Wednesday, March 25, 2020

BÀN TAY CỦA BẠCH TUỘC TQ ĐÃ VƯƠN QUÁ XA .
Bãi cạn (shoal) Luconia của Malaysia mà mới đây khoảng 100 tàu đánh cá TQ kéo tới khiến Malaysia phải đưa tàu chiến ra . Tuy cách bờ biển Malaysia 60 km nhưng vẫn nằm trong "đường lưỡi bò" màu đỏ trên bản đồ . TQ nói , tàu đánh cá hoạt động trên ngư trường "truyền thống" .
https://www.youtube.com/watch?v=Zc3rArskpDw
Hình 1 và 2 , bản đồ của bãi cạn Luconia
Hình 3-4 : tàu hải giám của TQ đậu cách các rạn san hô của Luconia 1 mile . Các tàu của HQ và hải giám của Malaysia đậu gần đó và sau đó mấy ngày Malaysia phái 1 tàu trang bị hỏa tiển để theo dỏi tàu TQ . Hình này chụp trước khi 100 tàu đánh cá TQ kéo tới ; hai hình này đăng trên FB của 1 BT của Malaysia .
Bạn thấy thực lực của Malaysia như vậy mà TQ còn như vậy , trong khi VN giao việc bảo vệ biển Đông cho ông Lê hải Bình ; kết quả thì các bạn đã biết .











TỪ HƠN 70 NĂM NAY , CẢ DÂN TỘC NÀY ĐÃ BỊ LỪA VÀ SẬP BẪY CỘNG SẢN - VÀ TỚI GIỜ VẪN CÒN TIẾP TỤC BỊ LỪA .
- Ai biểu các anh nghe lời Việt Cộng làm chi !.-- một CA quản giáo nói với chúng tôi vào năm 1980 tại 1 trại tù ở miền bắc .
Nếu khoảng hạ tuần tháng 4/75 , gđ tôi đáp ứng lời yêu cầu của ng Nhật thì gđ tôi đã đi Nhật . Vì lúc đó , ba tôi làm đại diện cho hãng tàu biển Nhật K Lines tại VN . Lúc đó , họ khẩn khoản yêu cầu gđ tôi di tản bằng tàu buôn lớn của họ , đậu tại bến Nhà Rồng (nghĩa là ko phải chen lấn như các ng dân VN khác) nhưng gđ tôi ko chịu . Vì tài sản quá nhiều và cũng chưa có kinh nghiệm với CS .
Lúc đó , phần lớn các đại gia ngành xây dựng tại Sài gòn , trong đó có ba tôi , đều có ý di tản bằng tàu biển (đã có sẵn) , NHƯNG có ông Lê Đức Ty khuyên 'người CS có vào SG thì ko làm gì các ông đâu , vã lại tôi có quan hệ ít nhiều với họ nên có thể giúp các ông' !?!
Thế là các ông này ở lại : ông Trần Ngọc Trình , có building Phước lộc Thọ 10 tầng đường Hai bà Trưng , bị bắt giam , building bị tịch thu , vợ ông đã tự "giải phóng" bằng cách nhảy từ lầu 8 xuống đất . Ông Nguyễn Đình Nhơn , có KS 10 tầng , hiện đại nhất Vũng Tàu ; tầng 1 và 2 dùng làm vũ trường và nhà hàng , 8 từng còn lại làm phòng ngủ có TV và phone . Sau khi CS vào VT , họ vẫn để ông làm GĐ ; vài tháng sau , họ cho ng mang lựu đạn thuê phòng . Thế là , ông bị giam vài tháng (chung với đĩ và trộm cắp) và được thả sau khi KS được "giải phóng" . . . Sau này ông định cư tại CND vì có con du học tại Montreal trước 75 . Riêng ông Lê đức Ty , cũng đi tù , gđ tan nát . . .
Tóm lại , cả dân tộc VN , từ người nghèo đến đại gia , từ kẻ thất học đến trí thức , như DƯƠNG QUỲNH HOA , LÊ HIẾU ĐẰNG , HUỲNH TẤN MẪM , v.v... ĐỀU BỊ CỘNG SẢN LỪA !!!
Tôi nhớ , khoảng năm 1980-81 , ngoài bãi lao động , chúng tôi nói với quản giáo : 'nếu biết NN giam chúng tôi lâu như thế này , chúng tôi đã ko trình diện' . Anh quản giáo rất trẻ trả lời : 'Ai biểu các anh nghe lời Việt Cộng làm chi !'
CUỘC BỎ PHIẾU BẰNG CHÂN : H1 , trong tháng 3/75 , ng dân trốn chạy cs từ Huế dùng đủ mọi loại xe để đi về phía nam qua đèo Hải vân trong khi quân CSBV tiến tới tp này . H2 , một bé gái cõng em trốn chạy CS trên đường tới Tuy hòa . H3 , hai em bé sanh đôi , nằm trong 1 giỏ tre , đang cùng mẹ vào 1 trại tị nạn phía nam Quảng trị .





Cùng là đế quốc nhưng đế quốc CS, chỉ mới ra đời cách đây 97 năm đã bị vất vào sọt rác lịch sử; trong khi đế quốc La Mã dù ra đời cách đây trên 2000 năm vẫn còn nhiều người luyến tiếc và thăm viếng các di tích. TP Arles ở Pháp, tuy rất nhỏ nhưng tiếp 400.000 du khách mỗi năm vì có nhiều di tích của đế quốc này. Tại sao lại như vậy? Xin các bạn trả lời giùm.
Hình 1: Con đường bộ từ La Mã sang Tây Ban Nha đi qua sông Rhones trên một chiếc cầu nổi (pontoon) ở TP này. (Nếu bạn coi các phim cổ xưa sẽ thấy cầu như vầy trước các cổng thành; nhưng nay mới biết là nó có từ TK thứ 1, chứng tỏ KHKT thời đó đã khá cao -- người dịch). Hàng hóa từ Địa trung Hải được chuyên chở ngược sông đến tp này (lúc đó , tp đã này là một cửa ngỏ thương mại phát triển) để sau đó chuyển sang sà lan (barge) mang chúng đi khắp nước Pháp, xem bản đồ.
Chú thích góc dưới trái của bản đồ: Tàu Arles-Rhones 3 di chuyển trong địa phương, nhưng những tàu lớn hơn hoạt động vượt quá tp Lyon. Những đường bộ nối sông Rhones với các sông khác, mở rộng thương mại đến tận Anh và Đức. 
Hình 2: Con tàu Arles-Rhones 3, đến bến trong chuyến đi cuối cùng, chở 33 tấn đá xây dựng từ một mỏ gần 10 dặm phía bắc tp Arles. Con tàu trên, dài 102 foot, đã chìm tại cảng của TP Arles trong một cơn bão lớn, cách đây gần 2 ngàn năm; ng ta đã trục vớt và triển lãm tại Musée Departemental Arles Antique (bảo tàng cổ của quận Arles). Mỗi năm, tp thu hút rất nhiều du khách do từng là nơi danh họa Van Gogh sống một thời gian và cũng có nhiều di tích của đế quốc La Mã: ở trung tâm tp còn một sân động (amphitheatre) từng chứa 20.000 khán giả để xem giác đấu (gladiator).
Nguồn : NGS tháng 4/2014 .


                     

UPDATED ** THE ORIGINAL DATE OF THIS POST WAS OVER A YEAR AGO, IT MAY OR MAY NOT WORK FOR CURRENT ISSUES.
Having problems editing your posts from your timeline too?
I've only noticed this problem when I try to edit my posts that contain images, and only when I'm using my desktop or notebook. I can edit from my timeline using my iPad and iPhone but this is what I have to do to edit on my notebook:
-Click on the image in the post
This opens the post with my text on the righthand side
(If your post only contains TEXT ONLY, click on the drop down arrow on the upper right hand corner of your post)
-Click the Edit button under the text
-Edit the text in the window
-Click the (blue) Done Editing button
-Closed the window
-Refreshed the page
Voila!!


Không tặc ở Việt Nam: Đối mặt với Lý Tống


Võ anh Tuấn
"Lúc đó tôi là đại sứ Việt Nam ở Nam Tư. Khi nội chiến Nam Tư xảy ra, có quyết định đóng cửa sứ quán, tôi phải về Việt Nam theo hành trình Praha (Tiệp Khắc) - Bangkok - TP.HCM.
Lẽ ra tôi sẽ đi chuyến bay TU-154 của Liên Xô nhưng mấy anh bên hàng không nói mình mới thuê được cái Boeing 737 ngon lắm. Chú đổi vé đi Boeing cho sướng. Nghe vậy tôi đổi vé bay. Ai ngờ chuyến bay đó có chuyện" - ông Tuấn kể.
Ép tổ lái và rải truyền đơn
Chiếc máy bay Boeing 737 đó cất cánh rời Bangkok để về sân bay Tân Sơn Nhất (TP.HCM). Tổ lái được Hàng không Việt Nam thuê của Bulgaria. Theo lịch trình, máy bay cất cánh tại sân bay Bangkok lúc 17h, hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc 18h30.
Khoảng 30 phút trước khi máy bay đến TP.HCM thì Lý Tống bắt đầu hành động. 17h45, khi được phục vụ bữa ăn tối trên máy bay, Lý Tống đã lấy cắp con dao inox trên khay thức ăn.
Khoảng 20 phút sau khi một nữ tiếp viên đưa nước uống đến, Lý Tống rút dây dù quàng vào cổ cô này, một tay siết chặt, một tay gí dao đẩy vào phòng tiếp viên.
Lúc này, trong phòng tiếp viên có một tiếp viên người Bulgaria cũng bị Lý Tống uy hiếp và dùng dây dù trói tay chân lại. Lý Tống ép hai tiếp viên nằm xuống sàn máy bay, nếu không hắn sẽ cho nổ bom!
Sau đó, khi nữ tiếp viên tên Thủy Tiên bước vào thì bị Lý Tống khống chế, gí dao vào cổ ép phải mở cửa buồng lái.
Khi vào được buồng lái, Lý Tống tuyên bố trong túi xách có bom và buộc tổ lái phải làm theo sự điều khiển của hắn. Sau đó, Lý Tống đẩy Thủy Tiên ra khỏi buồng lái, đóng cửa lại và uy hiếp cơ trưởng, cơ phó. Hắn tuyên bố sẵn sàng cho nổ bom nếu tổ lái không làm theo yêu cầu.
Trong lúc này, ở ngoài khoang hành khách, hệ thống đèn bật sáng.
"Mọi người vui hẳn khi thấy đèn sáng - cựu đại sứ Võ Anh Tuấn nhớ lại - Bình thường khi đèn bật sáng, tiếp viên hàng không sẽ thông báo máy bay đang giảm dần độ cao, chuẩn bị hạ cánh trong giây lát.
Nhưng 10 phút rồi 15 phút trôi qua không nghe tiếng tiếp viên thông báo gì cả. Trời đã tối. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy rõ đèn đường bên dưới mặt đất chứng tỏ máy bay đã hạ xuống rất thấp.
Nhưng máy bay không đáp xuống đất mà tiếp tục lấy độ cao bay lên trời. Mọi người bắt đầu lo lắng, xôn xao không biết chuyện gì đang xảy ra...".
Khi đó, nữ tiếp viên Thủy Tiên bị Lý Tống đẩy ra khỏi buồng lái, chạy từ khoang thương gia xuống, thông báo: "Ở trên kia có một hành khách người châu Á đang đe dọa phi hành đoàn".Mọi người nhao nhao hỏi có chuyện gì, cô này nói: "Chắc người đó bị tâm thần".
Lúc này ông đại sứ nói ngay với vợ và ông chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đi cùng chuyến bay: "Không phải bị tâm thần đâu. Máy bay bị không tặc rồi!".
Lúc này trong buồng lái, Lý Tống bắt cơ trưởng phải bay vòng quanh khu vực trung tâm Sài Gòn và mở cửa sổ để hắn rải truyền đơn.
"Tôi nhìn lên khoang thương gia thấy một người quần áo nai nịt gọn gàng, mặc bộ đồ như dân thể thao nhảy dù, đầu đội mũ giống mũ bảo hiểm, lom khom chạy qua chạy lại ném từng xấp giấy ra ngoài.
Tôi chụp được một tờ giấy đọc thì thấy ghi: Tổng tư lệnh quân đội nổi dậy miền Nam Lý Tống... Té ra là hắn kêu gọi nhân dân miền Nam nổi dậy chống chính quyền" - ông Tuấn nhớ lại.
Theo yêu cầu của Lý Tống, máy bay phải bay vào khu vực trung tâm thành phố và quần đảo nhiều vòng trên trời. Có lúc máy bay hạ xuống rất thấp rồi gầm rú lấy đà bay vọt lên cao.
Tình trạng đó kéo dài hơn nửa tiếng khiến hành khách vô cùng căng thẳng, hoảng loạn. Một số người không giữ được bình tĩnh, lấy áo phao cứu hộ ra mặc.
Tiếp đó, mọi người lại nghe thông báo của cô tiếp viên: "Quý khách chú ý! Đề nghị quý khách cài dây an toàn. Phi hành đoàn sẽ mở cửa máy bay!".
Nhảy dù
"Trời ơi. Tại sao máy bay đang bay trên trời mà mở cửa!? Chuyện gì sẽ xảy ra? Máy bay sẽ hạ cánh khẩn cấp xuống một nơi nào đó? Trong đầu tôi rất nhiều câu hỏi. Mọi người nín thở chờ đợi giây phút xấu nhất sắp xảy ra" - ông Tuấn nhớ lại.
Sau khi rải xong truyền đơn, Lý Tống yêu cầu cơ trưởng phải điều khiển máy bay lên độ cao 2.300m và mở cửa để hắn nhảy dù.
Ông Tuấn không quên được khoảnh khắc căng thẳng lúc đó: "Chúng tôi bỗng nghe một tiếng "ầm" như bom nổ!
Một luồng gió cực mạnh từ ngoài tràn vào, cuốn bay tất cả những gì có trước mặt hành khách: giấy, ly uống nước, thức ăn... Máy bay chao đảo dữ dội nhưng không bị rơi, vẫn tiếp tục bay".
Sau khi Lý Tống nhảy dù, cơ trưởng điều khiển máy bay hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Lẽ ra máy bay hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất lúc 18h30. Nhưng do bị Lý Tống khống chế, bay lòng vòng trên trời, đến hơn 19h máy bay mới đáp xuống đường băng.
Lúc này dưới mặt đất, lực lượng công an, xe cứu thương, cứu hỏa... đã triển khai đầy đường băng. Công an không biết Lý Tống đi một mình hay có đồng bọn nên mời tất cả hành khách ở lại điều tra thêm.
"Tôi là đại sứ nên được ngoại lệ - ông Võ Anh Tuấn nói - Sau này tôi nghe phi hành đoàn kể lại, hắn ép tổ lái phải bay qua khu vực quận 8 rồi nhảy dù. Hắn rơi xuống một ao rau muống.
Thấy một anh dân phòng mặc đồ dân sự đi ngang, hắn kêu lại bảo: tui là Việt kiều mới về nước, giờ về thăm nhà bạn nhưng không nhớ đường. Anh chở tui tới địa chỉ này... tui cho anh 200 USD. Anh dân phòng đồng ý rồi chở hắn ta thẳng tới... đồn công an".
20 năm tù, tha trước thời hạn
. . . Trước tòa, Lý Tống thừa nhận tội lỗi, cho biết ở bên Mỹ nghe dân miền Nam đang nổi dậy chống chính quyền nhưng không có người lãnh đạo nên anh ta phải về để lãnh đạo. Lý Tống bị kết án 20 năm tù. Năm 1998 được ân xá và cho về Mỹ. Tháng 11-2000, chỉ một ngày trước khi Tổng thống Bill Clinton thăm Việt Nam, Lý Tống lại cướp một máy bay của Thái Lan và bay đến TP.HCM rải truyền đơn kêu gọi nhân dân nổi dậy chống chế độ. Lý Tống đã bị chính quyền Thái Lan bắt giữ và kết án vì tội cướp máy bay và xâm phạm không phận.
Hình : Cựu đại sứ Võ Anh Tuấn - nhân chứng trên chuyến bay bị Lý Tống khống chế rải truyền đơn - Ảnh: MY LĂNG


Lý Tống Em Tôi - Lê Xuân Nhuận cựu Thiếu Tá CSQG
ĐẾN cuối tháng 4 năm 1987 tôi mới biết tin về Lý Tống, em tôi.
Tống đã qua Mỹ, cũng như Xuân-Sơn, con trai của tôi. Thoát khỏi cõi địa-ngục này, ra với Thế-Giới Tự-Do là một may-mắn lớn nhất trong đời người dân Việt-Nam hiện nay.
LÝ Tống tên thật là Lê Văn Tống, sinh ngày mồng 1 tháng 9 năm 1945 tại Làng An-Cựu, Huyện Hương-Thủy, Tỉnh Thừa-Thiên.
Ngày 23-8-1964, Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Quảng-Đức có tổ-chức một bữa tiệc. Vừa mới bắt đầu thì Lê Văn Tống được viên Trưởng Xe Tuần-Cảnh hướng-dẫn vào phòng. Quan-khách không cho Tống đi tắm rửa, mà bắt ngồi vào bàn liền.
Tống xác-nhận những điều đã viết trong thư gửi tôi trước đó không lâu, là em quyết-định nghỉ học, đi chơi một vòng từ Trung-Nguyên lên Cao-Nguyên, rồi vào Sài-Gòn xin gia-nhập Không-Quân, nên ghé thăm tôi.
Có lẽ đây là lần đầu tiên học-sinh Lê Văn Tống có dịp chuyện-trò thoải-mái một lần với nhiều viên-chức và sĩ-quan cao-cấp: đại-tá Tỉnh-Trưởng kiêm Tiểu-Khu-Trưởng, đốc-sự Phó Tỉnh-Trưởng Hành-Chánh, trung-tá Tiểu-Khu-Phó kiêm Phó Tỉnh-Trưởng Nội-An, các Trưởng-Ty, các trung-tá Trưởng Ty An-Ninh Quân-Đội và Tỉnh-Đoàn-Trưởng Bảo-An, các viên-chức và sĩ-quan cố-vấn Hoa-Kỳ, v.v... Chắc-chắn là Tống đã nghe nhiều điều bổ-ích liên-quan đến quân-ngũ và Chính-Quyền.
Sau khi quan-khách ra về, Tống tiếp-tục ngồi lại với các đợt thực-khách khác từ các Quận & Xã về dự tiệc, vì họ rất khoái nói chuyện với "em ông Trưởng-Ty" mãi cho đến khuya.
Sau bữa tiệc ấy, chắc hẳn là lần đầu tiên Lý Tống uống rượu, mà lại uống nhiều, em say liên-tiếp hai ngày, chỉ nằm và cười một mình. Các thuộc-viên của tôi chốc chốc lại vào thăm Tống và nói với nhau: "Anh ấy thật là hiền-lành!"
Ở chơi với tôi đến ngày 02-9-1964 thì Tống lên đường vào Sài-Gòn thực-hiện chí-hướng của mình.
Qua năm 1965, một hôm trung-tá Phan Quang Điều, Trưởng Ty An-Ninh Quân-Đội địa-phương, mang hồ-sơ của Tống đến, để tôi đọc, xác-nhận, và ký tên bảo-đảm về phương-diện an-ninh chính-trị cho Tống.
Thế là em đã trở thành quân-nhân.
THỜI-GIAN 1970-1973, tôi coi Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, văn-phòng đặt tại Nha-Trang; Tống thường về thăm.
Có hai hình-ảnh về em đã in đậm nét trong trí nhớ tôi.
Thứ nhất, hầu như lần nào Tống cũng dẫn theo một cô bạn gái, mỗi lần một cô khác nhau, và cô nào trông cũng xinh. Đó là chưa kể những cô mà tôi cũng như người nhà không có dịp thấy. Trong nhà, ngoài đường, ai cũng khen em có số đào-hoa. Vợ tôi hỏi em: "Sao chú chưa lập gia-đình?" Tống cười: "Em đang còn bay nhảy mà!"
Thứ hai, Tống có thói quen lái xe thật nhanh. Xe của tôi thì có chiếc sơn màu xanh+trắng của Cảnh-Sát, có chiếc sơn màu trắng sữa và mang bảng số ẩn-tế của thường-dân, mà Tống cứ lái vụt vào phi-trường quân-sự Long Vân cũng như một số đơn-vị quân-sự khác, không ngừng lại tại các trạm kiểm-soát của Quân-Cảnh, khiến các sĩ-quan an-ninh thỉnh-thoảng lại gọi than phiền với tôi. Các con tôi hỏi: "Chú lái xe gì mà nhanh dữ thế?" Tống đáp: "Thì chú bay mà!"
MỘT hôm, không lâu trước ngày Quân-Khu I thất-thủ, trong thời-gian tôi làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng này, Trung-Tâm Hành-Quân của Sư-Đoàn I Không-Quân gọi điện-thoại báo tin là Tống đang bay từ Bửu-Sơn ra Đà-Nẵng để đến thăm tôi. Tôi rất mừng, vì tôi đã ra Vùng I từ cuối năm 1973, đến nay mới có dịp gặp lại nhau. Tôi vội vào phi-trường đón em.
Gặp nhau tôi mới biết là Tống đang gặp phải một chuyện khó-khăn. Số là Tống được cấp trên tín-nhiệm giao thêm phần-vụ quản-lý Câu-Lạc-Bộ Không-Quân ở phi-trường Bửu-Sơn. Vốn tính bay-bướm, Tống tuyển một cô-gái vào phụ việc, hẳn-nhiên là đẹp, giao cho cô-ta cất giữ tiền-nong. Cô thủ-quỹ ấy ôm trọn số tiền mấy trăm ngàn đồng trốn đi. Tống được Cấp Trên hạn cho một thời-gian ngắn để kiếm đủ số bù vào. Biết tôi là một viên-chức liêm-khiết, mà nhà lại nghèo, khó giúp được em; nhưng vì là chỗ anh+em, vui/buồn có nhau, nên Tống ra đây tìm tôi.
Đó là lần cuối anh+em chúng tôi gặp nhau khi còn ở trên đất nước Việt-Nam.
TÔI bị Việt-Cộng bắt ngày 17-4-1975, và ra khỏi Trại "Cải-Tạo" (sau cùng là trại Tiên-Lãnh, thuộc huyện Tiên-Phước, tỉnh Quảng-Nam) ngày 20-4-1987. Hai ngày sau, về đến nhà ở Nha-Trang, tôi mới biết là Lý Tống còn sống, và đã đến chốn an-toàn.
Em tôi là phi-công cuối-cùng và duy-nhất của Không-Quân Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, lái phản-lực-cơ A-37 ném bom lên đầu Việt-Cộng để cản đường chúng tiến vào Miền Nam, rủi bị bắn gãy phi-cơ, nhảy dù xuống đất thì bị địch bắt, trên Quốc-Lộ số 1, Thị-Xã Cam-Ranh, ngày 05-4-1975. Tống bị tống-giam nhiều nơi, trong đó có trại A-30 của Tỉnh Phú+Khánh Việt-Cộng, vùng đất trước kia là Tỉnh Phú-Yên.
SAU một thời-gian thấy hơi yên-yên, các thuộc-viên cũ của tôi lần-lượt tìm đến thăm tôi. Những người đã từng ở trại A-30 trong cùng thời-gian Lý Tống bị giam ở đó, đã kể lại cho tôi nghe thái-độ bất-khuất của em trước mặt kẻ thù; nhất là có lần bị chúng bắt quỳ mà Tống quyết không chịu quỳ, bị chúng dí súng vào đầu và bắn xéo qua bên tai mà Tống vẫn cứ dõng-dạc quát lớn: "Bắn đi! Lý Tống này chết thì sẽ còn có trăm ngàn Lý Tống khác nữa!" Bản-lĩnh cao-cường cùng với câu nói lịch-sử đó đã được nhiều người, nhất là dân Phú-Yên và Khánh-Hòa, dù chỉ ở Trại A-30 sau ngày em đã trốn thoát nơi đây, hoặc ở ngoài đời mà chỉ được nghe người khác truyền miệng với nhau, kể lại với tôi với lòng cảm-phục vô-biên.
Trong giới Cảnh-Sát Quốc-Gia, có một nhân-vật nổi tiếng ngang-bướng; đó là trung-tá Nguyễn Văn Can, cựu Phó Giám-Đốc Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần, cựu Trưởng Ty CSQG Tỉnh Quảng-Ngãi. Can cũng bị giam ở trại A-30, và được mọi người kính phục, vì anh cũng đã công-khai chống lại Ban Giám-Thị và bọn cán-bộ quản-giáo; điển-hình là việc anh vẫn trước sau không chịu hát bài "Bác cùng chúng cháu hành-quân". Việt-Cộng hạch hỏi lý-do, anh đáp: "Tôi có cùng đi hành-quân với 'Bác' lần nào đâu?" Trong năm 1991, trên đường từ Huế trở vào Sài-Gòn, Can ghé thăm tôi ở Nha-Trang. Khi đề-cập đến Lý Tống, chính anh cũng không tiếc lời khen-phục em tôi.
Con-gái thứ ba của tôi, Xuân-Lộc, bị bắt về tội vượt biển, cũng có thời-gian bị đưa ra giam ở Trại A-30 nói trên. Cũng vì Lý Tống đã được mọi người trong Trại cũng như ngoài Trại biết đến, nên hầu như ngày nào cũng có nhiều tù-nhân lẫn với thường-dân tìm cách đến gần con tôi, để "xem mặt cháu của Lý Tống".
TẠI Nha-Trang, có một người con-gái đẹp, tên Thu-An. Cô là sinh-viên đại-học ở Hoa-Kỳ, về thăm nhà thì bị kẹt luôn vì vụ Việt-Cộng tiếm chiếm Miền Nam. Thân-phụ của cô là một sĩ-quan Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cũng bị tập-trung "cải-tạo" tại Trại A-30. Thu-An đến thăm+nuôi cha, để ý thấy Tống lần nào cũng đi chân trần, thản-nhiên giẫm lên gai nhọn, đá sắc, đất nóng, than hồng. Thấy hiện-tượng lạ, Thu-An tưởng Tống không có gì mang, bèn gửi biếu Tống một đôi dép cao-su.
Những lần đến Trại sau đó, cô thấy Tống luôn mang theo đôi dép nói trên, bằng cách buộc dây đeo trên vai mình, còn chân thì vẫn đi không.
Thu-An vượt biển, bị bắt, bị giam cùng Trại A-30.
Được nghe kể lại về những thành-tích hào-hùng của Tống, lại tận mắt thấy sức mạnh tinh-thần phi-thường của chàng thanh-niên, người đẹp Nha-thành đã dành hẳn cho em tôi một mối tình đẹp như mộng và thơ.
Sau khi vượt thoát được Trại A-30, Lý Tống đã ghé đến thăm Thu-An, để chào từ-biệt trước khi đi tiếp vào Sài-Gòn tìm cách vượt biên.
Tống đã ra đi theo chí tang-bồng, biết đến bao giờ mới gặp lại nhau!
SAU đó, Thu-An qua Đức, và lập gia-đình.
Cha+mẹ Thu-An với tôi là chỗ đồng-hương, cùng quê Hưng-Yên. Bà-mẹ thường đến thăm tôi.
Năm 1990, bà đi thăm con ở Tây-Đức về, cho tôi biết là Lý Tống có xuất-bản một cuốn sách, nhan đề "Ó Đen". Cuốn sách ấy đã đến tay Thu-An. Bà có đọc nó ở Đức, và nói với tôi: "Đáng lẽ Tống nên tránh nhắc và in ảnh của Thu-An trong sách, khi người con-gái đã lập gia-đình".
Năm 1991, Thu-An cùng chồng và hai con về Việt-Nam; tôi có gặp và mừng cho Thu-An có một người chồng đẹp trai, rất cưng yêu vợ, thật là xứng đôi.
NHỮNG người quen-biết cũ của anh+em chúng tôi cho tôi biết là Lý Tống đã xâm-nhập vào phi-trường Tân-Sơn-Nhất, nơi được Việt-Cộng canh gác kỹ-càng. Thế mà Tống leo lên được một chiếc phi-cơ, định đánh cắp nó, nhưng bị trục-trặc máy-móc nên không lái bay đi đuợc; song đã thoát ra an-toàn. Trong hành-động này, đã có một vài người thân, trong đó có cả người đẹp, đồng lòng tiếp sức với em.
Bà-con còn kể lại rằng, trong những ngày Tống trốn-tránh Công-An Việt-Cộng ở Sài-Gòn, vào năm 1980, có nhiều cô gái đã đến với Tống; thậm-chí họ còn ghen nhau, làm người chủ nhà hết hồn.
BẢY năm sau đó, được tin tôi mới từ Trại "Cải-Tạo" về nhà, một người con-gái tên Hạnh từ Sài-Gòn gửi thư ra Nha-Trang thăm tôi, cho biết địa-chỉ, và ngỏ lời mời, khi nào có dịp tôi vào Sài-Gòn thì ghé thăm cô, để cô được dịp làm quen, vì cô là một bạn cũ của em tôi. Nội-dung lá thư trang-nhã, nét chữ viết đẹp, lời-lẽ lễ-phép, thân-mật, nhưng tôi cảm thấy có ngụ trong đó một chút tự-tin và tự-hào. Tống đã từng có không biết bao nhiêu bạn gái, thuộc nhiều thành-phần... Bảy năm qua rồi, còn gì! Ý Hạnh muốn cho tôi thấy ở cô có một giá-trị nào đó; ít nhất thì cô cũng có nhà cửa đường-hoàng, vẫn còn nặng tình với Tống, còn muốn ra mắt bà-con...
Cuối năm 1991, nhân dịp tôi vào để lập thủ-tục xuất-cảnh tại thành-phố thủ-đô xưa, Hạnh đến thăm tôi. Qua cơn dâu bể, tôi chưa thấy có một cựu-nữ-sinh-viên Văn-Khoa Sài-Gòn nào còn ở lại với quê-hương khốn-khổ mà còn giữ được dáng-vóc yêu-kiều của một thời xa-xưa như Hạnh của em tôi.
Hạnh cho tôi biết nội-dung của cuốn "Ó Đen", mà Tống lén-lút gửi về từng phần, về cuộc vượt-biên vượt-biển lịch-sử của Lý Tống mà cả thế-giới đều đã ngợi-ca: trong sự-nghiệp đó, ở giai-đoạn đầu, tuy đánh cắp hụt phi-cơ, Hạnh đã đóng-góp một phần vô-giá cho Tống đột-nhập phi-trường.
Tôi hỏi Hạnh có muốn đi Mỹ không. Biết ý tôi hỏi có muốn qua với Tống không, Hạnh đáp: "Không". Tôi hỏi vì sao. Trả lời: "Vì nếu qua Mỹ thì phải làm lại tất cả". Tôi hiểu ý Hạnh, không phải nói về công-ăn việc-làm, mà nói về tình-cảm giữa hai người. Tôi hỏi: "Sao phải làm lại?" Hạnh đáp: "Làm lại về phía anh ấy, chứ về phía em thì có gián-đoạn gì đâu!" Tôi hỏi Hạnh về tương-lai, cô đáp: "Em sẽ ở vậy trọn đời!" Tôi lại hỏi thêm: "Tống có còn gì dành cho em không?" Hạnh nhìn thẳng vào mắt tôi: "Anh ấy nếu không còn gì cho em, thì vẫn còn có một cái gì vô-cùng cao-đẹp hơn, cho mọi người!"
Tình yêu của Hạnh đã chuyển từ một vô-vọng vị-kỷ sang một kỳ-vọng vị-tha.
TỪ cách nửa vòng quả đất, Tống được tin tôi đã về nên gửi thư về thăm tôi. Và khi Tống đang chuẩn-bị luận-án tiến-sĩ thì em có gửi cho tôi hai bản lược-đồ, nội-dung chủ-đề "Integrative Elephantism and the Causes of War Initiation" và "The Bull's Eye of Integrative Elephantism". Vì không kèm theo bản văn nên tôi không thể hiểu được ý chính; chỉ thấy lờ-mờ:
Lược-đồ thứ nhất "Học-Thuyết Đại-Tượng Nhất-Thống (?) và Những Nguyên-Nhân Khởi-Chiến", là một con voi đứng trên nền-tảng kỹ-thuật bằng hai chân sau (Năng-Lực Công-Nghiệp và Năng-Lực Quân-Sự), đưa cao hai chân trước lên (Năng-Lực Chính-Trị và Đặc-Tính Quốc-Dân), cho thấy cái bụng là Lĩnh-Thổ, cái lưng là Dân-Cư, cái đuôi vẫy lá cờ Mỹ, Chủ-Nghĩa Lý-Tưởng Đạo-Đức, cái cổ là An-Ninh Quốc-Gia, cái tai là Chủ-Nghĩa Hiện-Thực Chính-Trị, đầu đội chiếc mũ biểu-trưng USA, đôi mắt là Quyền-Lợi Quốc-Dân, cặp ngà là Tinh-Thần Phản-Cách-Mệnh; cái vòi quấn quanh và nâng lên cao một cô thiếu-nữ mặc quần-áo tắm (không rõ là để quật chết hay để tung hô) với cái nhãn-hiệu Chủ-Nghĩa Đế-Quốc (không rõ để chỉ cô gái hay chỉ cái vòi);
Lược-đồ thứ hai là "Trung-Tâm-Điểm (hoặc Yếu-Tố Thành-Công) của Học-Thuyết Đại-Tượng Nhất-Thống (?)" cho thấy 5 cấp-độ: giữa Hòa-Bình và Cạnh-Tranh 20%, từ Cạnh-Tranh đến Tranh-Chấp Nhẹ 40%, từ Tranh-Chấp Nhẹ đến Tranh-Chấp Nặng 60%, từ Tranh-Chấp Nặng đến Bờ-Vực Chiến-Tranh 80%, và từ đó đến Chiến-Tranh 100%, với nhiều phụ-chú chi-tiết linh-tinh.
Tôi chỉ hiểu được thế thôi, và lại tự hỏi chẳng lẽ Tống muốn nói về chính-đảng Cộng-Hòa của Mỹ mà biểu-tượng là Con Voi, hay muốn triết-lý về câu chuyện một số người mù "thấy" Voi của Việt-Nam? Chắc phải là một kết-luận cho một công-trình nghiên-cứu lớn về tình-hình toàn-cầu. Chung-quy tôi vẫn chưa hiểu Tống muốn nói gì. Chính-trị mà!
TỐNG tiến-hành nhiều dự-án cùng một lần. Thí-dụ em đã nhờ tôi hợp-tác soạn-thảo một tác-phẩm mệnh-danh "Tự-Điển Thi-Nhân"; nhưng đó chỉ là một cuốn sách gợi ý, gợi vần, tìm chữ cho người mới tập làm thơ, sắp xếp theo thứ-tự từ-điển: A thì "lắm a?", "thế a?", rồi đến "ba-ba", "thu-ba", "yên-ba", v.v... Tự-điển này gồm ba thứ tiếng Việt-Anh-Pháp: Tống muốn giúp cho cả những người nói tiếng Anh, tiếng Pháp cũng có thể dùng nó để chọn chữ, gieo vần, làm thơ Việt-Nam!
LÒNG tôi nôn-nao đợi ngày lên đường.
Qua Mỹ với Tống tôi sẽ thấy rõ, chắc là toàn những việc làm động-địa kinh-thiên, của một anh-hùng hậu-chiến Việt-Nam!
LÊ XUÂN NHUẬN
 Vào nơi gió cát
(Riêng tặng bạn Nguyễn Tiến Mão)
Tôi là một sĩ quan nhà nghề, hiểu theo nghiã được đào tạo từ một trường sĩ quan hiện dịch, nhưng không phải là một sĩ quan có tính truyền thống. Bố mẹ, anh em họ hàng nội ngoại duy chỉ có tôi là đi lính. Mãi cho đến những năm sau này, khi chú em trai út của tôi khi bị kêu nhập ngũ cũng ghi danh vào trường sĩ quan hải quân là cả dòng họ có 2 người! Khi còn ở trong trường, tôi đã đựơc học đủ mọi kỹ năng chỉ huy, kỹ thuật tác chiến, và thuật lãnh đạo. Nhưng nói cho ngay tình, kể từ lúc ra trình diện đơn vị, trực tiếp lãnh trách nhiệm chỉ huy trung đội bộ binh đầu tiên thì tôi phát giác ra rằng giữa lý thuyết và thực tế có nhiều khác biệt quá, thậm chí đến mức trái ngựơc nhau nữa.
Tôi trình diện thiếu tá Bách, trung đoàn trưởng trung đoàn 11, tại BCH trung đoàn, ở Phú Lâm lúc 9 giờ sang, thì 3 giờ chiều đựơc đưa lên xe GMC ra tiểu đoàn 3/11 đang hành quân tại quận Ðức Hòa. Trình diện đại úy tiểu đoàn trưởng Huỳnh văn Chính lúc 4 giờ tại BCH Tiểu đoàn đang đóng tại 1 nhà dân bên vệ đường, ngay sau đó tôi được điều về đại đội 1. Tôi tiếp tục lội bộ khoảng nửa cây số đến gặp trung uý Cao để nhận trung đội. Trung úy Cao người nhỏ nhắn, hơi đen, nét mặt hiền, dễ chịu.
Trung úy Cao nói với tôi, “Tôi vưà được biết tiểu đoàn bổ sung cho đại đội 1 sĩ quan mới, thay thế cho thiếu úy Tiến trung đội trưởng trung đội 1 bị thương hồi tuần trước. Thiếu úy qua gặp trung sĩ nhất Mạnh, trung đội phó, để nhận đơn vị.” Theo dấu tay chỉ, tôi tiếp tục lội bộ khoảng 300 thước đến bên một bờ mẫu chờ 1 toán quân đang kéo ra từ phía trong làng. Trung sĩ nhất Mạnh có lẽ cũng đã nhận được lệnh từ vô tuyến, nên khi thấy tôi, ông đã chạy lại, dơ tay chào niềm nở: “Thiếu úy mới về?”
Ðám binh sĩ chạy bu lại, nhìn tọc mạch, tò mò, có tiếng nói vọng từ xa “Thiếu úy mới ra lò chúng mày ơi!” Tôi im lặng không nói (Thực ra là biết nói gì?). Ðó đại khái cuộc bàn giao đơn vị đầu đời cuả tôi là như thế. Nó chẳng giống tí nào với những lễ nghi quân cách trong khi bàn giao các chức vụ chỉ huy mà tôi thường thấy và những thủ tục đựơc học khi còn là SVSQ.
Thời gian đó là giữa tháng 4 năm 63. Tình hình cuộc chiến kể chung không có những trận chạm súng ác liệt lắm, ngoại trừ trận Ấp Bắc mà tôi chỉ đựơc nghe nói lại một cách rất sơ sài. Những tháng ngày tiếp theo là các cuộc hành quân tiễu trừ du kích nằm trong khu vực Hậu Nghiã, Trảng Bàng, Bình Duơng…
Những cuộc hành quân có vẻ lạ đối với tôi trong một vài ngày đầu nhưng rất mau sau đó trở thành tẻ nhạt và tôi phản xạ theo thói quen nhiều hơn. Sáng 4 giờ thức giấc, chuẩn bị cơm nước trong ngày, xe GMC chở đơn vị dọc theo tỉnh lộ chừng vài cây số, dừng lại, dàn quân hàng ngang, đội hình tam giác đáy trứơc, hướng về phiá bià làng thẳng tiến! Cách bià làng chừng 1, 2 trăm thứơc, có tiếng súng bắn báo động từ trong làng, kèm theo là tiếng mõ, tiếng đập nồi niêu phụ họa vang khắp xóm…. Những toán quân tiền sát chạy nhanh tới bám vị trí ven làng, cẩn thận lục soát, ra hiệu cho đại đội tiến vào, rồi tiểu đoàn…
Lại gặp các cụ già, đàn bà, em bé ngồi thu lu trong nhà nhìn ra ánh mắt sợ sệt lo âu khi thấy toán lính băng ngang qua vừơn, qua trước cửa nhà. Buổi chiều dừng quân, tiểu đoàn ấn định vị trí phòng thủ cuả đại đội, đại đội phân công cho trung đội, rồi bố trí, đào hầm hố…. trong đêm vài tiếng súng bắn vu vơ, tiếng gõ nồi niêu, tiếng loa địch vận cuả địch kêu léo nhéo theo hướng gió đưa tới. Có lần toán thám báo tiểu đoàn bò tới bắt gặp một cụ ông nằm dưới hố sau bụi tre gai, gác chiếc loa bằng bià vẩn còn đang hăng hái kêu gọi! Hôm sau, lại cũng từ vị trí đóng quân, tiếp tục cuộc hành trình đi dọc theo các làng xóm sống dài theo các hương tỉnh lộ thuộc quận Đức Huệ. Mỗi cuộc hành quân kéo dài trung bình từ 2 đến 3 ngày, rồi kéo ra lộ nghỉ một đêm một ngày rồi xe quân vận tới chở đi nơi khác! Cuộc chiến tranh tẻ nhạt và mệt mỏi. Tẻ nhạt bởi vì nó không có những màn chạm súng hào hứng, đòi hỏi sư vận dụng trí óc để sát hại nhau, nhưng lại rất mệt mỏi bởi vì ngày nào cũng phải đi bộ trong nắng gắt hàng chục cây số với quân trang, tiếp liệu trên vai.
Gần hai tháng trời lang thang hành quân theo kiểu ấy, ngoại trừ vài cuộc chạm súng lẻ tẻ với dăm ba tên du kích vào loại điếc không sợ súng, kết quả cũng chẳng có gì đáng kể. Riêng tôi thì có nhiều suy tư hơn. Từ giã quân trừơng mới hơn 3 tháng, bỏ bút nghiên, trực tiếp cầm súng tiếp mặt với quân thù, cuộc sống thực tế đã mang đến cho tôi bao hoang mang. Cuộc sống cam go, vất vả cuả người lính khác hẳn những gì tôi tưởng tựơng ra trước đây, nó chẳng có tí thơ mộng nào như những phim ảnh, bài ca mà tôi từng đựơc xem qua hay đựơc nghe tới. Cuộc sống ấy hào hùng thật nhưng cơ cực quá đỗi. Bữa ăn, giấc ngủ chỉ là những khoảng thời gian tạm dừng để đổ đầy nhiên liệu, hoặc xả hơi chờ khởi động trở lại.
Cuộc sống cuả ngừơi lính gắn liền với sự chuyển động. Họ đi tìm cái gì, tôi chẳng biết, nhưng chắc chắn không phải là đi tìm niềm vinh quang như nhiều chính trị gia từng lừa mị họ. Cái chết treo trên ngọn cây, phủ kín dưới bãi cỏ xanh non trong trái lựu đạn gài, quả mìn nội hóa. Cái chết rình trong gốc rạ, bờ đê, trên cánh đồng ngập lúa vàng giữa 2 con mắt cuả những sát thủ đang nằm phục kích sẵn sàng khai hoả. Cái chết có cả ở trên trời, dưới nước, khi những trái hoả tiễn, thuỷ lôi phát nổ. Cái chết có từ mọi phía, mọi nơi, mọi lúc… nhưng ngừơi lính chiến thì chỉ có một và duy nhất! Người lính chiến ấy có tên gọi, một số quân riêng biệt không thể có người trùng lập. Cuộc chiến tranh nào cũng là nỗi đau chung cuả con người. Cái trớ trêu chính là mọi cuộc chiến thường luôn khởi đi từ các quyết định của các vị ăn mặc sang trọng ngồi họp bàn thoải mái trong các phòng họp đầy đủ tiện nghi!
Cuối tháng 5 đơn vị chúng tôi di chuyển đi Kiến phong.Tôi nhớ lại những ngày bảo vệ chiếc sáng múc đất khơi kinh Ðồng Tiến tại Hồng Ngự. Lúc chúng tôi có mặt tại kinh, sáng xúc bùn thổi lên hai bên bờ kinh nằm cách Ngã năm Tràm Chim hai cây số. Sở dĩ Ngã năm có tên như vậy vì là nơi giao nhau của hai con kinh Đồng Tiến và Rạch Đường Gao và một nhánh bắt từ ngã tư giao lộ này một kinh đào khác chạy ngược lên lên hướng tây bắc đi về hướng Tân phú, Tràm Dơi.Hành quân tại vùng IV
Tiểu đoàn 3/11 là tiểu đoàn nhận nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho công tác đào kinh, trực tiếp canh gác an ninh cho tầu sáng xúc đất. Mỗi đại đội của tiểu đoàn đựơc phối trí trên 10 chiếc xuồng công binh, nằm toả nan quạt hai bên chiếc tàu sáng chừng non cây số. Ở đây muỗi đòn sóc nhiều vô kể số. Mỗi buổi chiều về, khi mặt trời vưà khuất, bóng từng đàn muỗi bay từ chung quanh đồng cỏ tới như những đám sương mù. Mọi sinh hoạt như tạm ngưng lại vì mọi người phải chui vào trong mùng tránh muỗi. Trâu bò cũng phải ngủ trong mùng! Buổi sáng, buổi trưa, lính tráng quan quyền đi lang thang trên những cánh đồng cỏ năn cỏ lác, từ Kinh Hương Quản Tân, tới Giòng Các, Đồng Cộ… một giải đồng cỏ thẳng cánh cò bay để tìm vũng tát cá. Cá cũng nhiều vô kể, cá rô, cá lóc, cá sặt tát vũng đem về phơi khô chất đầy cả xuồng. Có cái thú nào bằng nằm giữa cánh đồng bao la, gió thổi mà suy ngẫm chuyện đời, hoặc kể lể chuyện riêng tư cho nhau nghe?
Nhiều khi hứng chí, tôi cùng chú lính truyền tin, hai thầy trò lội bộ về BCH tiểu đoàn đóng cách đó 3 cây số, nơi đây có một ít hàng quán cuả gia đình công nhân viên trên tầu sáng tổ chức buôn bán đủ thứ đồ dùng sinh hoạt hàng ngày cùng rượu nếp đồ khô để nhậu. Cặp nách lít đế được nấu từ Kiến Phong mang vào, mua thêm vài ba bao thuốc Ruby Qeen rồi hai thầy trò trở lại cùng đám đệ tử đang chờ sẵn tại xuồng chén chú chén anh. Quan với lính làm sao phân biệt đựơc khi cứ chia bình quân 6 người một cái xuồng công binh, để làm căn cứ vưà ngủ vưà phòng thủ? Bước xuống khỏi xuồng là cả một cánh đồng cỏ năn cỏ lác rộng mút đường chân trời lúc nào cũng xâm xấp nước! Mọi thứ huấn thị điều hành về canh gác đều bị bỏ quên một cách cố ý. Mổi xuồng là một vọng gác và người lính gác giặc cũng gác từ trong mùng cá nhân cuã mình! Gần hai tháng đi theo con kinh đào làm làn da khô đen vì đất bùn và phèn, tôi trông ra đã có vẻ là một người lính chính hiệu! Thời gian êm đềm dễ chịu giữa trời mây đồng cỏ với những người dân quê mộc mạc bình dị tôi thường gặp lúc lang thang trên đồng. Cuộc chiến hình như ở nơi nào xa lắm, mơ hồ… Nơi đây bình yên và lặng lẽ quá. Những thành phố ồn ào náo nhiệt thoảng qua trong trí nhớ rồi mờ dần trong khung cảnh bao la mây nước và trời xanh của nơi đây.
o O o
Ðến đầu tháng 7, tiểu đoàn được lệnh di chuyển đi Trà Vinh. Lại một chuỗi những ngày di hành tìm địch trong các sóc thôn với những cái tên nghe rất ngộ: Cầu ngang, Cầu Kè, Long Hữu, Long Toàn, Ô lắc… Tháng 8, chuẩn úy Mậu, trung đội trửơng trung đội 1 đại đội 2, chết tại trận Sóc Ruộng ở đây. Trận đánh kéo dài từ 10 giờ sáng cho đến tối mịt, giữa tiểu đoàn 307 VC nổi tiếng cuả Trà Vinh với đơn vị chúng tôi. Ðây cũng là cuộc chạm súng qui mô đầu tiên cuả tôi kể từ ngày ra trừơng tới giờ.
Chiến trường là một vồng đất pha cát hiện đang trồng khoai và mì. Khi đơn vị tiền sát cuả đại đội 2 vưà lú ra khỏi bờ rẫy để di chuyển qua một trảng trống thì địch khai hoả. Ðại đội 2 bố trí bắn trả và kêu pháo binh hỗ trợ, trong khi đại đội tôi nhận lệnh di chuyển lên ngang tuyến với đại đội 2 để chờ lệnh xung phong tiến chiếm mục tiêu. Hai trung đội pháo binh 105 li từ BCH / Trung đoàn bắn yểm trợ nổ ạch đùng, lúc xa lúc gần rõ rệt không có hiệu quả cao. Súng cối 81 li cuả tiểu đoàn yểm trợ thêm vào nhưng số lựơng đạn dược mang theo hành quân đâu có nhiều.
Đến khoảng gần 2 giờ chiều, chúng tôi đựơc lệnh mở hoả lực cá nhân để xung kích. Ðợt xung phong đầu tiên ra tới giữa khoảng đồng trống thì bị dội ngựơc vì hoả lực đại liên cuả địch. Súng cuả địch và ta nổ tứ tán. Tiếng la, tiếng hét, tiếng chửi thề vang lên khắp 4 phía. Trong cái hỗn loạn ồn ào đó, tôi nghe thấy có tiếng quen hỏi: “Ðại đội 1 đó phải không?”
Tôi nhận ra tiếng cuã Mậu. Tôi lên tiếng “Ðúng rồi, Vũ đây”. Cả hai chúng tôi đều nằm áp sát xuống nền ruộng đất pha cát, dùng tay moi cào lấy 1 cái hố tạm bợ hòng núp đạn địch đang từ hướng trước mặt bắn sang xối xả.
Trong lúc còn đang lùng bùng với mọi phản xạ cấp thời của một người lính thì tôi nghe tiếng kêu thất thanh từ phía chỗ nằm của Mậu ‘’Chuẩn úy Mậu bị thương rồi!“. Rồi có những bóng người trườn tới làm nhiệm vụ cứu thương và tản thương. Tôi ngước nhìn từ chỗ một bụi dứa dại nằm chếch bên phía phải, nơi có cây trung liên đang nổ liên hồi về phía chúng tôi. Những tiếng đạn xé không khí bay xèo xèo trên đầu thật khó chịu. Hạ sĩ Phương cầm cây phóng lựu của trung đội tôi đang nhắm vào nó. Tôi quay sang nói với Phương “Chú mày nhắm vào bụi dứa kia kìa, thấy nó chưa?“ Phương gật gù cái đầu, “Thấy rồi ông thày.” Một tiếng “bụp” nghe khô khốc, quả lựu đạn bay thẳng vào bụi dứa nổ tung, cả trung đội ào lên vừa bắn vừa la chạy thẳng vào mục tiêu…
Hạ sĩ nhất Lâm Phương là người Sóc trăng, gốc Campuchia, người thấp, nhỏ con, lính tình nguyện có thâm niên quân ngũ 5 năm. Tính anh hiền lành ít nói nhưng lỳ lợm nhất trong trung đội. Từ hôm tôi về làm trung đội trưởng thay cho niên trưởng đàn anh của tôi là thiếu úy Ngô gia Tiến, Khoá 16, được anh dặn dò “Trung đội này là trung đội ngon nhất của đại đội đấy”. Tiến vừa là trung đội trưởng vừa là đại đội phó. Đại đội trưởng là trung úy Ngô văn cao, khóa 4 Thủ Đức, vốn gốc công chức bị động viên. Trung đội trưởng gồm tôi cũng họ Ngô, còn một chuẩn úy Ngô văn Hách gốc quân cảnh tư pháp nữa thành ra đại đội có hỗn danh “Gia đình trị!“
Khi lục soát xong mục tiêu chúng tôi mới phát hiện ra đơn vị địch là một đại đội thuộc tiểu đoàn 307, một tiểu đoàn nổi tiếng của địch trong vùng này. Cuộc chạm súng kết thúc trong ngày nhưng máy bay tản thương phải đến gần chiều tối mới tới. Chuẩn úy Mậu, trung đội trưởng trung đội 2 thuộc đại đội 2, chết trước khi được đưa lên trực thăng ít phút. Đại đội hai là đại đội duy nhất trong tiểu đoàn lúc đó được trang bị thử nghiệm súng AR15. Thành ra mỗi khi đụng độ, đại đội này luôn là mũi xung kích càn quét chủ lực. Đại đội có niên trưởng Hoàng lê Cường, Khóa 16, trung đội trưởng kiêm đại đội phó, và một bạn đồng khóa với tôi Nguyễn tiến Mão và chuẩn úy Mậu là trung đội trưởng. Đại đội trưởng là đại úy Nghiêm “đầu bạc “. Cuộc hành quân kéo dài thêm hai ngày tiếp tục truy kích tìm dấu vết địch nhưng không có trận đụng độ nào sau đó nữa. Ngày thứ tư, cả tiểu đoàn kéo nhau ra lộ, lên xe trở về nghỉ quân tại tỉnh lỵ Vĩnh Bình khu ao Bà Om. Hai ngày sau đó chúng tôi di chuyển về lại Mỹ tho.
Lúc đó là cuối tháng 10. Tính từ ngày ra trường, tôi cũng đã có mặt tại đơn vị hành quân này gần nửa năm. Tiến bị thương, chuyển đơn vị khác, tôi thay thế làm đại đội phó. Tống văn Vinh là trung đội trưởng với Hách. Mang tiếng là đại đội tác chiến nhưng quân số chưa bao giờ lên tới trên 70 người khi tham gia hành quân. Thành ra đại đội chỉ có hai trung đội khinh binh và một trung đội vũ khí nặng gồm một cây đại liên 30 và một cây súng cối 60 ly yểm trợ hỏa lực. Tình hình chiến trường kể từ ngày tôi về đơn vị, trận Sóc Ruộng là trận đánh có vẻ là “ác liệt“ nhất!
Ngày 8 tháng 11, tiểu đoàn đang hành quân vùng Cổ Cò thuộc tỉnh Mỹ Tho thì được lệnh kéo trở ra quốc lộ 4. Buổi chiều mới tới nơi, lật đật lên xe di chuyển đi ngã ba Thủ Thừa. Quen với kiểu di động liên tục này, chẳng ai trong chúng tôi thắc mắc ngày mai sẽ làm gì, ở đâu. Cả một khu chiến Tiền Giang gồm các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Kiến Phong, Kiến tường, Kiến Hòa bao la này chỉ có 3 tiểu đoàn của 3 trung đoàn tác chiến 10, 11, 12 luân phiên nhau đi “tìm diệt địch“. Chuyện sáng Mỹ Tho chiều Long An, Gò Công đâu có gì là khó hiểu. Khi đoàn xe dừng trên quốc lộ 4, tiểu đoàn kéo vào Thủ Thừa trú quân chờ lệnh. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng gần ngã ba gần quốc lộ còn đại đội tôi di chuyển vào phía xóm gần chợ. Nghỉ ngơi được 3 ngày, chiều ngày 11 tiểu đoàn lên xe trực chỉ Sài gòn tham gia “đảo chánh“! Đại đội tôi kéo vào trú quân chờ lệnh tại trường Petrus Ký.
Sáng ngày 12, khi cả Sài Gòn dân chúng đổ ra đường mừng “cách mạng“ thắng lợi cũng là lúc em trai chở mẹ tôi đến tìm tôi tại cổng trường. Tính ra cũng đả gần nửa năm tôi chưa về phép thăm gia đình, mẹ tôi già và ốm đi nhiều qúa. Tôi hỏi mẹ căn bịnh phổi của mẹ ra sao mẹ tôi chỉ cười bảo:“Mẹ khoẻ nhiều và bớt ho nhiều rồi!” Tôi biết tính bà, không bao giờ bà muốn tạo ra nỗi lo cho các con. Biết nhưng làm gì cho điều mình biết ấy? Hai mẹ con nhìn nhau ngậm ngùi. Mẹ bảo “Nhìn thấy con đen nhưng khỏe là mẹ mừng rồi”. Hai mẹ con ngồi trên chiếc ghế đá công viên gần cổng trường Petrus Ký trò chuyện cho đến chiều bà mới về. Tôi nói với mẹ,”Sau cuộc hành quân này con sẽ được nghỉ phép 3 ngày về thăm mẹ.” Mắt bà ánh lên niềm vui.
Ngày 13 tiểu đoàn lên xe trở về vùng hành quân. Sư đoàn lúc này do tướng Phạm văn Đỗng là tư lệnh. Đoàn xe dừng lại tại ngã ba Trung Lương, đại úy Huỳnh văn Chính tiểu đoàn trưởng vào BTL/SĐ tại Mỹ Tho nhận lệnh hành quân. Mười một giờ, đoàn xe lại chuyển bánh lần này dừng tại ngã ba Dưỡng Điềm. Tiểu đoàn chia làm hai cánh lục soát dọc theo hai bên Rạch Thuộc Nhiêu đi về hướng Vĩnh Kim.
Di chuyển chưa bao xa, tôi ước lượng cách quốc lộ 4 mới chừng hơn hai cây số trung đội đi đầu của cánh quân bên phía tây con rạch báo cáo dân chúng đang chạy túa ra ngoài lộ. Một chỉ dấu có đơn vị địch đang hiện diện trong đó. Kể từ ngày ra trường, trong các cuộc hành quân kiều tìm diệt này cho chúng tôi một kinh nghiệm lý thú: Khi nào có dân trong vùng chạy ra ngược chiều với trục tiến quân thì thế nào đơn vị cũng phải chuẩn bị sẵn sàng chạm địch. Thường thì ngay tại chỗ trú quân của địch, dân bị giữ lại trong nhà vì sợ ra báo cho chính quyền địa phương; nhưng khi cuộc hành quân xẩy đến thì những ai sống gần khu có địch thường tháo thân ra ngoài lộ vì sợ tên bay đạn lạc.
Tiếng trung úy Cao nhắc nhở đại đội cẩn thận sẵn sàng tác chiến vang lên trong máy truyền tin. Tôi cho trung đội dừng lại, mở rộng đội hình vào các vườn cây và thận trọng tiến quân lục soát. Chẳng cần chờ đợi lâu, mới di chuyển chưa đầy năm trăm thước là súng nổ như bắp rang. Cũng may nhờ có chuẩn bị trước nên loạt đạn đầu của địch không gây nhiều tổn thất cho chúng tôi. Cùng lúc, phía bên kia bờ rạch tiếng súng cũng dòn dã không kém. Tiếng đạn bay cheo chéo trên đầu, tiếng súng phóng lựu, tiếng súng cối ì ầm. Chúng tôi nấp dưới đường mương cạn quan sát và bắn trả. Đây là vùng đất trồng cây trái, đa phần là mận, gần như mọi khu vườn đều giống nhau. Các cây ăn trái trồng theo từng hàng trên một luống đất cao, xen kẽ là các mương nước cạn. Chiều chiều khi nước trong rạch theo triều sông Mỹ dâng lên đổ thẳng vào các mương này, chủ vườn dùng một cây gáo dài múc nước tưới cho cây. Cuộc sống thong thả và bình an giờ đây chẳng còn nữa. Súng đạn đã lấy đi hết sự bình lặng ấy, và trả lại bằng máu đổ thịt rơi và lòng hận thù.
Cuộc chiến ác liệt hơn khi các phi cơ khu trục được kêu tới vần vũ oanh tạc, rồi pháo binh bắn yểm trợ ngay sau khi phi cơ ra khỏi mục tiêu. Bụi đất, cây cối trốc gốc, nhà cửa cháy, súng lớn súng nhỏ thi nhau nổ. Chiến trường nồng mùi thuốc súng và mùi khói của nhà cháy…
Chiều đến rất nhanh, thời gian ở chiến trường thường nhanh hơn đời thường có lẽ vì tất cả mọi người đang đối mặt nhau đều mong nó đi cho thật nhanh hơn để thoát ra khỏi nó an toàn. Tiếng trung úy Cao gọi tôi quay trở về đại đội nhận lệnh. Tôi nương theo các đường mương quay trở về phía sau. Trung úy Cao nói nhỏ cho tôi biết Tống văn Vinh, trung đội trưởng trung đội hai, đã tử thương. Phía bên kia sông cánh quân chính gồm đại đội hai và ba cũng đang chạm rất nặng. Đại úy Chính bị thương vào ngực đang chờ di tản, thiếu úy Thuận, đại đội trưởng chỉ huy, thiếu úy Cầu, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn, cũng bị thương. Tình hình có vẻ không mấy thuận lợi. Sau đó TĐT tăng phái cho tôi tiểu đội súng máy và dặn dò tôi tổ chức phòng thủ chặt đề phòng địch có thể phản công. Tôi lặng lẽ nhận lệnh và trở về trung đội của mình.
Trời về đêm, chiến trường chìm trong yên lặng. Chỉ còn nghe tiếng nổ lách tách của tre nứa từ những căn nhà đang cháy dở vang tới. Đại đội tôi cũng có vài người bị thương và một người chết. Tất cả được gom vào căn nhà phía sau nơi bộ chỉ huy đại đội bố trí. Tôi dời đường mương leo lên nằm sau một gốc cây mận già nhìn mông lung qua phía trước cách tôi chừng vài chục thước, nơi có tuyến phòng thủ của đơn vị địch.
Nhìn lên bầu trời vầng trăng mỏng như một chiếc liềm không đủ sáng, tôi chực nhớ tới lời trung úy Khiết, ông thày dạy địa hình ngày nào. Thầy Khiết bảo, “Các anh có biết cách nào để nhìn trăng biết là ngày cuối tháng hay đầu tháng không?“ Dĩ nhiên là mấy tên học trò chúng tôi mới bước chân vào lính làm sao mà biết được một điều “lãng nhách“ như thế! Cần thì dở lịch ra mà xem, ai nhọc công nhìn trăng mà đoán. Trung úy Khiết bảo, “Thực ra, trong lúc bình yên, kinh nghiệm này có lẽ chỉ là một thú vui, nhưng đời người lính, sự hiểu biết này rất có ích. Bởi vì khi lạc trong rừng rậm, các anh cần phải biết tìm lấy hướng mà đi, phải biết mình đang ở khoảng thời gian nào trong tháng.” Trước các khuôn mặt nghệt ra vì… lạ của đám tân khóa sinh chúng tôi, trung úy Khiết bắt đầu bài giảng địa hình về cách tìm phương hướng trong rừng rậm mà không cần địa bàn. Riêng về trăng thày Khiết bảo, “Các anh chỉ cần nối hai đầu lưỡi liềm của vầng trăng lại. Nếu vòng cong của trăng và đường cung nối hai đầu là hình chữa D, trăng cuối tháng Nhớ D là dernière và chữ P là đầu tháng, P là première.” bây giờ khi tôi nhìn lên vầng trăng kia, đúng là trăng cuối tháng. Tôi nhớ tới Trường, ngôi trường mẹ thân yêu của tôi. Mới đó mà cũng hơn nửa năm từ ngày ra trường.
Bình minh ló dạng. Một ngày mới bắt đầu. Chúng tôi được lệnh tiếp tục lục soát mục tiêu. Khi tiến vào khu vực trú quân và phòng thủ của địch chúng tôi phát giác ra dấu vết đơn vị địch đã rút chạy về phía tây qua khu Long Mỹ sau đó nương theo mương rạch băng qua quốc lộ 4 chạy ngược lên hướng Bắc vào vùng Đồng Tháp. Tiểu đoàn được lệnh kéo quân ra lộ rồi theo xe về lại chợ Bến Tranh. Tiểu đoàn có nhiều thay đồi sau tổn thất vừa qua. Trung úy Cao có nghị định thăng cấp đại úy từ đầu tháng 11 nay chính thức được gắn cấp bực và giữ chức tiểu đoàn phó. Đại úy Dương văn Tư vốn là cựu quận trưởng Cần Giuộc về làm tiểu đoàn trưởng thay thế đại úy Chính bị thương. Tôi thay thế đại úy Cao giữ chức đại đội trưởng đại đội một. Thiếu úy Hoàng Lê Cường, Khóa 16, thay thế đại úy Nghiêm giữa chức vụ đại đội trưởng đại đội hai. Nhiệm vụ của tiểu đoàn lúc này là yểm trợ các toán xây dựng nông thôn. Hành quân giữ an ninh tỉnh lộ từ chợ Bến Tranh đi Phú Kiết và ngã ba Mỹ Tịnh An.Trực thăng vận
Từ sau trận Sóc ruộng ở Vĩnh bình đây là trận đánh thứ hai có quy mô tôi tham dự. Sau này tôi được biết đơn vị địch hôm ấy là tiểu đoàn 514 cơ động tỉnh Mỹ Tho của địch. Duy chỉ có điều lạ là tại sao một đơn vị cấp tiểu đoàn của địch lại có thể tiến đến gần tỉnh lỵ Mỹ Tho như thế. Từ Dưỡng Điềm đi xuôi theo rạch Thuộc Nhiêu, qua ngã ba rạch sông Cù, rạch Chà Là là tới Vĩnh Thạnh, quận Vĩnh Kim nằm sát nách Mỹ tho! Có một điều thật đơn giản mà tôi không nghĩ ra, khi các đơn vị quân đội canh chừng nhau làm đảo chính và binh biến, địch lớn lên rất nhanh và họ đang cố gắng lợi dụng tình hình đó để áp sát các tỉnh lỵ quan trọng chờ thời cơ. Những chính trị gia và các tướng lãnh quân đội đang ngày đêm tính toán chuyện tranh bá đồ vương đã quên đi kẻ thù thực của mình. Chỉ có những đơn vị đang lặn lội ngày đêm như chúng tôi là không có cơ hội nghỉ ngơi luôn phải đối phó và đề phòng địch. Cuộc chiến được đặt nặng trên vai những người lính. Cả hậu phương lo chuyện tranh giành. Nay đảo chính, mai binh biến, mốt chỉnh lý… Chúng tôi đang chiến đấu cho ai? Kẻ thù của chúng tôi ngày càng tàn ác và hung hãn quỷ quyệt hơn. Cuộc chiến ngày thêm khốc liệt. Các đơn vị của địch được trang bị tốt hơn, những đơn vị chính quy miền bắc xâm nhập ngày càng đông hơn. Chẳng bù cho trước đây các đơn vị chủ lực địa phương chúng tôi gặp thường là tiểu đoàn 514 thuộc tỉnh Định Tường, tiểu đoàn 516 của Bến Tre thì giờ đây có bóng dáng thành lập các trung đoàn Đồng Tháp 1 và 2 từ các tiểu đoàn “cơ động” miền 261, 262, 263 và 265. Vũ khí của chúng tôi mới được trang bị AR15 kèm với Garant M1, carbin, trong khi đối phương có AK 47. Nếu so về mức độ tiện dụng và hỏng hóc thì sung cuả bọn chúng có vẻ khá hơn vũ khí của chúng tôi trong địa thế sình lầy nước phèn.
Tháng 8 năm 1965 tôi được lệnh về nắm đại đội Trinh sát 11. Cũng cần phải nói đôi dòng về đơn vị này. Từ ngày về làm tư lệnh sư đoàn 7, tướng Nguyễn Bảo Trị mang ý tưởng thành lập mỗi trung đoàn một đại đội trinh sát theo mô hình của sư đoàn 22 ông làm tư lệnh trước đó. Theo bảng cấp số của Bộ TTM thông lệ, mỗi sư đoàn chỉ có một đại đội trinh sát của Sư đoàn. Nhưng kinh nghiệm hành quân tại khu chiến Tiền Giang cho thấy chiến thuật sử dụng nguyên tiểu đoàn vừa đi tìm vừa đi diệt mà các cuộc hành quân thực hiện có tới hơn nửa chẳng có kết quả gì cụ thể. Điều này khiến cho binh sĩ vừa mệt vừa không hoạt động bao trùm khu vực trách nhiệm. Và nguy hiểm hơn, địch thường nắm thế chủ động, chọn thời gian và địa điểm thích hợp để giao chiến, trong khi các đơn vị của ta mệt mỏi vì di chuyển liên tục, chủ quan. Hầu hết các cuộc hành quân tảo thanh chúng ta thường ít chạm địch nên mỗi lần thực sự giao chiến, địch được bố trí sẵn trên điạ thế có lợi cho họ. Chúng ta luôn bị thất thế hơn.
Có lẽ cũng phải nói thêm một yếu tố thời cơ nữa, đó là các trực thăng trước đây sử dụng, cụ thể như trong trận Ấp bắc, loại trực thăng chở quân vừa nặng nề vừa khó xoay trở kiểu HU 21 đã khiến cho địch, bằng yếu tố bất ngờ đã tạo nên một trận Ấp bắc có lợi cho địch. Bây giờ với loại phi cơ Huey 1D vừa gọn nhẹ vừa xoay trở nhanh rất dễ thực hiện các cuộc hành quân đột kích chớp nhoáng vào hang ổ hậu cần của địch. Từ đó chiến thuật “Đom đóm Diều hâu” ra đời. Tên của chiến thuật gợi lên hình ảnh của từng đoàn trực thăng chở quân bay lập loè trong buổi chiều chạng vạng hoặc sáng tinh sương như những con đom đóm lấp lóa trong đêm. Trên đó là một đại đội trinh sát. Chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân bay trên một chiết trực thăng Chỉ huy và Kiểm soát. Một hợp đoàn máy bay như vậy thường bao gồm từ 14 đến 15 chiếc trực thăng, gồm 10 chở quân, 4 võ trang và một chỉ huy. Khu vực hành quân cũng không hạn chế đánh dấu bằng các mục tiêu ước định trước. Máy bay quan sát L19 bay thám thính báo cáo các hoạt động khả nghi của địch, máy bay chỉ huy tới xác định mục tiêu, lập tức đơn vị trinh sát trú quân từ một bãi đáp gần đó lên máy bay bay thẳng tới mục tiêu. Các phi cơn võ trang dùng hỏa tiễn và đại liên càn quét tiêu diệt mục tiêu. Sau đó đơn vị trinh sát đổ xuống thanh toán chiến trường.
Vùng Đồng Tháp mênh mông ruộng nước, ngoài các con kinh nhỏ đào để thoát nước và lấy đất làm nền nhà làm nên các xóm nhỏ thưa thớt trên cánh đồng. Phần còn lại là kinh rạch hoang đầy cỏ lác, hoặc cây đước, tràm, so đũa. Những di chuyển của địch thường xẩy ra vào các thời điểm sáng sớm hoặc trời chập choạng. Từ khi thành lập thêm 3 đại đội trinh sát cho 3 trung đoàn vào khoảng đầu năm 1965, chiến thuật này đã mang đến nhiều chiến công cho SĐ. Đặc biệt kể từ khi tướng Nguyễn viết Thanh về thay tướng Trị. Chiến thuật ‘Đom đóm Diều hâu” trở thành những cuộc hành quân chủ chốt của sư đoàn. Các chiến công Sông trăng và Hốt Hỏa nhằm đánh thẳng vào các bộ chỉ huy đầu não của địch đã mang đến những kết qủa rực rỡ.
Tôi về thay thế cho trung úy Trương văn Ba bị tử thương trong trận đánh Cái Nứa trước đó hai ngày. Đại đội bị thiệt hại nặng sau trận đánh quy mô cấp trung đoàn ấy. Khi tôi về cả đại đội trên tám chục nay chỉ còn 61. Đa phần bị thương đang nằm điều trị tại quân y viện của sư đoàn. Thượng sĩ Tuyền ra đón tôi và tập họp đơn vị chờ trung tá Nguyễn văn Lộc, trung đoàn trưởng, tới tham dự cuộc bàn giao. Sau khi quan sát và kiểm tra đơn vị, tôi làm phiếu trình xin bổ xung quân trang dụng và quân số. Mọi thủ tục và công việc được thực hiện suông sẻ trong tuần.
Sau hơn một tuần chỉnh trang và bổ xung đơn vị, trung tá Lộc kêu tôi lên trình diện để xác định còn cần điều gì thêm. Sĩ quan ngoài tôi là đại đội trưởng, còn hai chuẩn úy trung đội trưởng là Trí và Thiết. Hai ngày sau đại đội có lệnh di chuyển về Mỹ tho đồn trú tại một căn cứ của một đơn vị công binh cũ của SĐ. Ngoài đại đội 10 Trinh sát của trung úy Phan thái Gia đồn trú tại Kiến Hoà, 3 đại đội còn lại là 11 của tôi, 12 của thiếu úy Lã văn Tiêu và 7 của trung úy Lê hữu Cừ, khóa đàn anh của tôi, đều đồn trú tại Mỹ Tho. Các đại đội có khả năng hoạt động riêng rẽ, khi nào có cuộc hành quân quy mô lớn hơn do SĐ tổ chức, lúc đó Phòng hai SĐ sẽ cử một sĩ quan đóng vai chỉ huy và điều hợp. Thường là đại úy Hoàng trung Hiền sĩ quan tình báo của phòng 2 lúc đó.
So với thời gian trước đây khi còn là một đại đội trưởng trong khuôn khổ tiểu đoàn, thời gian làm đại đội trưởng trinh sát của tôi là thời gian tôi thoải mái nhất. Ít ra sau mỗi lần hành quân dài là một tuần, ngắn là trong ngày, đơn vị lại trở về hậu cứ tại thành phố để nghỉ ngơi. Tôi không còn sống cảnh lang thang ngất ngư như trước. Cứ hết hành quân lại sống vạ vật ven quốc lộ hoặc một thôn xóm bán an ninh nào đó để đóng vai nhân dân tự vệ.
Các cuộc hành quân giờ đây có hiểm nguy hơn nhưng lại đỡ vất vả hơn. Nơi nào nghi ngờ có địch, chúng tôi được “quăng“ xuống đó săn lùng. Nếu có các đơn vị địch quân cấp lớn hơn, các đơn vị bạn sẽ đổ xuống hỗ trợ thanh toán. Khi không có địch, lại leo lên máy bay trở lại phi trường chờ đợi nhiệm vụ khác, mục tiêu khác. Cuộc sống bầm dập tả tơi trong súng đạn đã tập cho tôi thói quen tìm cách bằng lòng với hiện tại. Tôi bớt mơ mộng về một tương lai xa xôi nào đó. Cuộc chiến này thực sự là một tai họa cho dân tộc tôi do những người cộng sản mang đến. Cuộc chiến này chúng tôi không mong có và lại càng không mong muốn nương theo nó mà lên. Sống chết luôn kề bên làm sao mà tính được. Tháng 6 năm 1966 tôi được thăng cấp đặc cách đại úy sau chiến thắng Hốt hỏa -một mật khu của cộng sản tại Thạnh Phú Kiến hoà. Gần đúng một năm sau, tháng 6 1967, nhà tôi sinh cháu trai thứ hai trước một tuần khi tôi bị thương lần thứ hai. Vết thương do một viên đạn xuyên qua đùi phải phần mềm. Vết thương không năng nhưng cũng cho tôi được 2 tuần nghỉ phép tại đại đội 7 Quân Y và một tuần nghỉ dưỡng thương tại đơn vị.
Ngày vợ tôi sinh cháu trai thứ hai, mẹ tôi xuống Mỹ Tho thăm cháu nội. Tôi dẫn mẹ vào căn phòng nhỏ dùng làm chỗ ở, một nửa ngoài là phòng làm việc được đóng vách ngăn. Nhìn thấy những chú lính trong đại đội quần áo bạc màu óng lên ánh phèn vàng trên ống quần, mẹ tôi hỏi sao kỳ lạ thế? Tôi cười, “Nước phèn Đồng Tháp làm ố màu.” Mẹ nhìn tôi lặng lẽ chẳng nói gì thêm vì bà biết rằng có hỏi tôi cũng lại sẽ kiếm ra một lời nói dấu mẹ. Cuộc chiến này kỳ lạ lắm, ai cũng dấu riêng cho mình một nỗi buồn phiền, bởi vì nếu mở nỗi buồn đó ra, nỗi buồn đó sẽ lan tỏa rất nhanh không thể kìm hãm lại được. Cho nên nhiều người cứ thắc mắc tại sao lính tác chiến ba gai, ăn nhậu và chơi bời, mà họ quên đi ở nơi cùng cực của cuộc sống ấy người lính không còn gì để mất nữa. Gặp nhau lúc này đây không biết có còn nguyên vẹn để tiếp tục gặp nhau nữa không? Thần chết chỉ đáng sợ khi người ta nghe tên nó mà không thấy hình dáng nó. Còn khi cứ giáp mặt nhau luôn thì nó trở thành một thứ ngưòi quen. Những người lính sống rất thật ít ra là với chính mình và đồng đội. Chỉ có những ai làm lính chỉ bằng bộ quân phục thì mới không sống một đời sống thực của lính. Những người ấy mới có thời gian suy ngẫm chuyện tranh giành thu vén tư riêng cho mình bất cần người chung quanh.
Ở chơi với con cháu ba ngày, mẹ tôi về lại sài Gòn. Khi đưa mẹ ra bến xe đò Mỹ Tho, mẹ bảo, “Nhìn thấy vợ chồng con cái bay cơ cực quá mà mẹ chẳng giúp gì được”. Còn tôi thì nghĩ thầm trong long, “Thực ra trong lúc tuổi già của mẹ, con phải nghĩ tới giúp đỡ mẹ mới đúng. Cuộc chiến này đã lấy hết của con mọi thời gian và cơ hội để đỡ đần cho mẹ lúc tuổi già.”
Sau khi đưa mẹ lên xe đò về lại Sài Gòn.Tôi lái xe chạy theo con đường dọc bờ sông Mỹ trở về đơn vị. Những quán giải khát và quán ăn giờ đây đông nghẹt lính tráng. Trên sông những chiếc thuyền ghe lớn nhỏ xuôi ngược đan chen nhau. Bầu trời về đêm chỉ còn những ánh sao yếu ớt lập loè cùng những ngọn đèn dầu tù mù treo trên các ghe xuồng. Một vài chiếc trực thăng bay ngang qua bầu trời, ánh đèn đỏ quạch sau đuôi lập lòe như một con đom đóm; bất giác tôi lại nghĩ tới chính bản thân mình. Khi cả đại đội ngồi thu mình trên các chuyến bay đó bay đi tìm địch, nếu quan sát từ dưới đất, chúng tôi cũng chỉ là một đám đom đóm bay.
(Lễ Tạ Ơn 2011)
Vương Mộng Long – Sao hôm, sao mai
Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai ngày 14 & 15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn dông mùa hè.
Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình. Tôi biết rõ Sư đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẫu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320/Điện-Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu”. Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.
Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng Bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu đoàn 82/ Biệt động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Đại tá Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.
Niên trưởng Thông hỏi:
– Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị:
– Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại tá Thông đồng ý ngay:
– Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐ Phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82. Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thầy trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.
Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu… Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi:
– Thiếu tá! Có tiếng xe!
– Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi:
– Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu:
– Dạ không. Em không nghe gì cả!…
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:
– Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
– Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…
Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc. Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh:
– Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ… Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…ì. ..Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”.
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm:
– Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.
– Tôi là người quen của Trung tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.
– Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?
– Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
– A ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp…
Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên. “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …ụt! ụt! ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng Tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.
“K’rọc! …K’rọc! …”
“Hừm! …Hừm!…”
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá! Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng. Tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” -“Hừm!… Hừm!…” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa. “K’rọc!… K’rọc!…” -“Hừm!… Hừm!…” Trong nắng xế tà, một người đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!… Hừm!…” Còn tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o.. .” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Chợt rừng chiều xào xạc… “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc!… ụt! ụt! ụt!…” Hướng Tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn rã, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!… Lộp cộp!… Lộp cộp!…” Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.
“Lộp cộp!… Lộp cộp!… Lộp cộp!…” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc giòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai. Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc, “K’rạch!”. Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mìn không nổ! Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời. “Hí!… Hí!… Hí!… í!.. .í!… í!…” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường. “Oành!” quả Claymore của Hạ sĩ Ba nổ! ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá gãy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!…” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất. Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt.
Tôi và Trung sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng Bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng Bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng Bắc. Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm. Chú Chi càm ràm:
– Chắc thằng “cội” này có bùa!…
Ít lâu sau…
Trung đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại về hướng Nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.
Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung đoàn 64/SĐ320 CSBV hướng Bắc, Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng Nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt Cộng đã chặt đầu Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TĐ81/BĐQ là Thiếu tá Trần văn Ngọc (k18 VB).
Trong khi đó, tại mặt trận phía Nam, Trung đoàn 48/SĐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TĐ82/BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dã ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82/BĐQ đã khiến Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.
Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung đoàn 48/SĐ320 đến Trung đoàn 64/SĐ320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hãm Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu đoàn 82/Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung đoàn 48/SĐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.
Tới đầu năm 1975, Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu đoàn 82/BĐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng Đức. Vì thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ320/Điện Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa…
Sàigòn, ngày 7/5/1975,
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2, Sàigòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ. Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi:
– Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.
– Phải! Các ông cần gì?
– Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời:
– Tôi đây!
– A! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
– Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói:
– Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?
– Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời:
– Anh Long có nhận ra tôi không?
– Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.
– Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
– A…
– Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?
– Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại. Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao:
– Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình…
Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình-Định, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TĐ82/BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7 & 8 năm 1974) ông ta la lớn:
– Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!
Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán dương:
– Lì thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu. Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc:
– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn:
– Vì chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về. Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm:
– Tôi còn ở Sàigòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.
– Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng Sản cất bước, tôi cố với theo:
– Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
– Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng. Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm. Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải. Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn. Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lý Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín. Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành phố để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không-Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một vòng quanh Sàigòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung tá Bùi văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên đoàn 22/Biệt Động Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.
Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc:
– Tìm nhà trọ phải không?
– Phải…
– Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
– Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn:
– Bên kia đường… theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
– Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:
– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ…
– Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? Ông chủ nhà gợi chuyện.
– Hải-Dương
– Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
– Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…
– Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
– Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
– Có thường ghé Sàigòn không?
– Chuyến nào mà chẳng ghé…
– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
– Vâng, đông lắm, vui lắm… vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
– Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hiu…
– Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
– Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau… chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn…
– Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng… học sinh nghe theo răm rắp…
– Rồi sau đó…
– Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
– Tìm cái gì đấy hở?…
– Phố Hàng Bài…
– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười khì khì:
– Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:
– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
– Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài:
– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô-Lan-Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng…leng keng…” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi…
– Chè đỗ đen đi chú em…
– Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:
– Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:
– Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
– Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh… xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở:
– Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
– Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá..
– Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu… Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó đuổi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má!
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích:
– Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!
Người phu xe già thở dài:
– Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi:
– Xích lô! Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:
– Mai tôi giả tiền nhá! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
– Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng”
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại:
– Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay… Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đã giết bố tôi…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt:
– Bố ơi! Bố ơi!… Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!…
Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàigòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.
Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…
Vương Mộng Long


Ảnh: Cựu thiếu tá Vương Mộng Long, khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, chức vụ cuối cùng TĐT TĐ 82 BĐQ , từng đi tù , từng trốn trại hai lần (bị đánh đập dã man), hiện ở Seattle bang Washington. Chụp với vợ năm 1974.
HS lớp Việt Văn của ông thời ông dạy học - khi trú đóng tại Pleiku , ko rõ năm.