mới biết rằng mình còn sống ở nhân gian !
Bọn cai tù, bọn cán bộ, đối xử rất tàn nhẫn. Chúng ngoài miệng nói khoan hồng mà lòng thâm như rắn độc. Vô cớ cũng chửi rủa hạ nhục. Chúng như thể rửa hờn giai cấp bằng trút lên đầu kẻ sa cơ, thất thế dưới tay chúng. Chúng oán ghét ông Đạo Dừa vô cùng. Chỉ có ổng thản nhiên và coi thường chúng. Chúng càng đọa đầy ông bao nhiêu, ông càng quyết liệt và quật cường bấy nhiêu. Quyết không chịu thua chúng. Và lắm lần hành hạ ông mãi không xong, chúng phải chịu thua ông. Ông phản đối chúng bằng cách gõ cái ca uống nước vào cửa co-nét... xèng xèng... xèng xèng... có khi cả ngày không ngớt tiếng...
Tên lính gác bực mình quát hỏi:
- Làm gì om sòm thế? Giờ này khuya rồi, làm thế ai ngủ được?
Tiếng nói chậm rãi và rắn rỏi của ông Đạo Dừa đưa ra sau cửa co-nét:
- Cậu ơi, tôi thương cậu lắm...
- Tôi chả cần ông thương!
- Có ai ngăn trở được tình thương? Cậu không cần tôi thương là quyền cậu. Còn tôi thương cậu là quyền tôi. Tôi thương cậu chỉ là một kẻ tay sai. Như thiên lôi, lịnh trên bảo đánh đâu là phải làm vậy thôi. Thương cậu chiến đấu mấy năm trời, vào sanh ra tử biết bao lần, rốt cuộc cũng chỉ là anh lính gác, thương cậu chức vụ bé nhỏ quá, không làm sao giải quyết nổi chuyện của tôi...
- Nhưng ông muốn gì?
- Thương cậu quá! Cậu không giải quyết nổi, hỏi làm gì. Cậu kêu người lớn hơn cậu lại cho tôi nói chuyện.
- Giờ này mấy đồng chí cán bộ ngủ cả rồi.
- Tôi thương cậu quá! Nhưng khỏi cần nói chuyện với cậu.
Ông Đạo Dừa lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ nhịp đều như tiếng mõ hồi một. Mấy người bạn tù gần đấy giật mình thức giấc, thì thầm bảo nhau:
- Cậu Hai lại tranh đấu nữa rồi Bọn quản giáo, cán bộ rồi đây khổ sở với cậu không ít!
Những người bị "học tập cải tạo" bất đắt dĩ ấy tuy phải làm lụng cực nhọc ban ngày, ban đêm cần giấc ngủ cho lại sức, song không phiền hà khi phải thức giấc vì tiếng khua lon của ông Đạo Dừa. Trái lại, họ rất thích cảnh ông Đạo Dừa chống báng lại bọn hung tàn giết người không gớm tay ấy. Chỉ có ông Đạo Dừa mới dám làm, mới không biết sợ, không khuất phục trước uy vũ. Ông gõ lon gọi mãi cho đến khi tên lính canh phải đi gọi tên cán bộ cai tù đến. Tên này quát tháo lên:
- Ông muốn gì?
Giọng nói của ông Đạo Dừa từ trong co-nét đưa ra, mềm mỏng, ngọt ngào:
- Tôi thương chú cán bộ quá. Thương chú đang ngủ ngon giấc mà bị dựng dậy vì tôi. Nhưng đành phải gọi chú nửa đêm, nửa hôm như thế này là vì tôi bị... bỏ đói!
Bọn quản giáo, thường ngày hay sừng sộ, mắng chửi phạm nhân. Với ai dầu già lão, bạc phơ tóc trắng, chúng cũng gọi là anh, tức là tử tế lắm rồi. Song đặc biệt chúng lại gọi ông Đạo Dừa là ông.
Tên cán bộ bực tức bảo:
- Ai bỏ đói ông?
- Không bỏ đói tôi, sao không cho tôi uống nước dừa?
Tên cán bộ mở cửa co-nét, chỉ tay về ổ bánh mì và lon sữa:
- Không có nước dừa nhưng có bánh tây và sữa đây thôi!
- Tôi không ăn những thứ đó. Tôi chỉ uống nước dừa.
Ông trả lời rất quả quyết. Tên cán bộ cầm ổ bánh mì lên xem có bị cắn mất miếng nào hay chăng? Lại bưng lon sữa xem xét tỉ mỉ. Hắn nghi ông Đạo Dừa giả bộ không ăn, nhưng kỳ thật đã nhấp nháp chút ít rồi giả bộ làm khó. Nhưng ổ bánh mì vẫn y nguyên, cả lon sữa cũng vẫn còn đầy. Mùi bánh và mùi sữa đưa vào mũi hắn, thơm ngon đến nỗi hắn phải nuốt nước bọt đến đánh ực một cái trong cổ họng. Hắn ăn no đầy đủ thế mà thấy ổ bánh và sữa ngọt bùi, béo bổ phải thèm rỏ dãi, thế mà lão già ốm nhom kia lại có gan cóc tía, đã đói rã ruột, vẫn chẳng thèm rớ tới.
Gã dằn ổ bánh mì và lon sữa xuống nền sắt co-nét, sầm nét mặt bảo:
- Ngon bổ thế này mà ông chê. Chả có thứ khác đâu!
Ông Đạo Dừa vẫn ngọt ngào:
- Tôi thương chú cán bộ! Chú nhỏ chức quá, không giải quyết được vấn đề của tôi. Thương đã làm mất giấc ngủ của chú. Thôi chú về ngủ lại đi. Để tôi gọi cấp trên của chú. Tôi thương chú ít quyền quá !...
Và rồi ông lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ đến sáng vẫn không dứt tiếng. Tên trưởng trại phải đến gặp ông:
- Ông đòi hỏi chuyện ngoài luật lệ của nhà tù.
- Mấy chú bỗng dưng giam cầm tôi, giam cầm hàng ngàn người vô tội, có theo luật lệ nào không?
- Mấy người có nợ máu với nhân dân. Còn ông là tay sai của CIA.
- Chú có biết CIA là thế nào mà mở miệng ra là buộc tội cho mọi người. Ai làm sở Mỹ là CIA? Tiếp xúc với người Mỹ là CIA? Biết tiếng Ăng-lê cũng là CIA? Học thức một chút cũng CIA. Chỉ có bần cố nông mới không là CIA? Thế hồi Việt Minh còn ở chiến khu Việt Bắc, có Mỹ trợ lực cho cũng là CIA? Bác Hồ lúc ấy cũng CIA?
- Này ông đừng nói bậy mà khốn!... Cứ nói đến việc ông kêu đói. Tại ông chê thức ăn đặc biệt của nhà tù cho ông dùng....
- Ê, không phải à. Thức ăn đó Tín hữu của tôi gởi cho. Tôi thương chú Trưởng trại nói sai. Cố tình bóp méo sự thật. Tín hữu của tôi sợ tôi bị bỏ đói chết nên mới gởi vào cho dừa nước, bánh mì, sữa... Tôi không ăn bánh mì sữa, chỉ muốn nước dừa thôi. Tôi thương Trưởng trại không giải quyết nổi việc này, thì tôi gọi cấp Đảng ủy của quản giáo vậy!
Và ông lại gõ lanh canh... lanh canh.... Bọn cai tù nghiến răng căm tức lắm mà không làm gì đặng ông. Chúng không muốn ông bị chết đói để khỏi bị mang tiếng. Nhưng ông Đạo Dừa cũng biết như vậy, vẫn kiên trì mà sống. Như thể thi gan luôn cả đến cái chết. Trưởng trại và bọn quản giáo phải họp khẩn cấp. Dừa trái thì có sẵn do đệ tử của ông Đạo Dừa gởi vào, nhưng ai chặt cho ông uống? Lũ răng đen mã tấu chặt đầu người thì sành, nhưng chặt quả dừa đâu có biết! Chúng đâu dám phát dao cho ông. Nhỡ ông lấy dao rạch bụng tự tử thì sao? Bàn cãi mãi, chúng mới nẩy ý kiến tìm trong số tù gốc người Bến Tre ra chặt dừa cho ông. Chúng gọi anh NVA ra, bảo đem dừa đến cho ông uống. Anh này ngơ ngác, bảo:
- Tôi có biết chặt dừa đâu?
- Anh là dân Bến Tre mà không biết chặt dừa ư?
- Tôi chèo đò. Có vườn dừa đâu mà biết chặt.
Có anh TVT tình nguyện ra. Anh này trước có bán dừa, biết cách thức. Anh chỉ cần dựng đứng trái dừa, bổ ba nhát dao, chặt xéo nơi núm dừa thành tam giác, bật tung núm dừa ra, không một giọt nước sóng sánh ra ngoài. Anh bưng quả dừa đến bên ông Đạo. Tuy anh không phải là đệ tử, anh cũng cung kính bảo nhỏ:
- Cậu Hai uống đi để mà sống.
- Cám ơn em. Tụi này bạo phát, bạo tàn. Qua sẽ không sống đến ngày đó. Qua biết chúng quyết làm cho qua chết. Nhưng thể xác thời chết chứ tinh thần thời không!
Bọn Việt cộng hành hạ ông Đạo Dừa đủ cách. Chúng lôi ông ra để tắm rửa cho ông:
Ông ở dơ quá không chịu tắm rửa, không thay đổi quần áo, hôi hám kinh tởm quá. Lại chí rận, bọ chét cùng mình, lây bịnh nguy hiểm cho cả khám!
Chúng cầm vòi nước xịt vào ông. Nước xịt rất mạnh, làm ông té lăn lốc. Ông cố gắng bò dậy. Lại bị nước bắn tung người đi, lăn cuồng như bông vụ. Ông không hề rên rỉ, than van một tiếng. Vẫn gượng ngồi dậy, lại té lăn. Chúng cười ầm lên. Ông vẫn cương quyết không khuất phục. Bọn tù chúng tôi nhìn ông, xót thương biết mấy, và khâm phục ông không lời nào cho xiết. Ông bao giờ cũng ngẩng cao đầu không cúi luồn. Cả đời ông bị tù đầy cũng lắm, ông sợ gì lũ trẻ ranh muốn giết ông mà khỏi mang tiếng này! Chả bù trong khám, biết bao kẻ xưa kia giầu sang danh giá, oai quyền hống hách, bây giờ khúm núm sợ sệt trước lũ cán bộ ngu dốt:
- Dạ bẩm thưa cán bộ, em lỡ lầm, lần sau không dám. Xin cán bộ rộng lòng tha thứ một phen.
Một điều dạ thưa, vâng bẩm, khúm núm, sợ sệt, như muốn thun người nhỏ bớt đi. Uốn lưng khòm cong lại, cầu an, tắc trách, thủ phận mình, quên đồng bạn. Lại còn một hạng khác, ti bỉ hơn, cam làm ăng-ten cho thù. Phản bạn, bội tình đồng ngũ, nghĩa bạn bè, để được một lời hứa sẽ cứu xét cho về sớm, hoặc được một vài ân huệ cỏn con... Ôi, điếm nhục!
Tôi nhìn gương can cường của ông mà lại xấu hổ cho mình. Mới bị tù đầy vài bận thôi mà tôi tưởng rằng hãnh diện lắm. Tù Pháp thuộc tôi có ở. Tù Nhật Bổn tôi cũng đã nếm mùi. Rồi lại tù Việt Minh vào măn 1945, lại còn hai năm vướng mắc trong nhà tù của chế độ trước vì chống nạn độc tài tham nhũng nữa! Nay lại vào khám Cần Thơ, bị liệt vào thành phần biệt giam nguy hiểm, biết chừng nào được ra? So với các bậc cách mạng xả thân tranh đấu thời trước, tôi nào có ăn nhằm gì?
Trừ lúc ở tù Việt cộng những năm ấy ra, cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất. Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở "Chambre de Commerce" ở bến sông Sài gòn, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. Vì tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh. Chúng giam vào phòng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa. Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn phòng giam hẹp của mình. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích. Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm thì được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối. Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa. Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống. Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng. Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gõ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh! Đó là thằng đội Trâu, thân hình trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tròn và nặng. Nó thường đập chẩy máu đầu tội nhân. Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thắn thôi. Còn khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai thì thật kinh khủng rởn cả tóc gáy. Cứ hai thằng Nhật thân hình như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng... nạn nhân của chúng như quả bóng rổ! Thường thì có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám. Khi ấy tôi còn trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đã nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen.
Một hôm tôi trông thấy có một con gián bò ở kẹt song gỗ. Tôi mừng như bắt được vàng. Có được một sự sống động dưới mắt. Trông nó chạy tới chạy lui, cũng đỡ buồn trong cảnh hoang lương, tịch mịch. Dầu rằng khít bên đó cũng có nhiều bạn đồng cảnh, nhiều pho tượng sống! Tôi khi ấy chưa biết trầm tĩnh, nhẫn nhục của người luyện công tĩnh tọa. Dẫu có nén lắm, lòng vẫn xôn xao không định.
Đến nay, trông thấy ông Đạo Dừa nhẫn nại, trầm tĩnh và xem thường bạo tàn, vũ lực của chúng, tôi mới thấy đó làm gương cho mình. Quyết không ủy mị, buồn rầu, khổ đau, rên rỉ dưới bạo tàn. Ông Đạo Dừa bị xịt nước ướt loi ngoi, nằm im trong vũng nước lênh láng, da thâm tím lại. Nhưng một lát sau ông lại lồm cồm bò dậy. Lại ngồi xếp bằng ngay ngắn, ngẩng cao đầu. Trông thấy hình dáng gầy gò, ốm nhom của ông, da bọc trơ xương như cái xác ướp khô mà đôi mắt vẫn linh động, vẫn ảnh hiện tình nhân đạo, vị tha bao la...
Ông thường chống đối bọn Việt cộng:
- Các anh mà cách mạng cái gì? Cách mạng gì không biết thương dân, yêu nước, cam làm tay sai ngoại bang. Cách mạng gì mà giam cầm hàng triệu người vô tội? Làm hằng triệu người tán gia bại sản, tan nát gia đình? Làm cho sáu mươi triệu đồng bào phải rách rưới đói nghèo, không trông thấy ánh sáng hy vọng nào, một tương lai tốt đẹp nào. Thiên đường hứa hẹn của cộng sản các anh là hố thẳm muôn đời chôn vùi dân tộc!
Bọn chúng giam nhốt ông vào chuồng chó. Đó là một nơi nhỏ hẹp bên vòng rào, có mái thiếc che thấp, có giây chì gai bao quanh. Trước kia nơi đó nhốt chó nên có danh từ chuồng chó. Ban ngày nắng rọi xuống mái thiếc nung nóng như lò lửa. Đêm đêm về, gió khuya lạnh buốt như cắt da. Đến chó ở đấy còn chịu không nổi huống chi con người. Nhưng ông Đạo Dừa vẫn bền bỉ chịu đựng. Mềm dẻo như cây sậy giữa phong ba. Dầu cho cuồng phong, nghịch khí đến đâu, cây sậy tạm thời phải cong, phải ngả nghiêng, oằn oại trước bạo lực đàn áp hung tàn, nhưng không đổ gẫy!
Bọn Cộng sản chỉ muốn ông Đạo Dừa khuất phục chúng, thốt ra lời hứa hẹn với chúng không tranh đấu nữa, không chống đối nữa. Chúng chẳng những buông tha ông, còn cho ông những ơn huệ đặc biệt, hậu hĩ hơn người. Xưa kia, Pháp không mua nổi ông, Nhật không dụ dỗ ông nổi, Việt cộng nào đáng gì để ông nghe theo!
Cuối năm đó tôi bị chuyển trại. Khi đi ngang qua chỗ ông ngồi, tôi khẽ cúi đầu như chuyển lời nói qua tâm tưởng với ông:
- Cậu Hai ráng gượng sống...
Ông mỉm cười nhân hậu. Nụ cười ngậm ngùi vĩnh biệt!
Mấy năm sau, tôi được trả tự do. Không tội gì, mà mất tự do rồi được trả! Và sau ba chuyến vượt biên cam go, tôi thoát ra được nơi vùng trời tự do. Nhờ vẫn đeo đuổi chí hướng phục quốc, tôi lê một giò qua nhiều nơi Âu, Mỹ, cả Á Châu. Khi đến địa phương nào có trồng cây dừa, tôi bất giác nhìn lên ngọn cây, liên tưởng đến ông Đạo Dừa. Hình bóng của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thành Nam hiện ra mờ ảo trước mắt tôi. Gầy gò ốm yếu, tưởng chừng gió thổi cũng bay như ông, ngờ đâu lại có lòng sắt đá kinh người! Tôi nghe như văng vẳng bên tai những lời nhỏ nhẹ của ông:
- Tôi thương mấy chú lắm, mấy chú Việt Cộng ơi. Mấy chú ngu dại lắm. Mấy chú không biết bạo tàn, bạo diệt! Chỉ có nhân nghĩa mới trường tồn!
Năm 1988, tôi gặp một người bạn mới vượt biên sang, bảo rằng ông Đạo Dừa đã tịch! Tôi bỗng nhiên cay xè mắt, đôi giòng lệ tiếc thương chan hòa... Cộng sản Việt Nam phạm rất nhiều lỗi lầm đối với Quốc gia, Dân tộc, trong đó có sự giết hại nhà chí sĩ hiếm có Nguyễn Thành Nam. Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam là người trí thức cuối cùng đã hạ mình xuống tin tưởng vào thiện chí của Việt Cộng, dẫu sao cũng có lòng xúc động trước cảnh huynh đệ tương tàn... Nhưng ông đã mang mối thất vọng đấy xuống tuyền đài...
Đến hôm nay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có một thiểu số trí thức thơ ngây cụ hoặc hoạt đầu, đang toan luồn lưng, cụp gối hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam bá quyền và ngoan cố. Các vị ấy có biết chăng đang vô tình nối giáo cho giặc? Cùng a tòng vào tội phản dân, hại nước? Xin hãy xem gương chiến đấu can cường của ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam và vô số chiến sĩ cách mạng đã bị Việt cộng hãm hại chết, để làm đài soi lại lương tâm mình!
Kẻ hèn này, cùng đồng bào trong và ngoài nước, rất mong được vậy lắm thay!
Tôi biết về ông Đạo Dừa rất ít.
Trước kia, có một dạo tôi hiểu lầm ông. Nói hiểu lầm thì không đúng lắm: Tôi đã đánh giá sự đấu tranh của ông một cách phiến diện, hời hợt. Tôi được biết ông tên Nguyễn Thành Nam, một nhà trí thức tân tiến, đỗ bằng kỹ sư Canh Nông ở Pháp, có tinh thần ái quốc cao. Ông thành tài về nước, không làm việc cho Pháp, dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc. Vào thuở tôi còn mài đũng quần nơi những lớp trung học Pháp, tên tuổi của ông đã lẫy lừng, tương lai rạng ngời hào quang. Người Pháp ở Đông Dương rất ưu đãi dân thuộc địa thông thạo Pháp ngữ. Từ các công sở đến tòa án, hễ ai nói thông được tiếng Pháp kể như nắm được chiếc chìa khóa vàng trong tay, vào cửa nào cũng thông cũng lọt. Huống chi đối với những nhà khoa bảng xuất thân từ những đại học ở "chánh quốc" áo gấm về nước! Với cái tài ấy, cái thế ấy, giá khéo luồn lọt một tí, làm gì chẳng thừa miếng đỉnh chung?
Nhưng ông kỹ sư Nam ấy lại không đem cái tài học của ông làm việc cho Pháp. Ông cũng không dùng cái vốn liếng văn hóa Tây phương gây lợi cá nhân, cho có được vợ đẹp con ngoan, cho có trang trại giàu sang trưởng giả, hoặc khai khẩn dinh điền màu mỡ cò bay thẳng cánh... Ông đã rũ bỏ cảnh phồn hoa quyến rũ, dứt lìa văn minh vật chất ông có thể thụ hưởng thừa thãi, để về một cồn vắng... trèo lên ngồi trên ngọn cây dừa mà tu, và thành là ông Đạo Dừa!
Tôi từng nghe mấy người anh bà con, cùng ở Pháp về chuyến tàu với ông, không ngớt bàn tán về hành động ấy của ông:
- Kỹ sư Nam ở Bến Tre tính gì thế? Toan làm chính trị? Hay muốn chóng nổi danh?
- Hắn bất hợp tác với nhà cầm quyền ư? Chủ trương tranh đấu bất bạo động như thánh Gandhi bên Ấn Độ à? Bối cảnh chính trị ở Việt Nam khác xa với bên ấy lắm cơ mà!
- Hay hắn lập dị? Cũng muốn tỏ ra ta đây anh hùng cách mạng?
Tôi nghe nói mà chán ngắt cho mấy ông anh họ ấy. Họ còn ham thụ hưởng, có dám dấn thân như thế đâu. Cũng có kẻ xu thời, làm chính trị sa lông. Thứ chánh trị không tốn kém gì, không hy sinh nguy hiểm gì, mà lại được tiếng là kẻ thức thời.
Tôi là lớp trẻ vừa trưởng thành, vừa mới hiểu biết, trong thập niên 30-40. Chúng tôi thường thao thức theo tiếng gọi thức tỉnh của hồn nước, của các bậc tiền bối yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, ông Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ... Và cái chết oanh liệt của các bậc anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học, Ký Con...đã khơi dậy lòng yêu nước khắp nơi.
Chúng tôi sống trong ký túc xá, giữa bốn bức tường kín học đường, song cũng biết được đại khái những hoạt động của các ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Hồ Văn Ngà... và vô số nhà trí thức Trung Nam Bắc... đã không chạy theo vinh hoa phú quý thuở bấy giờ mà lại dấn thân làm quốc sự. Những quyển sách quốc cấm như Phan Đình Phùng, Con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Giặc Cờ Vàng... được chúng tôi lén lút chuyền tay nhau, nửa đêm chun vào cầu tiêu, xem mê mệt không thôi. Phong Trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục với những tổ chức đưa thanh niên du học nước ngoài, những trường bí mật đào tạo nhân tài đất nước đã nhiều đêm là mộng trắng canh trường của lòng trai háo hức dấn thân vào phiêu lưu của chúng tôi. Chúng tôi không còn lòng học hành nữa. Cái học trong nước, dẫu đến cao đẳng, cũng chỉ để làm nô lệ. Chúng tôi từng chứng kiến, căm hờn và ứa lệ, khi trông thấy đang trong giờ giảng bài, vị giáo sư đáng kính mến bỗng bị lính kính, mật thám Pháp vào lớp, xích tay lại dẫn ra xe...
Giữa cái buổi giao thời đặc biệt ấy của đất nước, bọn thực dân cai trị cố tình bên trên đè ép xuống, dân chúng ở dưới ngộp ngạt trôi mình, có một số thanh niên Tây học, đâm ra hoang mang mất hướng. Một số bỏ sở làm lương to, đi lên núi Cấm tu hành, hoặc toan luyện bùa phép chống lại súng đạn, hoặc toan tìm hậu duệ các tiền bối kháng Pháp thời xưa? Một số lại ủy mị hơn, tìm quên lãng hận mất nước trong làn khói phù dung! Một số tìm đường trốn ra nước ngoài, cố sao móc nối được một anh thủy thủ ngoại quốc có tàu buông neo ở Nhà Rồng, năn nỉ sao cho anh ta thương tình dấu dưới hầm tầu để đi được thoát. Nếu rủi ra khơi rồi mà thuyền trưởng hay được, bất quá hắn xiềng chân lại, chờ đến một bến cảng nào đó thì tống khứ lên bờ, miễn đừng trong thuộc địa của Pháp thôi, là cũng sướng đời rồi! Tuy không nói nhiều ngoại ngữ, chỉ biết tiếng Pháp rất hạn chế trong thương trường quốc tế, nhưng những thanh niên mạo hiểm vẫn tin tưởng ở sức lực và bàn tay tháo vát của mình để có thể kiếm được cái ăn qua buổi, miễn không ngửa tay xin ăn. Mà dù không kiếm sống được, chết đói xứ lạ là cùng, còn hơn sống nô lệ nơi quê nhà vốn nổi tiếng vựa lúa Châu Á!
Tôi có một số bạn bắt mối được với một bạn thủy thủ tàu buôn Pháp, bọn này đòi 50 đồng mới cho xuống tàu. Ba đứa đều là học sinh, còn trong cảnh cơm cha áo mẹ, làm sao có đến một số bạc to lớn như thế? Bán cả đồ đạc, quyên góp khắp bạn bè mãi mới được 40 đồng, định sẽ năn nỉ xin bớt, chắc bọn chúng cũng chịu, nhưng khi đem tiền ra bến, hỡi ôi, con tàu buôn hôm nọ đã nhổ neo, ra lòng sông Sài Gòn rồi!
Sở dĩ tôi nói lên việc này là để cùng quý bạn hình dung lại thời điểm ấy của những công dân Việt Nam, như dòng sông Cửu Long đợt sóng này nối tiếp đợt sóng khác, đã ý thức được những việc cần phải làm của người bị trị. Quyền yêu nước không phải ở một người, ở một đảng phái nào. Bây giờ, người ta tha hồ tô hồng, chuốt lục lịch sử đảng họ. Bẻ cong cả lịch sử. Phủ nhận công ơn của những người ngoài đảng ta! Các văn sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa tán tụng tận mây xanh về việc đi tìm đường cứu nước của "bác", làm như chỉ có "bác" của họ mới độc đáo đi nước ngoài. Ở Sài Gòn, có một dinh thự to tát và tráng lệ của thực dân Pháp bỏ lại bến Nhà Rồng, đáng lẽ thuộc về nhân dân đang thiếu nhà ở, thì đảng lại làm thành ngôi nhà kỷ niệm nơi xuất xứ đi ra nước ngoài của lãnh tụ. Để thờ những vật vớ vẩn! Sao không thờ bao nhiêu bậc tiền hiền cách mạng trước "bác" hoặc đồng thời với "bác", tài ba hơn và sự hy sinh cống hiến nhiều hơn?
Cổ nhân bảo: luận anh hùng, chớ luận vào thành công hay thất bại, phải luận vào sự tiên phong khởi đầu. Những người thắp sáng, những nhà khai hoang, trong lãnh vực thương nước yêu nòi mới thực hiển hách. Cũng như nơi tuyến đầu, người lính trước tiên nhận diện được quân thù mà cảnh giác cho bạn đồng ngũ, dù có bị bắn ngã chết, vẫn giữ công đầu! Tổ quốc Việt Nam không quên ơn những người con ấy. Dầu hiện nay, họ bị bôi nhọ, hay xuyên tạc. Trong số đó có ông Đạo Dừa. Với một năm ở tù chung ở khám Cần Thơ, tôi mới thật sự biết ông. Khâm phục ông nhẫn nại, kiên quyết và bất khuất hơn người.
Trước kia, tôi chỉ biết ông có chí hướng hơn người. Ông tìm con đường tranh đấu riêng. Ông không theo phe này, lập hội kín nọ. Ông làm cách mạng quần chúng. Lấy số đông dân chúng làm hậu thuẫn. Ông pha màu tôn giáo vào chính trị, và ông đã khởi xướng lên một mình. Một loại tôn giáo hòa đồng. Thực chất là lấy tình thương bao la để khuyến dụ và cảm hóa mọi người. Ông đã gặt hái ít nhiều thành công. Lúc bấy giờ, tôi vẫn còn cho ông là một con người đáng tôn kính, song có phần lập dị.
Nhân một dạo, tôi có dịp đi đò máy từ bến bắc Rạch Miễu sang tỉnh lỵ Bến Tre, khi con đò chạy ngang qua một cái cồn đất nọ, người đi đò cùng trầm trồ trỏ tay bảo:
- Ông Đạo Dừa ngồi trên đọt dừa đó, thấy không? Ổng ngồi mấy năm nay rồi. Mặc nắng mưa, trưa tối!
Một bà lão già nói bằng giọng cung kính:
- Ai cũng tưởng ổng chịu không nổi, mà chết rồi! Nhưng người ta vẫn thấy ông ngồi trơ trơ đó. Mà ông phải nhà nghèo hèn gì, con nhà giàu sang, danh giá. Vậy mà ông lại đi tu. Nói là để độ đời!
Tôi hỏi lại:
- Tây để cho ông làm như vậy sao? Ông ra vẻ chống đối như vậy, bỉ mặt cho người Pháp ở Đông Dương lắm.
- Mèn ơi, họ bắt ổng giam vô tù mấy lần. Ổng tịnh khẩu, không thèm nói chuyện. Nhưng viết giấy hỏi Tây là ổng có tội gì mà bị bắt? Đụng chạm nhân quyền sao đó! Tây cãi không lại lý của ổng, phải thả ổng ra. Ổng lại trèo lên cây dừa mà ngồi. Tây giận lắm, sai người đốn bỏ cây dừa của ổng. Mất cây dừa đó, ổng lại trèo lên cây dừa khác. Mèn ơi, ai trông thấy ổng trèo dừa mà hổng thương đứt ruột! Tây lại sai người đốn dừa nữa, ổng lại ngồi trên cây khác. Đốn hết dừa cù lao này, thì ổng sang qua cù lao kia. Bến Tre là xứ dừa mà. Không lẽ Tây đốn hết dừa của tỉnh? Thằng Tây đành chịu thua ổng luôn.
- Rồi ổng ăn gì?
- Ổng chỉ uống nước dừa, có khi ăn thêm vài trái chuối để sống. Vậy nên người ta mới kêu ổng là ông Đạo Dừa.
- Thời buổi lộn xộn, ổng ngồi hoài như vậy, không sợ nguy hiểm?
- Ổng hổng sợ. Mà dân cũng thương ổng, ngấm ngầm bảo vệ cho ổng.
- Ổng tịnh khẩu hoài, không mở miệng nói chuyện? Không thuyết pháp sao? Vậy làm sao truyền đạo?
- Ổng không nói. Chỉ viết ra trên giấy. Nói chuyện cũng bằng giấy tờ. Vậy mà đệ tử đông lắm. Ở khắp nơi, đâu cũng có. Cả ở Lục tỉnh, ở miền Trung nữa. Vì đạo của ông tốt một cái là thờ kính ông bà, tôn trọng lễ nghĩa và ăn ở hòa mục với mọi người.
Tôi chăm chú nhìn lên ngọn dừa khi phà chạy ngang mé cồn. Trên ngọn một cây dừa cao, một hình bóng người nhỏ thó, mặc áo vải vàng, ngồi thu lu trên một giạt bằng cây to, trông thấy bấp bênh lơ lửng. Trời trưa nắng như hun đốt, mắt nhìn lên lóe sao. Thế mà bóng người nọ vẫn ngồi xếp bằng an tọa, tịnh nhiên. Ông ngồi như thế đã mấy năm trời? Gương kiên nhẫn của ông thật đáng phục!
Tôi vì bận việc ở Bến Tre, đến xế chiều mới xuống phà trở sang tỉnh Mỹ Tho. Ông Đạo Dừa vẫn ngồi trên ngọn dừa nơi cồn đất nọ. Ngọn gió chiều thổi lộng lòng sông rộng. Cây dừa trông từ xa thấy chao đảo. Thế nhưng ông đạo vẫn ngồi bằng an, tâm tư vắng lặng vào cõi hư vô nào? Hay ông đang nghiền ngẫm một thế cờ hay để giải thoát cho đất nước, cho con người? Bên kia bờ tỉnh lỵ Mỹ Tho đang sáng choang ánh đèn phồn hoa, lại có tiếng ca nhạc từ đài phát thanh nào đó phát ra âm điệu xa vời quyến rũ, mê ly. Như tất cả giục giã con người đừng hoài phí tuổi xuân, cứ quyện hồn vào những hoan lạc, say sưa... Tôi bất giác ngước nhìn hình bóng ông Đạo Dừa ngồi nơi hoang tịch nọ. Cái bóng dáng gầy còm của người trí thức ngậm câm tiếng nói ấy lại có một sức mạnh huyền vi rọi xuống lương tâm con người. Cảnh giác người đời đừng mê bả béo mồi thơm mà quên hờn mất nước!
Sau đó, tôi bị kẹt! Mãi lâu sau tôi mới lại có dịp về miệt Tiền Giang. Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường những người đàn ông có, đàn bà có, già có, trẻ có, mặc quần áo bằng vải màu vàng hoặc màu già, áo thì là áo bà ba gài nút ở giữa hay là vạt miễng, có người để tóc dài chít khăn màu vàng. Những người ấy ăn nói lễ phép, từ tốn và thân thiện. Tôi hỏi ra mới biết đấy là đệ tử của ông Đạo Dừa. Ông Đạo chủ trương hòa đồng tôn giáo. Ông thờ các bậc sáng thế. Phật Thích Ca ông cũng trọng, Chúa Ki Tô ông cũng kính, cả đến Lão Tử ông cũng theo, Khổng Tử ông cũng học... Tất cả các vị có lòng từ bi, bác ái, yêu thương nhân loại, xả thân vì chúng sanh, ông đều phụng thờ. Đó là tình thương yêu phải học tập, phải noi theo. Đệ tử của ông rải rác khắp nơi. Họ hành đạo và truyền đạo với lòng tin vững chắc, dù phải gặp rất nhiều khó khăn, cả những hiểm nguy. Vì trong cái thế giới nhiễu nhương, còn lắm người nhắm mắt chạy theo thế lực kim tiền, thì trái tim thương yêu của người thiện lương dù mở rộng mấy cũng ít có người cảm thông. Rồi sau đó, tôi lại gặp một số đệ tử của ông Đạo Dừa trong cảnh nhà tù! Hỏi đến Thầy họ, Thầy họ chắc cũng bị cầm giữ đâu đó. Họ vẫn không rời chiếc áo bà ba vạc miễng của họ. Sau lưng áo, họ vẽ hai chữ Tu Tù thật lớn. Họ lặng thinh, không nói gì. Ai muốn hiểu sao hiểu. Có thể bảo là vì tu nên mới bị tù. Có thể có nghĩa ở tù vẫn cứ tu. Lại có nghĩa lấy việc ở tù làm công quả học thành đạo. Theo họ, họ bảo tu cho đất nước hòa bình, con người thương yêu con người hơn. Chỉ có tình thương yêu mới khai trừ họa chiến tranh. Chỉ có tình thương yêu, mới san sớt đồng đều, mới thông cảm nhau, không cần đấu tranh giai cấp!
Tôi hỏi người đệ tử của ông Đạo Dừa:
- Nghe nói Thầy anh muốn làm người hòa giải?
- Phải. Cậu Hai yêu nước thương dân, không nỡ nhìn triệu triệu thanh niên ở hai phía bị nướng thiêu trong nạn nồi da xáo thịt. Chiến tranh đã hơn ba mươi năm, dân chúng điêu linh, xã hội tàn hoại, đất nước nghèo khổ lắm rồi, sao người ta lại không chịu ngưng tay?
- Thấy anh tin là hai bên có thể ngồi lại với nhau?
- Cậu Hai tin ai cũng có lòng yêu nước thật sự. Lòng yêu nước đứng trên quyền lợi của bè cánh, đảng phái.
- Và Thầy anh tin "bác Hồ" sẽ từ bỏ đảng cộng sản? Hay đặt quyền lợi của đảng, của Nga Sô, của Trung cộng ra ngoài để cứu nước cứu dân?
- Nếu ông Hồ yêu nước, ông phải làm như vậy!
Tôi khẽ thở dài:
- Thầy anh chủ trương tốt, nhưng tình hình chính trị phức tạp lắm, lại thêm lòng dạ tham lam của con người, tham vọng của quốc tế... Không như việc Thầy anh nuôi con mèo chung với con chuột một lồng...
- Thú vật còn biết dung nhau, con người lại không thể sao? Việc nước nhà mình đã đến lúc mình phải tính với nhau, không cần đến anh Mỹ, anh Nga, anh Tàu chen vào nếu họ không có thiện chí giúp đỡ!
- Tôi sợ Thầy anh ôm mãi cái không tưởng ấy. Giá mà thành được như thế, người dân Việt nào lại không thích?
Về sau, tôi lại nghe tin ông Đạo Dừa trở về Cồn Phụng, tức là cái cồn đất ông trèo lên ngồi trên cây dừa mấy mươi năm về trước. Khi ấy cồn đã có đông dân cư tụ tập. Nhà ở khang trang. Dân tình dễ sống. Có văn hóa. Có tình người. Có trật tự. Có cả mấy người Mỹ tu ở đấy. Ai trông thấy tướng đi lênh khênh của họ trong bộ quần áo bà ba màu vàng may rộng khổ mà vẫn thấy túm bó, với đôi bàn chân đi đất rón rén của họ, đều phải che miệng cười. Nhưng là cái cười đầy thiện cảm, thân ái. Họ gặp ai cũng chắp tay cúi đầu, nói trọ trẹ:
- Chào ông!... Chào bà!... Chào anh!... Chào chị!... Mạnh giỏi!
Nơi Cồn Phụng còn treo một biểu ngữ to Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Đó là một câu sấm xưa từ mấy trăm năm, mà người ta cho là trong bài sấm Trạng Trình, tiên đoán về hậu vận nước nhà. Nhưng không ai hiểu câu sấm ấy ứng vào thời kỳ nào? Sao không đánh nhau mà thành? Và cái thành ấy có lợi cho phe nào? Tôi thầm nghĩ ông Đạo Dừa đưa lên câu biểu ngữ để kêu gọi ngưng chiến.
Nơi bến cồn có đậu một chiếc tàu sắt mà ông Đạo Dừa cho trang trí theo mỹ thuật Việt Nam và đặt tên là thuyền Bát Nhã. Trên con thuyền rộng lớn ấy, nơi phía trước, ông bầy ra nhiều hàng ghế sắt cho du khách ngồi. Nhiều phái đoàn ngoại quốc đến phỏng vấn ông, thu băng, quay phim. Ông ngồi nơi chiếc ghế đặt phía trước, có hai đệ tử đứng hai bên. Chính hai đệ tử nọ trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới biên vào giấy cho họ phát biểu thêm những chi tiết.
Tôi đến nhằm lúc hết giờ phỏng vấn, nhưng cũng được đệ tử của ông nói về chánh kiến của đạo. Ông nhận ra tôi, chỉ mỉm cười. Nụ cười hiền hòa và thân thiết. Ông vẫn không ngớt tay lẫy những hột bắp, để sau đó tự ông nấu lấy ăn. Trước kia ông chỉ uống nước dừa. Dạo sau này, vì làm việc nhiều, vì đệ tử khuyên lơn, ông mới ăn thêm buổi ngọ (buổi trưa) bằng bắp nấu. Tôi trông thấy ông gầy ốm quá, thân hình nhỏ thó, đôi tay khẳng khiu, mặt thỏn như trẻ nít, song đôi mắt tinh anh sáng rực khác thường. Các phóng viên truyền hình ngoại quốc không ngớt tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục trước một ông già ốm tong teo như cây sậy mà lại có một mãnh lực chịu đựng kiên cường. Tự ông làm ra thức ăn cho ông, tuy rằng đệ tử của ông rất đông. Nếu ông để cho họ phục dịch, chắc họ sung sướng lắm. Nhưng ông chủ trương có làm mới có ăn, ông phải tự tay làm lấy thức ăn cho ông. Nếu ông bị rủi ro nằm bệnh ngày nào, ngày đó ông nhịn đói. Không ai khuyên lơn, năn nỉ ông được một miếng nào. Tôi trông thấy những việc ông làm, lòng vơi bớt đi những thành kiến thắc mắc về ông. Ông thật sự thể hiện tình thương yêu to lớn. Ông xót xa đau đớn khi thấy chiến tranh kéo dài, dân tộc điêu linh tang tóc, đất nước kiệt quệ tài nguyên, lẽ ra có thể làm dân giàu, nước mạnh! Nhưng giữa khi đôi bên say chiến, nhất quyết một được một thua, tiếng gọi hòa bình của ông chỉ là tiếng gào khản trong sa mạc! Rồi đây, Cồn Phụng của ông, nơi ông tạo được một xã hội kiểu mẫu nho nhỏ ấy có được yên? Thân phận của ông và bầy đệ tử rồi sẽ nổi trôi, chìm ngụp thế nào trong cảnh biến loạn tang thương của đất nước?
Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái ngày uất hận của người Việt tự do ! Cộng sản đã thôn tính được miền Nam Việt Nam, và chỉ qua một thời gian ngắn đã làm cho toàn quốc đói rách và sa đọa hơn bao giờ hết! Tôi lại gặp ông Đạo Dừa trong ngục thất Cần Thơ. Đầu tiên, tôi trông thấy ông, cũng như tôi, bị liệt kê vào thành phần tối nguy hiểm và bị biệt giam. Tức là nhốt trong co-nét, thùng sắt to tướng đựng đồ viện trợ của Mỹ hồi xưa. Mỗi người một co-nét. Nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái -- xin lỗi độc giả -- cũng tại chỗ. Cửa co-nét đóng lại, mình một mình trong tối bưng, trơ trọi và... thối bung! Không trông thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Không biết ngày tháng, thời khắc. Thỉnh thoảng mới được chúng mở cửa co-nét dọn dẹp vệ sinh. Ôi mừng ơi là mừng. Mừng trông thấy được ánh sáng. Trông thấy những vật cử động sao lạ mắt quá chừng! Mới biết rằng mình còn sống ở nhân gian !
Bọn cai tù, bọn cán bộ, đối xử rất tàn nhẫn. Chúng ngoài miệng nói khoan hồng mà lòng thâm như rắn độc. Vô cớ cũng chửi rủa hạ nhục. Chúng như thể rửa hờn giai cấp bằng trút lên đầu kẻ sa cơ, thất thế dưới tay chúng. Chúng oán ghét ông Đạo Dừa vô cùng. Chỉ có ổng thản nhiên và coi thường chúng. Chúng càng đọa đầy ông bao nhiêu, ông càng quyết liệt và quật cường bấy nhiêu. Quyết không chịu thua chúng. Và lắm lần hành hạ ông mãi không xong, chúng phải chịu thua ông. Ông phản đối chúng bằng cách gõ cái ca uống nước vào cửa co-nét... xèng xèng... xèng xèng... có khi cả ngày không ngớt tiếng...
Tên lính gác bực mình quát hỏi:
- Làm gì om sòm thế? Giờ này khuya rồi, làm thế ai ngủ được?
Tiếng nói chậm rãi và rắn rỏi của ông Đạo Dừa đưa ra sau cửa co-nét:
- Cậu ơi, tôi thương cậu lắm...
- Tôi chả cần ông thương!
- Có ai ngăn trở được tình thương? Cậu không cần tôi thương là quyền cậu. Còn tôi thương cậu là quyền tôi. Tôi thương cậu chỉ là một kẻ tay sai. Như thiên lôi, lịnh trên bảo đánh đâu là phải làm vậy thôi. Thương cậu chiến đấu mấy năm trời, vào sanh ra tử biết bao lần, rốt cuộc cũng chỉ là anh lính gác, thương cậu chức vụ bé nhỏ quá, không làm sao giải quyết nổi chuyện của tôi...
- Nhưng ông muốn gì?
- Thương cậu quá! Cậu không giải quyết nổi, hỏi làm gì. Cậu kêu người lớn hơn cậu lại cho tôi nói chuyện.
- Giờ này mấy đồng chí cán bộ ngủ cả rồi.
- Tôi thương cậu quá! Nhưng khỏi cần nói chuyện với cậu.
Ông Đạo Dừa lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ nhịp đều như tiếng mõ hồi một. Mấy người bạn tù gần đấy giật mình thức giấc, thì thầm bảo nhau:
- Cậu Hai lại tranh đấu nữa rồi Bọn quản giáo, cán bộ rồi đây khổ sở với cậu không ít!
Những người bị "học tập cải tạo" bất đắt dĩ ấy tuy phải làm lụng cực nhọc ban ngày, ban đêm cần giấc ngủ cho lại sức, song không phiền hà khi phải thức giấc vì tiếng khua lon của ông Đạo Dừa. Trái lại, họ rất thích cảnh ông Đạo Dừa chống báng lại bọn hung tàn giết người không gớm tay ấy. Chỉ có ông Đạo Dừa mới dám làm, mới không biết sợ, không khuất phục trước uy vũ. Ông gõ lon gọi mãi cho đến khi tên lính canh phải đi gọi tên cán bộ cai tù đến. Tên này quát tháo lên:
- Ông muốn gì?
Giọng nói của ông Đạo Dừa từ trong co-nét đưa ra, mềm mỏng, ngọt ngào:
- Tôi thương chú cán bộ quá. Thương chú đang ngủ ngon giấc mà bị dựng dậy vì tôi. Nhưng đành phải gọi chú nửa đêm, nửa hôm như thế này là vì tôi bị... bỏ đói!
Bọn quản giáo, thường ngày hay sừng sộ, mắng chửi phạm nhân. Với ai dầu già lão, bạc phơ tóc trắng, chúng cũng gọi là anh, tức là tử tế lắm rồi. Song đặc biệt chúng lại gọi ông Đạo Dừa là ông.
Tên cán bộ bực tức bảo:
- Ai bỏ đói ông?
- Không bỏ đói tôi, sao không cho tôi uống nước dừa?
Tên cán bộ mở cửa co-nét, chỉ tay về ổ bánh mì và lon sữa:
- Không có nước dừa nhưng có bánh tây và sữa đây thôi!
- Tôi không ăn những thứ đó. Tôi chỉ uống nước dừa.
Ông trả lời rất quả quyết. Tên cán bộ cầm ổ bánh mì lên xem có bị cắn mất miếng nào hay chăng? Lại bưng lon sữa xem xét tỉ mỉ. Hắn nghi ông Đạo Dừa giả bộ không ăn, nhưng kỳ thật đã nhấp nháp chút ít rồi giả bộ làm khó. Nhưng ổ bánh mì vẫn y nguyên, cả lon sữa cũng vẫn còn đầy. Mùi bánh và mùi sữa đưa vào mũi hắn, thơm ngon đến nỗi hắn phải nuốt nước bọt đến đánh ực một cái trong cổ họng. Hắn ăn no đầy đủ thế mà thấy ổ bánh và sữa ngọt bùi, béo bổ phải thèm rỏ dãi, thế mà lão già ốm nhom kia lại có gan cóc tía, đã đói rã ruột, vẫn chẳng thèm rớ tới.
Gã dằn ổ bánh mì và lon sữa xuống nền sắt co-nét, sầm nét mặt bảo:
- Ngon bổ thế này mà ông chê. Chả có thứ khác đâu!
Ông Đạo Dừa vẫn ngọt ngào:
- Tôi thương chú cán bộ! Chú nhỏ chức quá, không giải quyết được vấn đề của tôi. Thương đã làm mất giấc ngủ của chú. Thôi chú về ngủ lại đi. Để tôi gọi cấp trên của chú. Tôi thương chú ít quyền quá !...
Và rồi ông lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ đến sáng vẫn không dứt tiếng. Tên trưởng trại phải đến gặp ông:
- Ông đòi hỏi chuyện ngoài luật lệ của nhà tù.
- Mấy chú bỗng dưng giam cầm tôi, giam cầm hàng ngàn người vô tội, có theo luật lệ nào không?
- Mấy người có nợ máu với nhân dân. Còn ông là tay sai của CIA.
- Chú có biết CIA là thế nào mà mở miệng ra là buộc tội cho mọi người. Ai làm sở Mỹ là CIA? Tiếp xúc với người Mỹ là CIA? Biết tiếng Ăng-lê cũng là CIA? Học thức một chút cũng CIA. Chỉ có bần cố nông mới không là CIA? Thế hồi Việt Minh còn ở chiến khu Việt Bắc, có Mỹ trợ lực cho cũng là CIA? Bác Hồ lúc ấy cũng CIA?
- Này ông đừng nói bậy mà khốn!... Cứ nói đến việc ông kêu đói. Tại ông chê thức ăn đặc biệt của nhà tù cho ông dùng....
- Ê, không phải à. Thức ăn đó Tín hữu của tôi gởi cho. Tôi thương chú Trưởng trại nói sai. Cố tình bóp méo sự thật. Tín hữu của tôi sợ tôi bị bỏ đói chết nên mới gởi vào cho dừa nước, bánh mì, sữa... Tôi không ăn bánh mì sữa, chỉ muốn nước dừa thôi. Tôi thương Trưởng trại không giải quyết nổi việc này, thì tôi gọi cấp Đảng ủy của quản giáo vậy!
Và ông lại gõ lanh canh... lanh canh.... Bọn cai tù nghiến răng căm tức lắm mà không làm gì đặng ông. Chúng không muốn ông bị chết đói để khỏi bị mang tiếng. Nhưng ông Đạo Dừa cũng biết như vậy, vẫn kiên trì mà sống. Như thể thi gan luôn cả đến cái chết. Trưởng trại và bọn quản giáo phải họp khẩn cấp. Dừa trái thì có sẵn do đệ tử của ông Đạo Dừa gởi vào, nhưng ai chặt cho ông uống? Lũ răng đen mã tấu chặt đầu người thì sành, nhưng chặt quả dừa đâu có biết! Chúng đâu dám phát dao cho ông. Nhỡ ông lấy dao rạch bụng tự tử thì sao? Bàn cãi mãi, chúng mới nẩy ý kiến tìm trong số tù gốc người Bến Tre ra chặt dừa cho ông. Chúng gọi anh NVA ra, bảo đem dừa đến cho ông uống. Anh này ngơ ngác, bảo:
- Tôi có biết chặt dừa đâu?
- Anh là dân Bến Tre mà không biết chặt dừa ư?
- Tôi chèo đò. Có vườn dừa đâu mà biết chặt.
Có anh TVT tình nguyện ra. Anh này trước có bán dừa, biết cách thức. Anh chỉ cần dựng đứng trái dừa, bổ ba nhát dao, chặt xéo nơi núm dừa thành tam giác, bật tung núm dừa ra, không một giọt nước sóng sánh ra ngoài. Anh bưng quả dừa đến bên ông Đạo. Tuy anh không phải là đệ tử, anh cũng cung kính bảo nhỏ:
- Cậu Hai uống đi để mà sống.
- Cám ơn em. Tụi này bạo phát, bạo tàn. Qua sẽ không sống đến ngày đó. Qua biết chúng quyết làm cho qua chết. Nhưng thể xác thời chết chứ tinh thần thời không!
Bọn Việt cộng hành hạ ông Đạo Dừa đủ cách. Chúng lôi ông ra để tắm rửa cho ông:
Ông ở dơ quá không chịu tắm rửa, không thay đổi quần áo, hôi hám kinh tởm quá. Lại chí rận, bọ chét cùng mình, lây bịnh nguy hiểm cho cả khám!
Chúng cầm vòi nước xịt vào ông. Nước xịt rất mạnh, làm ông té lăn lốc. Ông cố gắng bò dậy. Lại bị nước bắn tung người đi, lăn cuồng như bông vụ. Ông không hề rên rỉ, than van một tiếng. Vẫn gượng ngồi dậy, lại té lăn. Chúng cười ầm lên. Ông vẫn cương quyết không khuất phục. Bọn tù chúng tôi nhìn ông, xót thương biết mấy, và khâm phục ông không lời nào cho xiết. Ông bao giờ cũng ngẩng cao đầu không cúi luồn. Cả đời ông bị tù đầy cũng lắm, ông sợ gì lũ trẻ ranh muốn giết ông mà khỏi mang tiếng này! Chả bù trong khám, biết bao kẻ xưa kia giầu sang danh giá, oai quyền hống hách, bây giờ khúm núm sợ sệt trước lũ cán bộ ngu dốt:
- Dạ bẩm thưa cán bộ, em lỡ lầm, lần sau không dám. Xin cán bộ rộng lòng tha thứ một phen.
Một điều dạ thưa, vâng bẩm, khúm núm, sợ sệt, như muốn thun người nhỏ bớt đi. Uốn lưng khòm cong lại, cầu an, tắc trách, thủ phận mình, quên đồng bạn. Lại còn một hạng khác, ti bỉ hơn, cam làm ăng-ten cho thù. Phản bạn, bội tình đồng ngũ, nghĩa bạn bè, để được một lời hứa sẽ cứu xét cho về sớm, hoặc được một vài ân huệ cỏn con... Ôi, điếm nhục!
Tôi nhìn gương can cường của ông mà lại xấu hổ cho mình. Mới bị tù đầy vài bận thôi mà tôi tưởng rằng hãnh diện lắm. Tù Pháp thuộc tôi có ở. Tù Nhật Bổn tôi cũng đã nếm mùi. Rồi lại tù Việt Minh vào măn 1945, lại còn hai năm vướng mắc trong nhà tù của chế độ trước vì chống nạn độc tài tham nhũng nữa! Nay lại vào khám Cần Thơ, bị liệt vào thành phần biệt giam nguy hiểm, biết chừng nào được ra? So với các bậc cách mạng xả thân tranh đấu thời trước, tôi nào có ăn nhằm gì?
Trừ lúc ở tù Việt cộng những năm ấy ra, cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất. Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở "Chambre de Commerce" ở bến sông Sài gòn, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. Vì tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh. Chúng giam vào phòng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa. Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn phòng giam hẹp của mình. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích. Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm thì được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối. Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa. Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống. Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng. Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gõ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh! Đó là thằng đội Trâu, thân hình trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tròn và nặng. Nó thường đập chẩy máu đầu tội nhân. Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thắn thôi. Còn khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai thì thật kinh khủng rởn cả tóc gáy. Cứ hai thằng Nhật thân hình như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng... nạn nhân của chúng như quả bóng rổ! Thường thì có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám. Khi ấy tôi còn trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đã nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen.
Một hôm tôi trông thấy có một con gián bò ở kẹt song gỗ. Tôi mừng như bắt được vàng. Có được một sự sống động dưới mắt. Trông nó chạy tới chạy lui, cũng đỡ buồn trong cảnh hoang lương, tịch mịch. Dầu rằng khít bên đó cũng có nhiều bạn đồng cảnh, nhiều pho tượng sống! Tôi khi ấy chưa biết trầm tĩnh, nhẫn nhục của người luyện công tĩnh tọa. Dẫu có nén lắm, lòng vẫn xôn xao không định.
Đến nay, trông thấy ông Đạo Dừa nhẫn nại, trầm tĩnh và xem thường bạo tàn, vũ lực của chúng, tôi mới thấy đó làm gương cho mình. Quyết không ủy mị, buồn rầu, khổ đau, rên rỉ dưới bạo tàn. Ông Đạo Dừa bị xịt nước ướt loi ngoi, nằm im trong vũng nước lênh láng, da thâm tím lại. Nhưng một lát sau ông lại lồm cồm bò dậy. Lại ngồi xếp bằng ngay ngắn, ngẩng cao đầu. Trông thấy hình dáng gầy gò, ốm nhom của ông, da bọc trơ xương như cái xác ướp khô mà đôi mắt vẫn linh động, vẫn ảnh hiện tình nhân đạo, vị tha bao la...
Ông thường chống đối bọn Việt cộng:
- Các anh mà cách mạng cái gì? Cách mạng gì không biết thương dân, yêu nước, cam làm tay sai ngoại bang. Cách mạng gì mà giam cầm hàng triệu người vô tội? Làm hằng triệu người tán gia bại sản, tan nát gia đình? Làm cho sáu mươi triệu đồng bào phải rách rưới đói nghèo, không trông thấy ánh sáng hy vọng nào, một tương lai tốt đẹp nào. Thiên đường hứa hẹn của cộng sản các anh là hố thẳm muôn đời chôn vùi dân tộc!
Bọn chúng giam nhốt ông vào chuồng chó. Đó là một nơi nhỏ hẹp bên vòng rào, có mái thiếc che thấp, có giây chì gai bao quanh. Trước kia nơi đó nhốt chó nên có danh từ chuồng chó. Ban ngày nắng rọi xuống mái thiếc nung nóng như lò lửa. Đêm đêm về, gió khuya lạnh buốt như cắt da. Đến chó ở đấy còn chịu không nổi huống chi con người. Nhưng ông Đạo Dừa vẫn bền bỉ chịu đựng. Mềm dẻo như cây sậy giữa phong ba. Dầu cho cuồng phong, nghịch khí đến đâu, cây sậy tạm thời phải cong, phải ngả nghiêng, oằn oại trước bạo lực đàn áp hung tàn, nhưng không đổ gẫy!
Bọn Cộng sản chỉ muốn ông Đạo Dừa khuất phục chúng, thốt ra lời hứa hẹn với chúng không tranh đấu nữa, không chống đối nữa. Chúng chẳng những buông tha ông, còn cho ông những ơn huệ đặc biệt, hậu hĩ hơn người. Xưa kia, Pháp không mua nổi ông, Nhật không dụ dỗ ông nổi, Việt cộng nào đáng gì để ông nghe theo!
Cuối năm đó tôi bị chuyển trại. Khi đi ngang qua chỗ ông ngồi, tôi khẽ cúi đầu như chuyển lời nói qua tâm tưởng với ông:
- Cậu Hai ráng gượng sống...
Ông mỉm cười nhân hậu. Nụ cười ngậm ngùi vĩnh biệt!
Mấy năm sau, tôi được trả tự do. Không tội gì, mà mất tự do rồi được trả! Và sau ba chuyến vượt biên cam go, tôi thoát ra được nơi vùng trời tự do. Nhờ vẫn đeo đuổi chí hướng phục quốc, tôi lê một giò qua nhiều nơi Âu, Mỹ, cả Á Châu. Khi đến địa phương nào có trồng cây dừa, tôi bất giác nhìn lên ngọn cây, liên tưởng đến ông Đạo Dừa. Hình bóng của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thành Nam hiện ra mờ ảo trước mắt tôi. Gầy gò ốm yếu, tưởng chừng gió thổi cũng bay như ông, ngờ đâu lại có lòng sắt đá kinh người! Tôi nghe như văng vẳng bên tai những lời nhỏ nhẹ của ông:
- Tôi thương mấy chú lắm, mấy chú Việt Cộng ơi. Mấy chú ngu dại lắm. Mấy chú không biết bạo tàn, bạo diệt! Chỉ có nhân nghĩa mới trường tồn!
Năm 1988, tôi gặp một người bạn mới vượt biên sang, bảo rằng ông Đạo Dừa đã tịch! Tôi bỗng nhiên cay xè mắt, đôi giòng lệ tiếc thương chan hòa... Cộng sản Việt Nam phạm rất nhiều lỗi lầm đối với Quốc gia, Dân tộc, trong đó có sự giết hại nhà chí sĩ hiếm có Nguyễn Thành Nam. Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam là người trí thức cuối cùng đã hạ mình xuống tin tưởng vào thiện chí của Việt Cộng, dẫu sao cũng có lòng xúc động trước cảnh huynh đệ tương tàn... Nhưng ông đã mang mối thất vọng đấy xuống tuyền đài...
*
Đến hôm nay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có một thiểu số trí thức thơ ngây cụ hoặc hoạt đầu, đang toan luồn lưng, cụp gối hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam bá quyền và ngoan cố. Các vị ấy có biết chăng đang vô tình nối giáo cho giặc? Cùng a tòng vào tội phản dân, hại nước? Xin hãy xem gương chiến đấu can cường của ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam và vô số chiến sĩ cách mạng đã bị Việt cộng hãm hại chết, để làm đài soi lại lương tâm mình!
Kẻ hèn này, cùng đồng bào trong và ngoài nước, rất mong được vậy lắm thay!
Hoàng Ngọc Giao
Nguồn: http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=14225
Nguồn: http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=14225
=========
Cuộc đời ông qua lăng kính LTS.
NGUYỄN = 7
(VĂN = 615 = 12 = 3)
THÀNH = 45155 = 20 = 2
NAM = 514 = 10 = 1
Cộng lại: 7 2 1 = 10 = bánh xe định mạng.
Sau đây là ý nghĩa của số này.
Bánh xe Định Mạng (The Wheel of Fortune)
Số 10 được tượng trưng bởi Isis và Osiris. Một số của thăng trầm, tùy theo ước muốn cá nhân. Sự việc có thể tốt hay xấu, tùy theo hành động đã chọn. Số 10 có thể kích thích (arouse) những đáp ứng (response) quá mức trong tình yêu hoặc thù hận – kính trọng hay sợ hãi. Không có biên giới rõ rệt giữa danh dự và tủi nhục. 10 là tượng trưng của Tình yêu và Ánh sáng, có thể tạo ra tất cả những gì bạn có thể tưởng tượng hoặc hình dung (imagined). Hãy tưởng tượng (image) một điều gì đó và ra lịnh/quyết định (ordain), nó sẽ thành hiện thực (materialize). Quyền lực để bày tỏ những quan niệm có tính sáng tạo (creative concepts) trở thành thực tế là cố hửu (inherent), nhưng quyền lực này phải được dùng với sự khôn ngoan, bởi vì quyền lực của sự sáng tạo tuyệt đối này cũng chứa đựng quyền lực đối nghịch ( polarity power) của sự hủy diệt tuyệt đối. Tự làm chủ mình (self-discipline) và lòng thương người vô hạn (infinite compassion) phải đi kèm quyền lực thứ nhứt để tránh thảm kịch của quyền lực thứ hai. Kỷ luật (Discipline) phải đi trước Thực thi quyền hành (Dominion). Bất hạnh thay, một số người thuộc nhóm 10 đã không thực hiện được quyền lực đầy tiềm năng này, và kết quả là đã ấp ủ (harbor) những cảm xúc thất vọng khó lay chuyển (deep-seated), đã làm cho họ cảm thấy không thỏa mản (unfulfilled), và thỉnh thoảng đã bày tỏa sự hơi hãnh diện và kiêu căng để che dấu những cảm giác tự ty không cần thiết./.
Subscribe to:
Posts (Atom)