Bùi Anh Trinh – JOHN PAUL VANN, MỘT VIÊN TƯỚNG CIA
CAPTAIN JAMES VĂN THẠCH·THURSDAY, MARCH 30, 2017
John Paul Vann - https://www.facebook.com/John-Paul-Vann-9788538811/
#English - John Paul Vann was a Lieutenant Colonel in the U.S. Army & became Senior American advisor in II Corp, South Vietnam - http://en.wikipedia.org/wiki/John_Paul_Vann
CAPTAIN JAMES VĂN THẠCH·THURSDAY, MARCH 30, 2017
John Paul Vann - https://www.facebook.com/John-Paul-Vann-9788538811/
#English - John Paul Vann was a Lieutenant Colonel in the U.S. Army & became Senior American advisor in II Corp, South Vietnam - http://en.wikipedia.org/wiki/John_Paul_Vann
Vừa qua có nhiều người đã lục ra các tài liệu của phía Hoa Kỳ trên internet về chiến tranh Việt Nam rồi tổng hợp hoặc trích thuật những bài viết đó, coi như là kết luận sau cùng của lịch sử. Nhưng những tài liệu này hoàn toàn lỗi thời vì được viết trước 1975, không đối chiếu lại với các tài liệu mới được giải mã sau này, nhất là tài liệu của CIA.
Rồi trong một nửa thiếu đó lại thiếu một nửa đối chiếu lại với các tài liệu mới được tiết lộ của những người trong cuộc, phía CSVN cũng như phía VNCH. Do đó các bài viết tổng hợp các tài liệu xưa trên internet chỉ còn giá trị một phần tư bởi vì chỉ phản ánh một phần nào đó của sự thật..
Một thí dụ điển hình là các tài liệu của HK về nhân vật John Paul Vann, theo các tài liệu do bạn bè của Vann ghi lại thì Vann là một ông tướng dân sự, không phải là dân nhà binh mà điều quân khiển tướng như là nhân vật thần thoại. Trong khi sự thực Vann chỉ là một người rất phàm tục, rất đời thường.
Rồi trong một nửa thiếu đó lại thiếu một nửa đối chiếu lại với các tài liệu mới được tiết lộ của những người trong cuộc, phía CSVN cũng như phía VNCH. Do đó các bài viết tổng hợp các tài liệu xưa trên internet chỉ còn giá trị một phần tư bởi vì chỉ phản ánh một phần nào đó của sự thật..
Một thí dụ điển hình là các tài liệu của HK về nhân vật John Paul Vann, theo các tài liệu do bạn bè của Vann ghi lại thì Vann là một ông tướng dân sự, không phải là dân nhà binh mà điều quân khiển tướng như là nhân vật thần thoại. Trong khi sự thực Vann chỉ là một người rất phàm tục, rất đời thường.
Cố vấn quân đội VNCH
John Paul Vann nguyên là Trung tá trong Phái bộ viện trợ quân sự Hoa Kỳ ( MACV ) từ năm 1962, ông giữ chức vụ Cố vấn Sư đoàn 7 Bộ binh. Các tài liệu nói về ông đều cho thấy ông là một người bị bệnh “thái nhân cách” ( Một dạng tâm thần phân liệt, người bị bệnh có óc tưởng tượng rất mạnh; có niềm tin cực đoan vào chính mình, cho rằng hễ những gì mình nghĩ là đúng, là chân lý, còn những gì đi ngược lại với suy nghĩ của mình đều là sai trái. Ngôn ngữ Việt gọi là bệnh “đồng bóng” ).
Tháng 1 năm 1963 ông chỉ huy 1 trung đoàn quân đội VNCH gồm Bộ binh, Biệt động quân, Bảo An, Hải thuyền, Thiết vận xa cùng với trực thăng Hoa Kỳ bao vây tấn công 2 đại đội du kích quân CSVN tại Ấp Bắc, tỉnh Định Tường; nhưng kết quả là thảm bại, 5 trực thăng rớt, 3 thiết vận xa M.113 bị đốt cháy, hai đại đội du kích trốn thoát.( Nếu muốn biết rõ hơn xin xem bài “Chuyện Võ Nguyên Giáp làm gián điệp cho Liên Xô” trong trang Văn tuyển ).
Tướng Tôn Thất Đính đã nhận xét về trận Ấp Bắc : “…kết quả của trận Ấp Bắc là một thảm bại vô cùng phi lý, một sự phi lý vượt ra ngoài sự hiểu biết của những người cầm quân đánh giặc từ phía Hoa Kỳ cũng như từ phía VNCH”… Không ai hiểu được vì sao?” ( Tôn Thất Đính, 20 Năm Binh Nghiệp, trang 267 ).
Thế nhưng trước mặt Tướng Harkins là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam Vann đổ lỗi cho các cấp chỉ huy VNCH quá tệ. Đặc biệt lối phát biểu cực đoan với những lời lẽ phê bình “cao bồi” của ông đã thỏa mãn được tự ái của báo chí Hoa Kỳ ( Thua là tại các cấp chỉ huy VNCH quá dở chứ không phải máy bay, xe tăng của Mỹ dở )..
John Paul Vann nguyên là Trung tá trong Phái bộ viện trợ quân sự Hoa Kỳ ( MACV ) từ năm 1962, ông giữ chức vụ Cố vấn Sư đoàn 7 Bộ binh. Các tài liệu nói về ông đều cho thấy ông là một người bị bệnh “thái nhân cách” ( Một dạng tâm thần phân liệt, người bị bệnh có óc tưởng tượng rất mạnh; có niềm tin cực đoan vào chính mình, cho rằng hễ những gì mình nghĩ là đúng, là chân lý, còn những gì đi ngược lại với suy nghĩ của mình đều là sai trái. Ngôn ngữ Việt gọi là bệnh “đồng bóng” ).
Tháng 1 năm 1963 ông chỉ huy 1 trung đoàn quân đội VNCH gồm Bộ binh, Biệt động quân, Bảo An, Hải thuyền, Thiết vận xa cùng với trực thăng Hoa Kỳ bao vây tấn công 2 đại đội du kích quân CSVN tại Ấp Bắc, tỉnh Định Tường; nhưng kết quả là thảm bại, 5 trực thăng rớt, 3 thiết vận xa M.113 bị đốt cháy, hai đại đội du kích trốn thoát.( Nếu muốn biết rõ hơn xin xem bài “Chuyện Võ Nguyên Giáp làm gián điệp cho Liên Xô” trong trang Văn tuyển ).
Tướng Tôn Thất Đính đã nhận xét về trận Ấp Bắc : “…kết quả của trận Ấp Bắc là một thảm bại vô cùng phi lý, một sự phi lý vượt ra ngoài sự hiểu biết của những người cầm quân đánh giặc từ phía Hoa Kỳ cũng như từ phía VNCH”… Không ai hiểu được vì sao?” ( Tôn Thất Đính, 20 Năm Binh Nghiệp, trang 267 ).
Thế nhưng trước mặt Tướng Harkins là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam Vann đổ lỗi cho các cấp chỉ huy VNCH quá tệ. Đặc biệt lối phát biểu cực đoan với những lời lẽ phê bình “cao bồi” của ông đã thỏa mãn được tự ái của báo chí Hoa Kỳ ( Thua là tại các cấp chỉ huy VNCH quá dở chứ không phải máy bay, xe tăng của Mỹ dở )..
Đến năm 1964 một chi đoàn thiết vận xa ( 14 chiếc ) bị phục kích tổn thất nặng tại Bình Giả, chiến thuật “Thiết vận xa” hầu như bị phá sản, một lần nữa Vann lại liên lạc với ký giả David Halberstam của tờ New York Times phỉ báng các chỉ huy quân sự VNCH thậm tệ đến nỗi tướng Paul Harkins đã ký quyết định đuổi ông ra khỏi quân đội.
Ông trở về Hoa Kỳ sinh sống nhưng thường trở lại thăm Việt Nam là quê vợ ( Vợ thứ hai, trước khi đến Việt Nam ông đã chia tay với người vợ đã có 5 con với ông. Người vợ sau này là bà con của Tướng Lý Tòng Bá. Điều này giải thích mối thân tình đặc biệt giữa Tướng Bá và John Paul Vann ). Nhờ thường xuyên đến Việt Nam ông trở thành người cố vấn tin tức cho giới báo chí Hoa Kỳ, những nhận xét của ông có giá trị đối với những ai chưa từng làm việc tại Việt Nam.
Ông trở về Hoa Kỳ sinh sống nhưng thường trở lại thăm Việt Nam là quê vợ ( Vợ thứ hai, trước khi đến Việt Nam ông đã chia tay với người vợ đã có 5 con với ông. Người vợ sau này là bà con của Tướng Lý Tòng Bá. Điều này giải thích mối thân tình đặc biệt giữa Tướng Bá và John Paul Vann ). Nhờ thường xuyên đến Việt Nam ông trở thành người cố vấn tin tức cho giới báo chí Hoa Kỳ, những nhận xét của ông có giá trị đối với những ai chưa từng làm việc tại Việt Nam.
Cố vấn Bình định phát triển của CIA
Tháng 7 năm 1965 ông Cabot Lodge trở lại làm Đại sứ tại Việt Nam, ông mang theo hai ông trùm CIA là Lansdale, Conein cùng với John Paul Vann và Tiến sĩ Daniel Ellsberg ( người sau này nổi danh vì tiết lộ hồ sơ mật của Ngũ Giác Đài cho báo chí ).
Vann làm việc với cơ quan Bình định phát triển là một tổ chức phối hợp giữa CIA và quân đội HK. Mới đầu ông làm Cố vấn cho tỉnh Kiến Hòa, tại đây ông làm quen với Tỉnh trưởng Trần Ngọc Châu.
Sau đó ông làm Cố vấn Bình định phát triển cho Quân đoàn 3 tại đây ông chú ý tới tỉnh trưởng Bình Dương Lý Tòng Bá và tỉnh trưởng Bình Long Lê Minh Đảo. ( Tỉnh trưởng Lý Tòng Bá đang là Trung tá Trung đoàn trưởng Thiết Giáp được Vann vận động về làm Tỉnh trưởng Bình Dương để thực hiện Kế hoạch Bình Định phát triển nông thôn tại Bình Dương ).
Tháng 7 năm 1965 ông Cabot Lodge trở lại làm Đại sứ tại Việt Nam, ông mang theo hai ông trùm CIA là Lansdale, Conein cùng với John Paul Vann và Tiến sĩ Daniel Ellsberg ( người sau này nổi danh vì tiết lộ hồ sơ mật của Ngũ Giác Đài cho báo chí ).
Vann làm việc với cơ quan Bình định phát triển là một tổ chức phối hợp giữa CIA và quân đội HK. Mới đầu ông làm Cố vấn cho tỉnh Kiến Hòa, tại đây ông làm quen với Tỉnh trưởng Trần Ngọc Châu.
Sau đó ông làm Cố vấn Bình định phát triển cho Quân đoàn 3 tại đây ông chú ý tới tỉnh trưởng Bình Dương Lý Tòng Bá và tỉnh trưởng Bình Long Lê Minh Đảo. ( Tỉnh trưởng Lý Tòng Bá đang là Trung tá Trung đoàn trưởng Thiết Giáp được Vann vận động về làm Tỉnh trưởng Bình Dương để thực hiện Kế hoạch Bình Định phát triển nông thôn tại Bình Dương ).
Đến tháng 11 năm 1968 Vann chuyển về làm Cố vấn Bình định phát triển cho Quân đoàn 4. Tháng 5-1970 Tướng Ngô Du từ Trung tâm Bình định phát triển tại Bộ Tổng tham mưu về làm Tư lệnh Quân đoàn 4, Vann trở nên thân thiết với Ngô Du, trước kia hai người chỉ biết nhau vì làm việc cùng ngành.
Cũng tại Quân đoàn 4, Cố vấn Bình định phát triển tỉnh Vĩnh Long là Stephen Young đã được hân hạnh biết đến nhân vật lừng danh John Paul Vann. Tuy nhiên giáo sư Stephen Young đã ghi lại nhận xét của mình về Vann như sau :
“Vann bay đến từng nơi và nói với chúng tôi: “Hãy tìm hiểu tất cả những gì trong quận của anh và ngủ tại làng. Tôi chợt khám phá ra, ông ta quá lãng mạn ( Đồng bóng ), tin rằng không phải dân chúng Việt Nam mà là người Hoa Kỳ mới làm ra chiến thắng”. ( Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 301 ).
Cũng tại Quân đoàn 4, Cố vấn Bình định phát triển tỉnh Vĩnh Long là Stephen Young đã được hân hạnh biết đến nhân vật lừng danh John Paul Vann. Tuy nhiên giáo sư Stephen Young đã ghi lại nhận xét của mình về Vann như sau :
“Vann bay đến từng nơi và nói với chúng tôi: “Hãy tìm hiểu tất cả những gì trong quận của anh và ngủ tại làng. Tôi chợt khám phá ra, ông ta quá lãng mạn ( Đồng bóng ), tin rằng không phải dân chúng Việt Nam mà là người Hoa Kỳ mới làm ra chiến thắng”. ( Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 301 ).
Chống lại Thiệu trong vụ Trần Ngọc Châu
Năm 1969 John Paul Vann lại dính dự vào việc dân biểu Trần Ngọc Châu bị truy tố về tội liên lạc với Cọng sản. Thực ra người anh của Trung tá Châu là Trần Ngọc Hiền đại diện của Mặt trận Giải phóng Miền Nam muốn tiếp xúc thẳng với đại sứ Hoa Kỳ nhưng Đại sứ Cabot Lodge không chấp thuận; mọi việc Châu có thông báo cho John Paul Vann và ông trùm CIA Lucien Conein.
Khi nghe Châu bị truy tố oan thì Vann can thiệp bằng cách dùng trực thăng riêng của ông chở Châu đi trốn, và dùng uy tín của mình để nhờ báo chí làm áp lực đòi thả Châu. Hành động của ông khiến cho Tổng thống Thiệu nghĩ rằng Đại sứ Bunker và CIA muốn lén VNCH tiếp xúc thẳng với MTGPMN. Đại sứ Bunker chỉ biết chứng minh tòa đại sứ vô tội bằng cách đồng ý cho bắt Châu.
Năm 1969 John Paul Vann lại dính dự vào việc dân biểu Trần Ngọc Châu bị truy tố về tội liên lạc với Cọng sản. Thực ra người anh của Trung tá Châu là Trần Ngọc Hiền đại diện của Mặt trận Giải phóng Miền Nam muốn tiếp xúc thẳng với đại sứ Hoa Kỳ nhưng Đại sứ Cabot Lodge không chấp thuận; mọi việc Châu có thông báo cho John Paul Vann và ông trùm CIA Lucien Conein.
Khi nghe Châu bị truy tố oan thì Vann can thiệp bằng cách dùng trực thăng riêng của ông chở Châu đi trốn, và dùng uy tín của mình để nhờ báo chí làm áp lực đòi thả Châu. Hành động của ông khiến cho Tổng thống Thiệu nghĩ rằng Đại sứ Bunker và CIA muốn lén VNCH tiếp xúc thẳng với MTGPMN. Đại sứ Bunker chỉ biết chứng minh tòa đại sứ vô tội bằng cách đồng ý cho bắt Châu.
Sau khi Châu bị bắt, Vann vận động công kích Tổng thống Thiệu tại Washington, ông ta đã xin được ra điều trần trước Thượng viện Hoa Kỳ 2 lần, tuy nhiên những điều ông đưa ra tại Thượng viện đều bị Đại sứ Bunker bác bỏ.
Bunker cho rằng Tổng thống Thiệu quyết định truy tố Trần Ngọc Châu là có sự đồng ý của Đại sứ và Trưởng chi nhánh CIA Sharkley. Riêng đối với Vann thì Bunker gọi về Tòa đại sứ và ra chỉ thị tối hậu là nếu không ngưng ngay thì ông đuổi việc tức khắc. Vann đành chịu thua nhưng cũng từ đó ông bất mãn Tổng thống Thiệu sâu sắc ( Tài liệu của Bunker do Stephen Young phổ biến ).
Bunker cho rằng Tổng thống Thiệu quyết định truy tố Trần Ngọc Châu là có sự đồng ý của Đại sứ và Trưởng chi nhánh CIA Sharkley. Riêng đối với Vann thì Bunker gọi về Tòa đại sứ và ra chỉ thị tối hậu là nếu không ngưng ngay thì ông đuổi việc tức khắc. Vann đành chịu thua nhưng cũng từ đó ông bất mãn Tổng thống Thiệu sâu sắc ( Tài liệu của Bunker do Stephen Young phổ biến ).
Cố vấn Quân đoàn 2
Tháng 5 năm 1970 Thiếu tướng Ngô Du được bổ nhiệm chức vụ Quyền tư lệnh Vùng 4 Chiến thuật sau khi tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn. Chức vụ này do Tướng Abrams đề nghị với Tướng Cao Văn Viên, và Tổng thống Thiệu ký thuận đề nghị của Tướng Viên.
Đến tháng 8-1970 quân đội VNCH sắp xếp lại tổ chức lãnh thổ trên toàn quốc, các Vùng chiến thuật được đổi thành các Quân khu, do đó các Tư lệnh Quân khu được sắp xếp lại; tướng Ngô Quang Trưởng từ Sư đoàn 1 Bộ binh về làm Tư lệnh Quân khu 4 và Tướng Ngô Du về làm Tư lệnh Quân khu 2 thay thế cho tướng Lữ Lan.
Tháng 4 năm 1971, nhân dịp Tướng cố vấn Quân đoàn 2 về nước, Tướng Ngô Du đề nghị với tướng Abrams cho John Paul Vann về làm cố vấn Quân đoàn 2. Tướng Abrams miễn cưỡng chấp thuận bởi vì Vann đã xuất ngũ và hiện đang là công chức của CIA biệt phái cho Cơ quan Bình định phát triển của MACV trong khi chức vụ Cố vấn quân đoàn phải là một ông tướng tại ngũ, chỉ huy các ông tướng tư lệnh các đơn vị quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh trong Quân khu. ( Do đó mà sau này John Paul Vann tử trận tại Việt Nam nhưng không được ghi tên trên Tường Đá Đen là nơi ghi tên các quân nhân Hoa Kỳ tử trận tại Việt Nam ).
Tháng 5 năm 1970 Thiếu tướng Ngô Du được bổ nhiệm chức vụ Quyền tư lệnh Vùng 4 Chiến thuật sau khi tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn. Chức vụ này do Tướng Abrams đề nghị với Tướng Cao Văn Viên, và Tổng thống Thiệu ký thuận đề nghị của Tướng Viên.
Đến tháng 8-1970 quân đội VNCH sắp xếp lại tổ chức lãnh thổ trên toàn quốc, các Vùng chiến thuật được đổi thành các Quân khu, do đó các Tư lệnh Quân khu được sắp xếp lại; tướng Ngô Quang Trưởng từ Sư đoàn 1 Bộ binh về làm Tư lệnh Quân khu 4 và Tướng Ngô Du về làm Tư lệnh Quân khu 2 thay thế cho tướng Lữ Lan.
Tháng 4 năm 1971, nhân dịp Tướng cố vấn Quân đoàn 2 về nước, Tướng Ngô Du đề nghị với tướng Abrams cho John Paul Vann về làm cố vấn Quân đoàn 2. Tướng Abrams miễn cưỡng chấp thuận bởi vì Vann đã xuất ngũ và hiện đang là công chức của CIA biệt phái cho Cơ quan Bình định phát triển của MACV trong khi chức vụ Cố vấn quân đoàn phải là một ông tướng tại ngũ, chỉ huy các ông tướng tư lệnh các đơn vị quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh trong Quân khu. ( Do đó mà sau này John Paul Vann tử trận tại Việt Nam nhưng không được ghi tên trên Tường Đá Đen là nơi ghi tên các quân nhân Hoa Kỳ tử trận tại Việt Nam ).
Đầu năm 1971 có tin Hà Nội đưa Sư đoàn 320 vào đánh Tây Nguyên; để đối phó với trận chiến sắp sửa xảy ra, John Paul Vann đề nghị Tướng Ngô Du cho thay thế hai ông tướng tư lệnh Sư đoàn 22 BB và Sư đoàn 23 BB tại Quân khu 2 vì lý do hai ông tướng đã già, không còn năng động.
Sau khi biết được đề nghị của Vann và biết được sự khó xử của Tướng Ngô Du thì tướng Tư lệnh Sư đoàn 23 BB là Võ Văn Cảnh và tướng Tư lệnh Sư đoàn 22 BB là Lê Ngọc Triển đều ngỏ ý xin từ chức với lý do đã cao tuổi. Nhờ vậy Tướng Ngô Du mới xin Tướng Cao Văn Viên đề nghị cho Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lệnh Sư đoàn 23 BB và Đại tá Lê Đức Đạt làm Tư lệnh Sư đoàn 22 BB.
Sau khi biết được đề nghị của Vann và biết được sự khó xử của Tướng Ngô Du thì tướng Tư lệnh Sư đoàn 23 BB là Võ Văn Cảnh và tướng Tư lệnh Sư đoàn 22 BB là Lê Ngọc Triển đều ngỏ ý xin từ chức với lý do đã cao tuổi. Nhờ vậy Tướng Ngô Du mới xin Tướng Cao Văn Viên đề nghị cho Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư lệnh Sư đoàn 23 BB và Đại tá Lê Đức Đạt làm Tư lệnh Sư đoàn 22 BB.
Theo Đại tá Trịnh Tiếu thì Tướng Du lấy lý do Đại tá Đạt đang làm Tư lệnh phó Sư đoàn 22 BB cũng là một người trẻ tuổi; nhưng thực ra thì Tướng Du biết Đại tá Đạt là người thân của Tướng Cao Văn Viên cho nên nếu không dùng Đại tá Đạt thì sợ mất lòng Tướng Viên.
Tuy nhiên quyết định này làm phật lòng John Paul Vann cho nên ông ta có ác cảm với Đại tá Lê Đức Đạt. Đại tá Trịnh Tiếu thuật lại thái độ trịch thượng của John Paul Vann đã dẫn đưa tới cái chết của Đại tá Đạt :
“Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Ðại tá Philip Kaplan, cố vấn cho Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết Paul Vann không ưa thích, Ðại tá Ðạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành động thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ và nói cộc lốc bằng giọng mũi:”Ðại tá Ðạt, ông sẽ là vị Tư lịnh Sư đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận”. Ðại tá Ðạt rất tức giận, ông đã vứt điếu thuốc đang hút xuống đất, cười gằn và bảo Paul Vann:”-, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra… “
“Khoảng 2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã bao vây căn cứ Tân Cảnh. Ðại tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa sáng tại bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn. Ðại tá Kaplan cho Ðại tá Ðạt biết và yêu cầu cùng lên trực tăng cấp cứu của Paul Vann nhưng Ðại tá Ðạt từ chối…”
Hồi ký của Tướng Lý Tòng Bá cũng cho thấy sự thật : “Đáng lẽ tôi phải là người đi nhận quyền Tư Lệnh SĐ 22 Bộ Binh. Vì trước đó, ông Vann Cố Vấn Quân Đoàn thay đổi ý kiến giao SĐ cho Đại Tá Lê đức Đạt, còn tôi đi nhận quyền Tư Lệnh SĐ 23 BB (ông Vann khi gặp tôi sau đó cho biết như vậy)”. Nghĩa là Cố vấn Vann là người quyết định giao cho ai làm tư lệnh sư đoàn, đoạt luôn quyền hành của Ngô Du. Tướng Bá vô tình ghi lại điều này mà không hề thắc mắc về chủ quyền của VNCH.
“Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Ðại tá Philip Kaplan, cố vấn cho Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết Paul Vann không ưa thích, Ðại tá Ðạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành động thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ và nói cộc lốc bằng giọng mũi:”Ðại tá Ðạt, ông sẽ là vị Tư lịnh Sư đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận”. Ðại tá Ðạt rất tức giận, ông đã vứt điếu thuốc đang hút xuống đất, cười gằn và bảo Paul Vann:”-, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra… “
“Khoảng 2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã bao vây căn cứ Tân Cảnh. Ðại tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa sáng tại bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn. Ðại tá Kaplan cho Ðại tá Ðạt biết và yêu cầu cùng lên trực tăng cấp cứu của Paul Vann nhưng Ðại tá Ðạt từ chối…”
Hồi ký của Tướng Lý Tòng Bá cũng cho thấy sự thật : “Đáng lẽ tôi phải là người đi nhận quyền Tư Lệnh SĐ 22 Bộ Binh. Vì trước đó, ông Vann Cố Vấn Quân Đoàn thay đổi ý kiến giao SĐ cho Đại Tá Lê đức Đạt, còn tôi đi nhận quyền Tư Lệnh SĐ 23 BB (ông Vann khi gặp tôi sau đó cho biết như vậy)”. Nghĩa là Cố vấn Vann là người quyết định giao cho ai làm tư lệnh sư đoàn, đoạt luôn quyền hành của Ngô Du. Tướng Bá vô tình ghi lại điều này mà không hề thắc mắc về chủ quyền của VNCH.
Tướng Nguyễn Văn Toàn làm tư lệnh Quân đoàn 2
Trong những ngày Mùa hẻ đỏ lửa 1972, tướng Ngô Du từ chức vì bệnh tim, tài liệu của CIA ghi lại :
“Thiệu định thay tướng Ngô Dzu bằng tướng Phan Trọng Chinh, một tướng nổi tiếng bất tài khác. Trước tình hình này đại sứ Bunker buộc lòng gởi tổng thống Thiệu một danh sách tướng lãnh khác để Thiệu chọn, trong đó không có Chinh. Tổng thống Thiệu chọn tướng Nguyễn Văn Toàn.
Trong những ngày Mùa hẻ đỏ lửa 1972, tướng Ngô Du từ chức vì bệnh tim, tài liệu của CIA ghi lại :
“Thiệu định thay tướng Ngô Dzu bằng tướng Phan Trọng Chinh, một tướng nổi tiếng bất tài khác. Trước tình hình này đại sứ Bunker buộc lòng gởi tổng thống Thiệu một danh sách tướng lãnh khác để Thiệu chọn, trong đó không có Chinh. Tổng thống Thiệu chọn tướng Nguyễn Văn Toàn.
Toàn là một tướng cầm quân giỏi, khổ nổi Toàn vốn là tư lệnh Sư đoàn 2 bị cách chức vì tham nhũng và đang nằm chờ tòa án truy tố về tội quan hệ bất chính với trẻ vị thành niên”. ( Bản dịch của Trần Bình Nam ). Như vậy người cắt cử ông tướng tư lệnh Quân đoàn là ông Đại sứ Mỹ chứ không phải là ông Tổng thống VNCH.
Tài liệu CIA ghi rằng Tướng PTC “nổi tiếng bất tài” trong khi sự thực PTC là một tướng Nhảy Dù nổi tiếng từ khi binh chủng này mới được thành lập. Ông được điểm rất cao về đạo đức và khả năng lãnh đạo chỉ huy. Ngay từ năm 1960 khi Trung úy Ngô Quang Trưởng làm Đại đội trưởng của Tiểu đoàn 5 Dù thì Thiếu tá Phan Trọng Chinh đã là Tham mưu trưởng Liên đoàn Dù và là một trong bốn nhân vật chủ chốt tổ chức đảo chánh ông Diệm vào năm 1960, lúc đó Trung tá Cao Văn Viên chưa học nhảy dù.
Thực ra chuyện nổi tiếng bất tài là không có, CIA chỉ báo cáo như vậy để che đậy quyết định của đại sứ Bunker. Bunker đã hoảng hốt khi biết Tướng Thiệu đưa Tướng Phan Trọng Chinh lên làm Tư lệnh Vùng 2 bởi vì ông ta biết chắc chắn sẽ xảy ra bùng nổ mạnh giữa Tướng Chinh với cố vấn John Paul Vann, Tướng Chinh nổi tiếng với thành tích “kỳ thị cố vấn Mỹ”. Vì vậy CIA không dám báo cáo rõ về Washington.
Tài liệu CIA ghi rằng Tướng PTC “nổi tiếng bất tài” trong khi sự thực PTC là một tướng Nhảy Dù nổi tiếng từ khi binh chủng này mới được thành lập. Ông được điểm rất cao về đạo đức và khả năng lãnh đạo chỉ huy. Ngay từ năm 1960 khi Trung úy Ngô Quang Trưởng làm Đại đội trưởng của Tiểu đoàn 5 Dù thì Thiếu tá Phan Trọng Chinh đã là Tham mưu trưởng Liên đoàn Dù và là một trong bốn nhân vật chủ chốt tổ chức đảo chánh ông Diệm vào năm 1960, lúc đó Trung tá Cao Văn Viên chưa học nhảy dù.
Thực ra chuyện nổi tiếng bất tài là không có, CIA chỉ báo cáo như vậy để che đậy quyết định của đại sứ Bunker. Bunker đã hoảng hốt khi biết Tướng Thiệu đưa Tướng Phan Trọng Chinh lên làm Tư lệnh Vùng 2 bởi vì ông ta biết chắc chắn sẽ xảy ra bùng nổ mạnh giữa Tướng Chinh với cố vấn John Paul Vann, Tướng Chinh nổi tiếng với thành tích “kỳ thị cố vấn Mỹ”. Vì vậy CIA không dám báo cáo rõ về Washington.
Sự thật là năm 1966, khi Thiếu tướng Phan Trọng Chinh giữ chức vụ Tư lệnh sư đoàn 25 Bộ binh kiêm Tư lệnh Khu 32 chiến thuật, ông đã đụng chạm mạnh với cố vấn sư đoàn là Đại tá Hellicut. Đến nỗi ông ra lệnh cho quân cảnh trục xuất Đại tá Hellicut ra khỏi doanh trại của Bộ tư lệnh Sư đoàn. Sau đó ông ra nhật lệnh khuyến cáo các sĩ quan VNCH trong Sư đoàn và Khu chiến thuật không được để mất tư cách của người chỉ huy quân đội VNCH trước các cố vấn “ngoại quốc”.
Đích thân Tướng Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại VN là Westmoreland đáp trực thăng xuống BTL Sư đoàn để giải quyết nhưng Tướng Chinh lấy cớ bị bệnh không tiếp. Ngày hôm sau Đại tướng Cao Văn Viên đáp trực thăng xuống thì ông mới ra đón. Sau đó Đại tá Hellicut bị đổi đi đơn vị khác.
Một năm sau Tướng Chinh được thăng Trung tướng và về làm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn, một nơi nổi tiếng với rừng tham nhũng tại các quân trường bởi vì ông là ông tướng nổi tiếng thanh liêm thứ nhì của quân đội VNCH, chỉ sau Tướng Nguyễn Đức Thắng ( Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng ).
Đích thân Tướng Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại VN là Westmoreland đáp trực thăng xuống BTL Sư đoàn để giải quyết nhưng Tướng Chinh lấy cớ bị bệnh không tiếp. Ngày hôm sau Đại tướng Cao Văn Viên đáp trực thăng xuống thì ông mới ra đón. Sau đó Đại tá Hellicut bị đổi đi đơn vị khác.
Một năm sau Tướng Chinh được thăng Trung tướng và về làm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn, một nơi nổi tiếng với rừng tham nhũng tại các quân trường bởi vì ông là ông tướng nổi tiếng thanh liêm thứ nhì của quân đội VNCH, chỉ sau Tướng Nguyễn Đức Thắng ( Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng ).
Nhưng cũng từ đó tên của Tướng Phan Trọng Chinh luôn luôn nằm trong sổ đen của CIA và MACV, người ta cho rằng ông có tinh thần “bài Mỹ”. Vì vậy mới có chuyện đại sứ Bunker phải ra tay can thiệp, không cho Phan Trọng Chinh đụng độ với John Paul Vann tại Quân đoàn 2.
Lúc Bunker đưa ra danh sách một số tướng cho Tổng thống Thiệu thì ông đã cố tình lồng vào đó tên của tướng Nguyễn Văn Toàn là người đang mang tai tiếng bởi vì ông biết chắc ông Thiệu sẽ không dám chọn ông tướng này. Nhưng ông quên rằng đối với Thiệu thì đừng hòng can thiệp vào chuyện của ông ta. Thiệu đã quyết định làm trái ý Bunker bằng cách không chọn những người do Bunker đưa ra, mà ông lại chọn cái người mà ông biết chắc là Bunker không muốn.
Lúc Bunker đưa ra danh sách một số tướng cho Tổng thống Thiệu thì ông đã cố tình lồng vào đó tên của tướng Nguyễn Văn Toàn là người đang mang tai tiếng bởi vì ông biết chắc ông Thiệu sẽ không dám chọn ông tướng này. Nhưng ông quên rằng đối với Thiệu thì đừng hòng can thiệp vào chuyện của ông ta. Thiệu đã quyết định làm trái ý Bunker bằng cách không chọn những người do Bunker đưa ra, mà ông lại chọn cái người mà ông biết chắc là Bunker không muốn.
Dĩ nhiên là Thiệu biết Toàn còn cứng hơn cả Chinh nếu phải đối đầu với John Paul Vann. Không ngờ là Vann đã chết sau đúng 1 tháng làm việc với Toàn.
Năm 1972, Ngày 9-6, Cố vấn Quân đoàn 2 John Paul Vann từ Pleiku lái máy bay riêng lên thị sát Kontum, trên đường trở về phi cơ của ông bị súng phòng không của Trung đoàn 40 CSVN bắn rơi ( Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp ). Vann tử trận nhưng vì không có trong danh sách quân nhân Hoa Kỳ cho nên chỉ được ghi nhận như là một nhân viên của CIA bị chết trong khi thi hành công vụ.
Năm 1972, Ngày 9-6, Cố vấn Quân đoàn 2 John Paul Vann từ Pleiku lái máy bay riêng lên thị sát Kontum, trên đường trở về phi cơ của ông bị súng phòng không của Trung đoàn 40 CSVN bắn rơi ( Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp ). Vann tử trận nhưng vì không có trong danh sách quân nhân Hoa Kỳ cho nên chỉ được ghi nhận như là một nhân viên của CIA bị chết trong khi thi hành công vụ.
No comments:
Post a Comment