Bài báo này rất dài nhưng hay, mong các bạn chịu khó đọc...
Khi tôi ở trong tù, Mai Chí Thọ, Ủy viên Trung ương Đảng, đã nói chuyện với một nhóm tù nhân chính trị được chọn. Ông nói với chúng tôi: "Hồ Chí Minh có thể đã là một người đàn ông ác độc; Nixon có thể đã là một người đàn ông tuyệt vời. Người Mỹ có thể đã có lý do chính đáng; Chúng tôi (VN) có thể không có lý do chính đáng. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng tôi đã thuyết phục người dân rằng Hồ Chí Minh là một người đàn ông vĩ đại, Nixon là một kẻ giết người, và người Mỹ là những kẻ xâm lăng ... Yếu tố then chốt là làm thế nào để kiểm soát con người và tư tưởng của họ. Chỉ chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể làm được điều đó"
Đoạn trên là trích dẫn từ 1 bài báo của New York Times phỏng vấn 1 cán bộ cao cấp của cộng sản - Đoàn Văn Toại năm 1981. Thời sinh viên thì ông chỉ kém Huỳnh Tấn Mẫm. Sau 1975, thì ông giữ chức vụ quan trọng trong Ban Tài Chính của chính phủ lâm thời miền nam Việt cộng
Mình đã dịch hết bài báo, mời các bạn đọc...
Khi những người cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, một triệu người tị nạn chạy vào miền nam. Cá nhân tôi đã nghe những câu chuyện về sự đau khổ do cộng sản gây ra đáng kinh ngạc của họ. Nhưng, không phải người miền nam nào cũng tin, và tôi đã không tin những câu chuyện kể của người tị nạn. Một thế hệ sau, tôi cũng không thể tin được cuốn sách tố cáo tội ác Liên Xô'' Quần đảo Gulag '' của nhà văn người Nga Solzhenitsyn. Tôi bác bỏ và cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống cộng. Nhưng đến năm 1979, chính tôi là tác giả của quyển sách "Gulag phiên bản Việt Nam". Và tôi thắc mắc liệu những người đã từng là nạn nhân của cộng sản có thuyết phục được những người chưa từng là nạn nhân của cộng sản tin lời họ không? Từ năm 1945, khi tôi được sinh ra ở làng Cái Vồn, tỉnh Vĩnh Long, cách 100 dặm về phía nam Sài Gòn, cho đến khi tôi rời Việt Nam tháng 5 năm 1978, tôi chưa bao giờ được hưởng hòa bình. Nhà tôi bị cháy 3 lần trong kháng chiến chống Pháp. Để thoát khỏi cuộc giao tranh, cha mẹ tôi phải chạy nạn từ làng này sang làng khác trong suốt thời trẻ của tôi. Cũng như đa số những người Việt Nam yêu nước, họ tham gia lực lượng kháng chiến chống Pháp. Khi lớn lên, chính tôi đã chứng kiến cảnh những người nông dân bị chính quyền thuộc địa của Pháp ở Sài Gòn (không phải chế độ VNCH) áp bức như thế nào, họ đã trở thành nạn nhân của những trận pháo kích của Pháp như thế nào. Tôi đã được học về lịch sử ngàn năm chống giặc Tàu, và trăm năm chống giặc tây của đất nước tôi. Trong hoàn cảnh đó, tôi và đồng bào đã lớn lên với lòng căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Khi tôi được bầu làm phó chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các nỗ lực mang lại hòa bình khác nhau, dẫn đầu các cuộc biểu tình của sinh viên chống chế độ Thiệu và chống lại sự can thiệp của Mỹ. Tôi đã xuất bản một tạp chí có tên là Tự Quyết, và đến California vào tháng 1 năm 1971 để thuyết trình về phản chiến tại Berkeley và Stanford. Vì những hoạt động của mình, tôi đã bị Chính phủ Thiệu bắt và bỏ tù nhiều lần.
Khoảng thời gian đó, tôi tin rằng những việc tôi làm là vì hòa bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng có niềm tin vào chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng (phe cộng sản ở miền nam), tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi ghét những người cai trị Sài Gòn, những người như Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Đặng Văn Quang - những người từng là lính của thực dân Pháp. Đây là những người mà người Pháp đã tuyển mộ vào những năm 1940 để giúp tiêu diệt cuộc kháng chiến của Việt Nam. Họ đã tự mình vươn lên trong nhiều năm để trở thành những nhà lãnh đạo, nhưng họ không được mọi người nể phục. Vì không được sự ủng hộ của dân chúng, họ có khuynh hướng dựa vào các lực lượng nước ngoài.
Là một thủ lĩnh sinh viên, tôi cảm thấy mình phải theo đuổi khát vọng dân chủ, tự do và hòa bình cho người dân Việt Nam. Một cách ngây thơ, tôi tin rằng chế độ cộng sản Hà Nội ít nhất cũng có đức tính của người Việt Nam, và tôi nghĩ người Mỹ là những kẻ ngoại xâm như người Pháp trước kia. Như nhiều người đối lập ở miền nam, tôi cũng cho rằng phía những người cộng sản yêu nước sẽ có cách đối phó tốt hơn với những người Mỹ. Thêm vào đó, tôi đã bị hút hồn bởi những sự hy sinh và tận tâm mà các nhà lãnh đạo Cộng sản đã thể hiện. Chẳng hạn như Tôn Đức Thắng, chủ tịch của Bắc Việt, đã từng bị Pháp bắt bỏ tù 17 năm. Tôi cũng bị hút hồn bởi các chủ trương, đường lối chính trị do "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam" (cộng sản miền nam) vạch ra, trong đó có chính sách hòa giải dân tộc trong nước, hứa hẹn không có sự trả thù, và một chính sách đối ngoại không phụ thuộc. Cuối cùng, tôi bị ảnh hưởng bởi các phong trào tiến bộ trên khắp thế giới và bởi những trí thức có uy tín nhất ở phương Tây. Ấn tượng của tôi là trong những năm 1960 và đầu những năm 70, các nhà lãnh đạo của phong trào hòa bình ở Mỹ đang có cùng niềm tin với tôi.
Những niềm tin này tồn tại thông qua việc ký kết hiệp định hòa bình Paris năm 1973 và sự sụp đổ của Chính phủ miền Nam Việt Nam sau đó hai năm. Khi sắp giải phóng, tôi là người nói với bạn bè và người thân đừng bỏ đi. Tôi hỏi họ "Tại sao lại rời bỏ đất nước, tại sao lại sợ cộng sản?" Tôi chấp nhận viễn cảnh phải chịu đựng gian khổ để tái thiết đất nước và quyết định ở lại Việt Nam tiếp tục làm giám đốc chi nhánh tại một ngân hàng Sài Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm. Ở đây lúc trước tôi đã bí mật báo cáo tình hình kinh tế VNCH cho phía cộng sản biết. Sau khi rời đaih học, tôi đã ko bị VNCH gọi đi lính vì tôi là con một trong gia đình. và tôi cũng không gia nhập phe cộng sản công khai, tôi đến làm việc cho chính quyền VNCH để cung cấp thông tin cho cộng sản.
Vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ, Chính phủ Cách mạng Lâm thời, do cộng sản miền nam thành lập, đề nghị tôi tham gia ủy ban tài chính, một nhóm trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho Chính phủ về các vấn đề chính sách kinh tế . Tôi sẵn lòng tuân theo, cắt giảm 90% lương. Nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao là giúp vạch ra một kế hoạch tịch thu tất cả tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Bị sốc, tôi đề xuất rằng chúng ta chỉ nên tịch thu tài sản của những người từng hợp tác với chế độ cũ và những người đã sử dụng chiến tranh để trở nên giàu có, và chúng ta phân phát nó theo cách nào đó cho người nghèo và nạn nhân của chiến tranh, Cộng sản và không Cộng sản cũng sẽ được nhận như nhau. Tất nhiên, các đề xuất của tôi đã bị từ chối. Tôi tiếp tục ngây thơ khi nghĩ rằng các cán bộ địa phương đã nhầm lẫn, rằng họ đã hiểu sai chủ trương của các lãnh đạo cộng sản cấp cao hơn. Tôi đã tranh cãi với họ, tin rằng như tôi nói trước kia "tình hình miền nam đặc biệt và không giống miền bắc". Vài tháng trước khi giải phòng Sài Gòn, tông bí thư Lê Duẩn cũng đã nói "miền nam cần phải có chính sách riêng"
Cuối cùng, tôi không thể tuân theo mệnh lệnh giúp dàn xếp việc tịch thu tất cả tài sản tư nhân, một kế hoạch sau đó đã được thực hiện. Một kế hoạch mà nó không hề theo nguyện vọng của người miền nam, và nó đi ngược lại lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng trong chế độ cộng sản không ai được phép từ chức. Khái niệm từ chức là không thể chấp nhận được đối với những người Cộng sản. Khi tôi nộp đơn từ chức, trưởng ban tài chính đã cảnh báo tôi rằng hành động của tôi ''chỉ nhằm mục đích tuyên truyền kích động người dân; Ở đây chúng tôi không bao giờ làm theo cách đó.'' Vài ngày sau, trong khi tôi đang tham dự một buổi hòa nhạc tại Nhà hát Quốc gia lớn (trước đây là Hội trường Quốc hội, nơi mà tôi và các bạn sinh viên đã chiếm giữ rất nhiều lần dưới chế độ Thiệu), tôi đã bị bắt. Không chỉ ra được tôi tội gì, không có lý do để bắt. Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhiều trí thức tiến bộ và cựu lãnh đạo phong trào phản chiến tin rằng chế độ Việt Nam mới sẽ mang lại dân chủ cho đất nước và tự do khỏi sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chế độ mới sẽ theo đuổi lợi ích tốt nhất của người dân, tôn trọng lời hứa thực hiện chính sách hòa giải dân tộc mà không sợ bị trả thù. Nhưng lời hứa đã không được thực hiện, các nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giữ hàng trăm ngàn cá nhân - không chỉ là những người đã hợp tác với chế độ Thiệu mà ngay cả những người không thực hiện, bao gồm các nhà lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN.
Việt Nam ngày nay là một đất nước không có luật nào khác ngoài những chỉ thị độc đoán của những người cầm quyền. Các cá nhân bị bỏ tù mà không bị buộc tội và không bị xét xử. Sau khi vào tù, các tù nhân được dạy rằng hành vi, thái độ và '' thiện chí '' của họ là những yếu tố quan trọng để xác định thời điểm họ có thể được thả, cho dù là vi phạm bất kì tội trạng nào. Kết quả là, các tù nhân thường tuân theo các quản giáo một cách mù quáng, mong được thả sớm. Trên thực tế, họ không bao giờ biết khi nào họ có thể được thả - hoặc khi nào bản án của họ có thể được gia hạn. Việt Nam hiện nay có bao nhiêu tù nhân chính trị? Và bao nhiêu người trong số họ đã chết trong các nhà tù trong sáu năm đầu tiên của chế độ Cộng sản? Không ai có thể biết con số chính xác. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết có từ 150.000 đến 200.000 tù nhân; Người tị nạn Việt Nam ước tính khoảng một triệu. Hoàng Hữu Quỳnh, một trí thức, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Matxcova, từng là giám đốc một trường kỹ thuật ở Thành phố Hồ Chí Minh (trước đây là Sài Gòn), vừa đào tẩu sang Pháp trong chuyến công du các nước châu Âu của Chính phủ. Ông nói với báo chí Pháp: ''Có ít nhất 700.000 tù nhân ở Việt Nam ngày nay'' Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, cựu đại biểu Quốc hội chế độ cộng sản, được bầu năm 1976, người đã vượt ngục bằng thuyền năm 1978, nói rằng bản thân anh ta biết ''khoảng 300 trường hợp bị hành quyết'' ở tỉnh Phú Yên của anh ta. Năm 1977, các quan chức ở Hà Nội khẳng định rằng chỉ bắt giữ có 50.000 người - là những kẻ đe dọa lớn nhất đối với an ninh quốc gia. Nhưng Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho biết, trên tạp chí Paris Match của Pháp, ngày 9/9/1978 "Trong 3 năm, tôi đã thả hơn 1 triệu tù nhân ra khỏi các trại". Thật là phi lý khi bắt giứ chỉ có 50 ngàn, mà thả ra đến 1 triệu
Khi tôi bị bắt, tôi đã bị tống vào xà lim, với tay trái bị xích vào chân phải và tay phải bị xích vào chân trái. Thức ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi phàn nàn về cát, cai ngục giải thích rằng cát được thêm vào gạo để nhắc nhở các tù nhân về tội ác của họ. Tôi phát hiện ra rằng việc đổ nước vào bát ăn cơm sẽ làm cho cát tách khỏi cơm và chìm xuống đáy. Nhưng khẩu phần nước mỗi ngày chỉ có một lít để uống và tắm rửa, và tôi phải dành dụm nước cẩn thận
Sau hai tháng biệt giam, tôi được chuyển đến một phòng giam tập thể, một căn phòng rộng 15 feet và dài 25 feet, nơi mà vào những thời điểm khác nhau, có thể dồn 40 đến 100 vào chung một phòng với nhau . Ở đây chúng tôi phải thay phiên nhau nằm xuống để ngủ, và hầu hết các tù nhân trẻ hơn, khỏe hơn đã phải ngủ ngồi. Trong cái nóng oi ả, chúng tôi cũng thay nhau hít vài hơi thở không khí trong lành trước khe hở hẹp là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Ngày nào tôi cũng nhìn bạn bè chết dưới chân mình.
Vào tháng 3 năm 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến thăm nhà tù của tôi, các quan chức Cộng sản đã chuyển tất cả tù nhân ra ngoài và thay thế bằng những người lính cộng sản Bắc Việt. Trước cửa nhà tù, người ta không thấy dây thép gai, không có tháp canh, chỉ có vài cảnh sát và một tấm biển lớn phía trên cửa ra vào ghi khẩu hiệu nổi tiếng nhất của Hồ Chí Minh: ''Không có gì quý hơn độc lập và tự do''. Chỉ có những người bị giam giữ bên trong và những người lính canh gác là biết điều gì ở đằng sau tấm biển đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu bị nghi ngờ có ý định bỏ trốn, bạn tù và người thân ở nhà sẽ bị trừng phạt chứ không phải chính anh ta.
Chúng tôi sẽ không bao giờ biết chính xác số tù nhân chết, nhưng chúng tôi biết về cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa từng hợp tác với Tổng thống Thiệu hay Mỹ: ví dụ như Thích Thiện Minh - chiến lược gia của tất cả các phong trào hòa bình Phật giáo ở Sài Gòn, một nhà hoạt động phản chiến đã bị chế độ Thiệu kết án 10 năm tù, sau đó được trả tự do sau làn sóng phản đối của người Việt Nam và những người phản chiến trên khắp thế giới. Thiện Minh chết tại nhà tù Hàm Tân sau 6 tháng bị giam giữ vào năm 1979. Một cái chết thầm lặng khác là của luật sư Trần Văn Tuyên, một thủ lĩnh của đảng đối lập trong Quốc hội Sài Gòn dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết trong tay Cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4 năm 1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói với các phóng viên Pháp rằng Tuyên còn sống khỏe mạnh trong trại cải tạo. Một trong những mất mát lớn nhất là nhà triết học nổi tiếng Việt Nam - Hồ Hữu Tường. Tường, bạn học của Jean-Paul Sartre ở Paris những năm 1930, có lẽ là trí thức hàng đầu ở miền Nam Việt Nam. Ông qua đời tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26 tháng 6 năm 1980. Những người này bị bắt cùng với nhiều người khác trong số những người miền Nam Việt Nam nổi bật và được kính trọng nhất, nhằm để tránh được mọi sự chống đối có thể xảy ra với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã bỏ qua hoặc hợp lý hóa những cái chết này, vì họ đã nghe vô số những điều kinh khủng khác ập đến với Việt Nam kể từ sau 30/4/1975. Nhiều khả năng họ sẽ tiếp tục im lặng để tránh vỡ mộng về cộng sản VN. Tuy nhiên, nếu tự do và dân chủ đáng được đấu tranh để đạt được ở Philippines, ở Chile, ở Hàn Quốc hay ở Nam Phi, thì những giá trị đó cũng đáng được bảo vệ không kém ở các nước Cộng sản như Việt Nam. Mọi người vẫn còn nhớ nhiều cuộc biểu tình phản đối sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam và tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số người trong số đó, những người khi đó đang say mê thực hiện các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền lại bộc lộ một sự thờ ơ kỳ lạ khi cộng sản VN đang vi phạm những nguyên tắc này. Ví dụ, một nhà hoạt động chống chiến tranh - William Kunstler, đã từ chối ký một bức thư ngỏ tháng 5 năm 1979 gửi cho Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trong đó nhiều nhà hoạt động phản chiến trước đây, trong đó có Joan Baez, đã phản đối việc Hà Nội vi phạm nhân quyền. Kunstler nói, "Tôi không tin vào việc chỉ trích công khai các chính phủ xã hội chủ nghĩa, ngay cả khi có vi phạm nhân quyền", và "Toàn bộ chiến dịch Baez có thể là một âm mưu của CIA". Việc này làm tôi nhớ bài phát biểu ngày trước của Thiệu dùng để trấn áp phe đối lập ''Các phong trào hòa bình và các nhà hoạt động đối lập đều là tay sai của Cộng sản"
Có những ảo tưởng khác về chế độ hiện tại ở Việt Nam về việc người dân nên bị vô hiệu hóa. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh trước hết là một người theo chủ nghĩa dân tộc và những người Cộng sản Việt Nam đã và đang thoát khỏi sự lệ thuộc Liên Xô. Tôi cũng tin như vậy trước khi họ chiếm miền Nam Việt Nam. Nhưng những bức chân dung của các nhà lãnh đạo Liên Xô giờ đây tô điểm cho các công trình công cộng, trường học và cơ quan hành chính trên khắp ''Việt Nam độc lập''. Mức độ phục tùng của Chính phủ hiện nay đối với người bảo trợ Liên Xô được gợi ý qua bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Việt Nam Tố Hữu, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ban Văn hóa Đảng Cộng sản. Tại đây chúng tôi có cơ hội nghe một cấp cao của Việt Nam khóc nhân ngày Stalin mất:
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không?
Thương cha thuơng mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười
Có vẻ khó tin khi một bài thơ như vậy có thể được viết ở Việt Nam, nơi được biết đến với sức mạnh của truyền thống gia đình và tình cảm của nó đối với lòng hiếu thảo. Vậy mà bài thơ này đã chiếm một vị trí nổi bật trong một tuyển tập lớn của thơ Việt Nam đương đại vừa được xuất bản tại Hà Nội.
Ngoài ra, trong báo cáo chính trị trước Quốc hội chế độ mới năm 1976, Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói: ''Cách mạng Việt Nam làm tròn bổn phận và nghĩa vụ quốc tế", và từ đó, trong của cương lĩnh đảng năm 1971 có nói ''dưới sự lãnh đạo của Liên Xô'' Việc tôn vinh cuộc sống Xô Viết, trên thực tế, là một mục tiêu chính yếu của chính sách kiểm duyệt của Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, Chính phủ đóng cửa tất cả các hiệu sách và rạp hát. Tất cả sách xuất bản dưới các chế độ cũ đều bị tịch thu hoặc đốt. Các áng văn truyền bá văn hoá cũng không được miễn trừ, bao gồm các bản dịch của Jean-Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Cuốn ''Cuốn theo chiều gió'' của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách những tác phẩm văn học suy đồi. Chế độ mới đã thay thế những cuốn sách như vậy bằng những cuốn sách được viết ra để dạy trẻ em và người lớn rằng ''Liên Xô là thiên đường của thế giới xã hội chủ nghĩa ''.
Các nhà biện luận ở phương tây đã có những tranh cãi về Tự do Tôn giáo ở VN. Một điều trong Hiến pháp mới của Việt Nam, được thông qua vào năm nay, tuyên bố rằng ''chế độ tôn trọng quyền tự do của những người tin và cũng như quyền tự do của những người không tin. '' Về bài báo này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố: ''Chế độ hiện tại dân chủ hơn một triệu lần so với bất kỳ chế độ nào trên thế giới''. Tuy nhiên, thực tế lại không cho thấy như vậy, khi có một vụ việc liên quan đến việc báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong đó một phụ nữ khỏa thân, theo lệnh của nhà cầm quyền cộng sản, đã vào chùa trong một buổi thờ phượng.
Khi Thích Mãn Giác, một nhà lãnh đạo nổi tiếng của Phật giáo, phản đối, nhà cầm quyền đã sử dụng cơ hội này để làm mất uy tín của phía Phật giáo, xem các Phật tử là kẻ thù của nền dân chủ, đại ý là các Phật tử là phía chống lại “quyền tự do không tin vào tôn giáo”. Thích Mãn Giác, người từng là liên lạc viên giữa Phật giáo và Chính phủ Cộng sản trước 1975, đã vượt biên ra khỏi Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và hiện đang sống ở Los Angeles. Tất cả những người ủng hộ MTDTGPMNVN trong cuộc đấu tranh của nó nên nhận thức được rằng họ đã bị phản bội và lừa dối như thế nào. Khi Harrison Salisbury của tờ The New York Times đến thăm Hà Nội vào tháng 12 năm 1966, các nhà lãnh đạo ở Hà Nội đã nói với ông:'' Phương hướng đấu tranh ở miền Nam là của miền Nam chứ không phải của miền Bắc'', Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nói với Salisbury: ''Không ai ở miền Bắc có ý tưởng tội ác ngu ngốc này trong đầu, miền bắc không hề muốn thôn tính miền nam"
Vậy mà trong bài diễn văn mừng ngày chiến thắng 19/5/1975, Lê Duẩn đã nói: ''Đảng ta là người lãnh đạo duy nhất và là tổ chức duy nhất đã điều khiển và điều hành toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ ngày đầu cách mạng. Trong báo cáo chính trị của mình trước Quốc hội thống nhất tại Hà Nội ngày 26/6/1976, Lê Duẩn nói: ''Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là thống nhất Tổ quốc, thống nhất đất nước. Cả nước tiến nhanh, mạnh mẽ và vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản''
Năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTDTGPMNVN thành lập bị bãi bỏ, hai miền Nam - Bắc Việt Nam được thống nhất dưới sự cai trị của cộng sản. Ngày nay, trong số 17 ủy viên Bộ Chính trị và 134 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, không có ai là người của MTDTGPMNVN (có một số ủy viên từng là đại diện Đảng Cộng sản miền Bắc Việt Nam với MTDTGPMNVN). Ngay cả ông Nguyễn Hữu Thọ, nguyên Chủ tịch MTDTGPMNVN cũng chỉ giữ chức vụ quyền Chủ tịch nước, một chức vụ mang tính nghi lễ liên quan đến chào hỏi du khách và tham gia lễ hội. Nhưng vị trí của ông cũng sẽ bị bãi bỏ theo Hiến pháp mới.
Hãy nghe Trương Như Tảng, 57 tuổi, người tham gia thành lập MTDTGPMNVN, nguyên Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, gần đây là một trong những thuyền nhân vượt biên rời khỏi VN. Tảng vượt ngục vào tháng 11 năm 1979 và hiện đang sống ở Paris. Ông nói với các phóng viên về trải nghiệm của mình trong một cuộc họp báo ở Paris vào tháng 6 năm 1980. Mười hai năm trước đó, ông kể, khi ông bị chế độ Thiệu bỏ tù vì các hoạt động Cộng sản, cha ông đã đến thăm và hỏi Tảng "Tại sao?" “Tại sao con lại từ bỏ mọi thứ - một công việc tốt, một gia đình giàu có - để gia nhập Cộng sản? Con không biết rằng Cộng sản sẽ phản bội con và khủng bố con, khi con hiểu ra, thì lúc đó đã quá muộn rồi con biết không?'' Tảng, một trí thức, trả lời cha mình: '' Tốt hơn hết cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh của một trong những người con trai của mình cho nền dân chủ và nền độc lập của đất nước chúng ta...''
Sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Tảng được chế độ Thiệu dùng để đổi 3 đại tá Mỹ là tù binh của Việt Cộng; sau đó ông biến mất vào rừng cùng với MTDTGPMNVN. Ông đã thay mặt cho MTDTGPMNVN đến thăm nhiều nước Cộng sản và thế giới thứ ba trong suốt cuộc chiến. Mới đây, Tảng nói trong cuộc họp báo của mình: ''Tôi từng nghĩ rằng MTDTGPMNVN của cộng sản sẽ giúp thống nhất quốc gia và tôi quá ngây thơ để tin rằng Hồ Chí Minh và đảng của ông ấy sẽ đặt lợi ích quốc gia lên trên ý thức hệ và sẽ đặt lợi ích của nhân dân Việt Nam lên trên lợi ích của đảng. Nhưng mọi người và tôi đã lầm. ''
Trương Như Tàng kể về kiến thức của bản thân về cách thức hoạt động của giới cầm quyền Cộng sản: ''Người Cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật dụ dỗ và sẽ tìm mọi cách để lôi kéo bạn về phe của họ, và đó là lúc họ chưa nắm quyền. Nhưng một khi nắm quyền, họ bỗng trở nên hà khắc, vô ơn, bạc bẽo và tàn bạo. Tảng kết luận về tình trạng Việt Nam hiện nay:'' Gia đình chia rẽ, xã hội chia rẽ, thậm chí đảng phái cũng chia rẽ".
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi không cảm thấy gì khác ngoài nỗi buồn cho sự ngây thơ của chính mình khi tin rằng những người Cộng sản là những người cách mạng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và lừa gạt những người tiến bộ trên toàn thế giới. Tôi cũng có phần trách nhiệm gây nên thảm cảnh cho đồng bào. Và bây giờ tôi chỉ có thể làm chứng cho sự thật này để tất cả những người từng ủng hộ Việt Cộng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Khi tôi ở trong tù, Mai Chí Thọ, Ủy viên Trung ương Đảng, đã nói chuyện với một nhóm tù nhân chính trị được chọn. Ông nói với chúng tôi: "Hồ Chí Minh có thể đã là một người đàn ông ác độc; Nixon có thể đã là một người đàn ông tuyệt vời. Người Mỹ có thể đã có lý do chính đáng; Chúng tôi (VN) có thể không có lý do chính đáng. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng tôi đã thuyết phục người dân rằng Hồ Chí Minh là một người đàn ông vĩ đại, Nixon là một kẻ giết người, và người Mỹ là những kẻ xâm lăng ... Yếu tố then chốt là làm thế nào để kiểm soát con người và tư tưởng của họ. Chỉ chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể làm được điều đó. Không ai trong các anh có thể chống lại được chế độ này, vì vậy hãy bỏ ý định đó đi. Giữa các anh và tôi, đều là những người có kiến thức, nên tôi mới nói sự thật cho các anh nghe"
Và ông ấy đã nói với thật với chúng tôi. Từ năm 1978, Cộng sản Việt Nam đã chiếm Lào, xâm lược Campuchia và tấn công Thái Lan, trong khi Liên Xô xâm lược Afghanistan. Tuy là đi gieo rắc khổ đau, nhưng người Cộng sản đã thể hiện mình, là những người giải phóng, những vị cứu tinh và những bức tường thành chống lại sự xâm lược của ngoại bang. Và mỗi lần như thế, dư luận thế giới vẫn tương đối tĩnh lặng.
Nhưng ở Việt Nam, người ta thường nhận xét: ''Đừng tin những gì Cộng sản nói, thay vào đó hãy nhìn vào những gì họ đã làm'' Một người Cộng sản miền nam tên Nguyễn Văn Tăng, bị Pháp bắt giam 15 năm, bị Diệm bắt giam 8 năm, và bị Thiệu bắt giam 6 năm. Vậy mà tới bây giờ vẫn đang ở trong tù, lần này là trong nhà tù Cộng sản, đã nói với tôi: '' Để hiểu về Cộng sản, trước hết người ta phải sống dưới chế độ Cộng sản. "" Một buổi tối mưa ở Sài Gòn. Trại giam Lê Văn Duyệt, anh nói với tôi: '' Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra; cũng không phải là để nhìn thấy gia đình của tôi, mà là được trở lại nhà tù Pháp 30 năm về trước". Đây là mong muốn của một người đàn ông 60 tuổi, người đã dành cả cuộc đời trưởng thành của mình trong và ngoài nhà tù để đấu tranh cho tự do và độc lập của đất nước. Ngay thời điểm này, có lẽ ông đã chết trong nhà giam cộng sản
Nhân dân Việt Nam mong muốn cách mạng thực sự; họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Sự trả thù của người cộng sản đã làm cho hàng ngàn người Việt Nam đã phải từ bỏ sự gắn bỏ với mảnh đất này. Dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, trong suốt những năm dài chiến tranh, kể cả trong nạn đói thảm khốc năm 1945 khi 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không cam lòng rời bỏ quê hương - mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tổ tiên. Dòng người tị nạn gần đây là kết quả trực tiếp bởi sự khủng bố của chế độ hiện tại. Hãy lắng nghe một người tị nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu đặc vụ MTDTGPMNVN và là thành viên của Hội đồng thống nhất mới được bầu vào năm 1976: ''Chế độ hiện tại này là vô nhân đạo và áp bức nhất (ở Việt Nam) từng được biết đến''. Sau khi từ bỏ vị trí của mình trong Quốc hội Cộng sản, ông tuyên bố: ''Hội đồng là một con rối, các thành viên chỉ biết gật đàu, không bao giờ biết lắc đầu''
Trong số những thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị cướp biển hãm hiếp và những người phải chịu đựng trong các trại tị nạn, không ai hối hận về việc đã thoát khỏi chế độ cộng sản. Tôi tin tưởng rằng sự thật về Việt Nam cuối cùng sẽ lộ diện. Nó đã có sẵn cho những người muốn biết nó. Như Solzhenitsyn đã nói ''Sự thật nặng như cả thế giới''. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.