GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA CHIẾN TRANH VN VÀ CHIẾN TRANH MÃ LAI.
===================
Lời nói đầu: Gần đây anh Tám đọc hồi ký của ông Trần Ngọc Nhuận, trong đó tác giả kể lại: "Trong đầu TN 1950, dân miền Bắc, kể cả dân Hà Nội đã có thành kiến hay ác cảm với lính Pháp hay ai đi lính cho Pháp vì những hành động của lính Pháp khi đi hành quân như bắt gà vịt, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ, giết hại dân thường, v.v..."
Thực tế cho thấy lính Pháp đã ko thể nào phân biệt dân lành và kẻ thù VM vì ranh giới giữa 2 thành phần này ko rõ rệt. Trong khi đó, họ lại hành quân dài ngày, trời thì nóng bức, dễ bị bắn sẻ hay đạp phải mìn bẫy gây chết chóc, khiến lính Pháp dễ nổi nóng hay nổi điên, nên có những hành động mất lòng dân như vậy. Đầu thập niên 1950 đã bắt đầu có những đại đội hay tiểu đoàn toàn lính VN (như TĐ 520 Khinh quân VN trong trận phục kích ở đèo Mang Yang năm 1954), hay hổn hợp (mixte) nghĩa là vừa lính Pháp vừa lính VN hay các sắc tộc khác như Miên, Nùng, v.v... - được chỉ huy bởi SQ và HSQ Pháp và sau này thay thế bởi SQ và HSQ Việt. Nay tôi gửi đến anh Tám bài viết về "Những giống nhau và khác nhau giữa chiến tranh VN và chiến tranh tại Mã Lai", tên chính thức lúc đó là Malaya, bây giờ là Malaysia. Đọc bài này bạn sẽ thấy lính Anh và lực lượng chính phủ Mã Lai lắm lúc cũng hành xử như lính Pháp và cách quản lý dân của chánh phủ và lính Anh đôi khi còn TÀN BẠO HƠN qua việc trừng phạt tập thể cả làng khi trong làng chứa du kích hay cảm tình viên với Mã Cộng bằng cách giới nghiêm 24/24, cắt giảm 40/100 của khẩu phần gạo, v.v...
I/ Những giống nhau giữa cuộc chiến VN và chiến tranh chống Mã Cộng tại Mã Lai
Ngoài việc ném bom và rải thuốc khai quang, còn có 2 điểm tương tự.
1/ Chương trình tái định cư
Nước Anh lập chương trình (CT) "tái định cư" đã cung cấp một khuôn mẫu cho quốc sách Ấp Chiến Lược, thời TT Diệm tại VN. Trong cuộc chiến Mã Lai lần ĐẦU từ 1948-1960 (cuộc chiến lần HAI, sau đó 17 năm, từ 1976-1989, ko được đề cập trong bài này). Người Anh lúc đó đã lập 450 khu tái định cư và gom vào đó khoảng 470.509 người - trong đó có 400 ngàn người Hoa (trong tổng số 3.12 triệu người Hoa tại Malaya lúc đó). Một biện pháp chiến tranh của Anh là TRỪNG PHẠT TẬP THỂ đối với những làng mà người dân được chính phủ (CP) cho rằng (deem) giúp đỡ phe nổi dậy. (Chú thích: Điều này ko có tại VN. Lính Úc, do có kinh nghiệm chống du kích ở Mã Lai (vì trong khối Liên hiệp Anh), khi đóng quân ở tỉnh Phước Tuy đã làm chủ tình hình 100/100. Thời đó tỉnh này là an ninh nhứt trong các tỉnh ở VN. Họ đánh theo lối du kích, ví dụ: Cả đại đội tiến quân vào một làng, sau đó rút lui nhưng ém lại một tiểu đội. Lính CS tưởng rút hết, lò mò trở về thì bị phục kích. Theo báo Úc, có lần họ đã cột một xác lính CS vào sau xe tăng M-113 để cảnh cáo dân làng "nếu ai theo VC sẽ có số phận như vậy").
Ở làng Tanjong Malim tháng 3/1952, Trung Tướng Templer, Tư lịnh quân Anh ở Malaya thời đó, áp đặt (impose) giới nghiêm 24/24. Quân Anh còn cấm dân rời khỏi làng, đóng cửa trường, ngừng dịch vụ xe bus và giảm khẩu phần gạo cho 20 ngàn người. Biện pháp giảm phần gạo đã khiến Trường Vệ Sinh và Bịnh Nhiệt Đới ở London viết thư tới VP Thuộc Địa và nhận xét rằng "biện pháp này sẽ dẫn đến những người dân Mã Lai thiếu ăn kinh niên" ko thể sống sót. "Việc làm này ko những chỉ làm gia tăng bịnh tật nhưng cả chết chóc, đặc biệt các bà mẹ và trẻ thơ". Một số người bị phạt vì rời nhà để đi cầu ở nhà cầu sau vườn (external latrine). Một trừng phạt tập thể khác - tại TP Sengei Pelek vào tháng kế - gồm giới nghiêm, khẩu phần gạo bị cắt 40/100 và dựng hàng rào (chain-link) cao 22 yard (20,1 m) bên ngoài hàng rào kẽm gai (barbed wire) cũ quanh TP này. Các viên chức giải thích rằng họ phải làm như vậy đối với 4.000 dân làng vì "sự tiếp tục tiếp tế lương thực" cho phe nổi dậy và "vì dân ko cung cấp thông tin cho nhà cầm quyền".
2/ Tìm và diệt
Cũng như lính Mỹ tại VN, lính Anh cũng thường đốt những làng mà người dân bị kết tội hỗ trợ (support) cho phe nổi dậy, bắt giữ hàng ngàn người tình nghi là cộng tác với nổi dậy, hầu ko còn chỗ cho phe nổi dậy ẩn náo. Nếu khám phá người dân nào giúp đỡ phe nổi dậy thì lính Anh sẽ giữ và điều tra họ bằng cách tra tấn và đe dọa dùng vũ lực chống các thành viên trong gia đình, hầu khám phá nơi đóng quân của nổi dậy. Phe nổi dậy có nhiều thuận lợi hơn lính Anh: họ sống gần ng dân, đôi khi có thân nhân hay bạn thân trong làng, và họ ko ngại dùng bạo động hay tra tấn hay giết các trưởng làng để làm gương cho kẻ khác, buộc ng dân phải giúp họ lương thực và thông tin. Vì vậy lính Anh có đe dọa kép (dual-threat): phe nổi dậy và mạng lưới thầm lặng trong làng, hỗ trợ phe nổi dậy. Trong khi phe nổi dậy hiếm khi đụng độ với lính Anh, họ lại dùng chiến thuật khủng bố để làm dân sợ và phải giúp đỡ vật chất cho họ. Lính Anh thường mô tả sự kinh hãi (terror) khi đi hành quân trong rừng; ngoài việc để ý/canh chừng quân nổi dậy, họ phải di chuyển trên địa thế khó khăn và tránh thú dữ và côn trùng (vắt, muỗi) nguy hiểm. Nhiều toán phải ở trong rừng nhiều ngày, ngay cả nhiều tuần, ko đụng địch và kế đó, trong khoảnh khắc ngắn ngủi lại lọt ổ phục kích. Lính Anh, ko thể phân biệt bạn thù, phải điều chỉnh với nguy cơ thường xuyên bị phe nổi dậy tấn công. Những tình huống này dẫn đến sự kiện ô nhục (infamous incident) tại Batang Kali khi 24 dân làng ko võ trang bị giết bởi lính Anh.
Hình 1: những người tình nghi là du kích hay hợp tác với du kích đang bị tra hỏi và sau đó có thể bị bắn bởi cảnh sát và quân đội Anh; người phụ nữ ngồi bên phải có lẽ là Tàu. Các hình còn lại: cuộc chiến chống Mã Cộng .
========================
II/ Khác nhau giữa chiến tranh VN và Mã Lai (lúc đó gọi là nước Malaya, nay gọi là nước Malaysia)
Chiến tranh tại Mã Lai và VN đã được nhiều lần so sánh và đã được các sử gia đặt câu hỏi làm thế nào lực lượng Liên Hiệp Anh, trong đó có lính Úc, chỉ có 40.000 ng lại thành công trong khi hơn nửa triệu lính Mỹ lại thất bại trên một khu vực nhỏ hơn. Nói thêm: Ngoài 40 ngàn lính thuộc các nước trong Liên Hiệp Anh, còn có 250 ngàn lính Bảo an Mã Lai (Malayan Home Guard), 37 ngàn CS đặc biệt (Special Constable) và 24 ngàn CS liên bang.
Lực lượng liên hiệp Anh gồm: Anh, Liên bang Malaya, Singapore, Nam Rhodesia (do tới 1953), Rhodesia và Nyasaland (sau 1953), đảo Fiji, Úc, Tân Tây Lan. Hỗ trợ bởi Thái ở biên giới Thái-Mã. Lực lượng Mã Cộng gồm: ĐCS Malaya và quân đội dân tộc giải phóng Malaya.
Thương vong (casualities and losses)
1.346 lính và CS Malaya chết, 519 lính Anh chết.
Bị thương: 2.406 lính và CS Anh hay Malaya.
Phe Mã Cộng: 6.710 chết, 1.289 bị thương, 1.287 bị bắt và 2.702 đầu hàng.
Số dân chết: 5.000 ng.
Hai cuộc chiến này khác nhau ở các điểm sau .
1/ Trong khi MNLA (quân đội dân tộc giải phóng Mã Lai) chỉ có hơn 8.000 du kích , quân CS Bắc Việt có hơn 250.000 ng, cộng thêm khoảng 100.000 du kích Việt cộng.
Sự hỗ trợ của Liên Xô và TC đã cung cấp một lượng lớn vũ khí mới nhứt, yểm trợ hậu cần, nhân lực và huấn luyện cho Bắc VN. Bắc VN, cùng chung biên giới với đồng minh TC, cho phép sự giúp đỡ và tái tiếp tế liên tục .
Trong khi lực lượng MNLA bị cô lập và ko có sự giúp đỡ từ bên ngoài (external supporter) - vì ko có biên giới với TC, như VN.
Lực lượng (LL) này đã bị cô lập về chính trị với phần lớn người dân. Như đã nói ở trên, đây là một phong trào chính trị hầu như chỉ có Hoa kiều tham gia; sự hỗ trợ từ người Mã Lai theo Hồi giáo và các bộ lạc nhỏ hơn thì rất ít. Người Mã Lai ủng hộ người Anh vì được hứa sẽ độc lập trong một nhà nước Mã Lai; một chiến thắng của MNLA sẽ bao hàm (imply) một nhà nước khống chế bởi Hoa kiều, và có thể là một nhà nước bù nhìn của Bắc kinh hay Moscow.
Nước Anh chưa bao giờ xem cuộc chiến chống Mã cộng là chiến tranh qui ước và nhanh chóng thực thi một kế hoạch hữu hiệu gồm : 1/ Tình báo (lãnh đạo bởi ngành CS Đặc Biệt của Mã Lai để chống lại nhánh chánh trị của phong trào du kích này) và 2/ "Dân vận và chiêu hồi" (hearts and minds) .
Nhiều người Mã Lai đã cùng người Anh chiến đấu chống lại Nhật trong Thế chiến 2, gồm cả Chin Peng, lãnh đạo của MNLA. Tương phản với Đông Dương khi các viên chức Pháp ko chiến đấu chống Nhật, điều này đã kích động người VN theo chủ nghĩa dân tộc chống lại Pháp. Yếu tố về lòng tin (factor of trust) này giữa dân địa phương và đế quốc Anh đã giúp Anh có thuận lợi hơn Pháp và sau này, Mỹ tại VN, do hai nước này đã ko có sự tin tưởng như vậy từ người VN.
Về mặt thuần túy QS, lính Anh nhìn nhận rằng trong một chiến tranh cường độ thấp (low-intensity war), kỹ năng và chịu đựng của cá nhân người lính thì quan trọng hơn là hỏa lực áp đảo (pháo binh, máy bay, v.v...). Dù cho nhiều lính Anh là lính quân dịch (conscripted) , kỹ năng và thái độ (attitude) cần thiết lại được dạy thêm ở trường chiến tranh rừng núi, (nơi đây) cũng đã áp dụng những chiến thuật tối ưu dựa trên kinh nghiệm chiến trường.
Tại VN, người và vũ khí của VC được chuyển qua nước thứ 3 như Lào và Cambodia trong khi quân Mỹ không được phép vào hai nước này. Điều này cho phép lính CSVN có chổ núp an toàn đối với mọi tấn công của Mỹ. Phe MNLA chỉ có biên giới Thái nơi mà họ đã trú ẩn tới lúc gần kết cuộc chiến .
Tài liệu để viết bài này lấy từ: Bài Malayan Emergency ở
https://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Emergency
Một số ảnh minh họa lấy từ NAT GEO tháng 11 1963 .
No comments:
Post a Comment