Việt Minh là lực lượng võ trang của ĐCSVN dưới tên gọi VN Độc Lập Đồng Minh Hội.
... Sau khi Nhật đầu hàng, CSVN với giúp đỡ của quân Nhật đã lợi dụng khoảng trống quyền lực tại Đông Dương để chiếm Hà Nội và tuyên bố thành lập VNDCCH vào ngày 2/9/45. Nhật đã cung cấp cho VM HÀNG CHỤC NGÀN TẤN võ khí cũng như HAI NGÀN LÍNH NHẬT ĐÀO NGŨ (sau này họ bị VM thủ tiêu -- Tài Trần) để tạo thành xương sống cho quân đội VM mới. Nên nhớ rằng trong lúc đó sức mạnh chánh của VM là xâm nhập vào hạ tầng cơ sở của thuộc địa Pháp cũng như mạng lưới thu thập tình báo (dựa vào dân Việt, thường có được nhờ VM khủng bố). Sau khi quân Pháp trở lại (sau khi Nhật đầu hàng), lúc đầu VM chỉ có thể quấy rối quân Pháp và chỉ đánh nếu quân VM đông hơn Pháp. NHƯNG CUỐI NĂM 1949, sau chiến thắng của CS tại TQ, một nguồn vũ khí đã bắt đầu đổ vào bắc VN, nơi phần lớn lực lượng VM có mặt. Vào NĂM 1952, giúp đở của TC còn dồi dào hơn, khi đường mòn trở thành đường xe hướng vào khu vực phía bắc của Bắc Kỳ. Chiến cụ được chỡ bằng tài xế TC, trên xe tải TC vào vùng VM kiểm soát ở biên giới Hoa-Việt (từ THÁNG 7 1951 - THÁNG 7 1952, 6.280 TẤN VŨ KHÍ được cung cấp cho VM). Dọc theo các đường này là trạm xăng (petrol pump) cũng như súng phòng không TC. Trong các trại ở TC, lính TC đã dạy VM du kích chiến và chiến tranh chớp nhoáng (blitzkrieg) để họ trở thành đặc công, hiệu thính viên, lính pháo binh, sq và chính ủy. Vào năm 1952, VM đã trở thành một quân đội chính quy đáng sợ được huấn luyện kỷ và học tập chính trị/chính huấn bởi TC. VM đã có những sđ pháo binh nhẹ và nặng gồm vũ khí pháo binh và pháo phòng không quy ước với khoảng 6.000 cố vấn thuộc Khối Đông Âu (Easter Bloc). Tướng Giáp có thể tập hợp quanh ĐBP bốn sđ bộ binh và một sđ NẶNG, khoảng 49.500 chiến sĩ với 200 đại bác (75 và 105 ly) và một trung đoàn cao xạ do TC huấn luyện.
Trong giai đoạn đầu, đặc biệt tại miền nam, VM thực hiện một chiến dịch khủng bố, và tra tấn, chặt tay chân (mutilate) và giết bất cứ tù binh gốc Việt hay Pháp cũng như thường dân VN làm cho Pháp; sau đó tù binh Pháp được gửi đến trại TB/trại cải tạo mà cuộc sống ko kéo dài. Nên nhớ rằng trong chiến tranh, VM chỉ đánh khi có quân số áp đảo và thường thắng bằng cách tấn công biển người mà ko đếm xỉa đến tổn thất của chính họ.
VM gồm ba LL chánh sau đây:
1/ Quân VỆ QUỐC gồm các sđ với 3 trung đoàn cho mỗi sđ và mỗi trung đoàn có 3 TĐ.
2/ Quân bán chính quy gồm:
a/ TỰ VỆ là những đv địa phương (mỗi đv từ 100 - 200 ng).
b/ Những đv chống lính Dù gồm một đài quan sát, một nhóm an ninh và xung kích).
c/ Những nhóm quyết tử (suicide) là những toán 10 ng và huấn luyện chính trị bởi chính ủy.
3/ Những đv chính trị có nhiệm vụ thám sát (surveillance) và ám sát.
Tính tới NĂM 1953, quân VM khoảng trên 500.000 ng.
Ghi chú về lực lượng CEFEO: đây là một LL viễn chinh của quân đội Liên hiệp Pháp đầu tiên thành lập ở Đông Dương thuộc Pháp năm 1945 trong chiến tranh Thái Bình Dương. Sau đó họ chiến đấu và tổn thất khi chống VM từ 1946-54.
LL này phần lớn là lính bản xứ và tình nguyện tuyển từ lãnh thổ thuộc địa hay được Pháp bảo hộ, bao gồm lính Lê Dương phần lớn là tình nguyện gốc Âu châu. Việc tuyển mộ lính từ mẫu quốc bị cấm bởi CP trong chiến tranh Đông Dương lần 1 để tránh phản đối tại Pháp.-- Theo wiki.
Troops/Lực lượng của hai phía
C.E.F.E.O | 1951 | 1952 | 1953 | Viet Minh | 1947 | 1951 | 1952 | |
Lính Pháp | 51 175 | 50 737 | 59 526 | |||||
Lính Bắc Phi | 11 000 | 22 892 | 36 628 | |||||
Lính Phi châu | 2 000 | 13 281 | 19 342 | |||||
Lính Lê Dương | 11 131 | 16 664 | 16 586 | |||||
Indochinese/Lính Đông Dương | 35 000 | 86 000 | 60 000 | |||||
Total/Tổng cộng: | 110 306 | 190 592 | 194 263 | Quân chínhquy | 50 000 | 110 000 | 180 000 | |
Quân đội Quốc gia Việt Nam | 70 000 | 135 000 | 200 000 | LL địa phương, Dânquân | 50 000 | 240 000 | 224 400 | |
/Quân đội Quốc gia Lào | 4 000 | 10 000 | 15 000 | |||||
Quân đội Quốc gia Cambodge | 5 500 | 11 000 | 11 000 | |||||
Total/Tổng cộng: | 79 500 | 156 000 | 226 00 | |||||
Combined forces total/Tổng kết: | 189 806 | 346 592 | 420 263 | Tổng cộng: | 1 00 000 | 350 000 | 404 400 |
Note: The C.E.F.E.O. carried the brunt of the fighting and while viewing the above troop figures,
you need to visualize the size of the territory that they had to control, see map at top of page.
Casualties/Tổn thất
KIA/MIA(Chết/ Mất tích khi chiến đấu) | WIA/Bị thương) | POW taken(Tù binh bị bắt) | POW returned (Tù binh trở về) | |
C.E.F.E.O | 75 867 | 65 125 | 14 500 (known/được biết) | 8 516 |
Người dân Đông Dương thuộc Pháp. | 31 716 | N/A (không có số liệu) | 13 359 (known/được biết) | 1 039 |
Việt Minh | 200 000 (est/ước lượng) | 300 000 (est/ước lượng) | 200 000 (est/ước lượng) | N/A |
Quân Pháp ở ĐBP. | 2 748 | 4 436 | 11 721 | 3 290 |
Quân VM ở ĐBP. | 7 900 (est/ước lượng) | 15 000 (est/ước lượng) | N/A (ko có số liệu) | N/A |
20 000 of the French KIA/MIA were from main land France
with a very high proportion of NCO and Officers including 800 St Cyr graduates.
Có 20.000 chết và bị thương và bị thương là người Pháp với tỉ lệ khá cao là HSQ và SQ bao gồm 800 tốt nghiệp Trường Võ bị Saint Cyr.
Nguồn: cưu chiến binh Mỹ thuộc trại LLĐB Gia Vực, Quảng Ngải.
No comments:
Post a Comment