ÐÀI 12 KIỂM BÁO /BMT
Hồi ký của KQ Hoàng Bá Mỹ, người CHT sau cùng của Ðài 12 KB/BMT(1969-1975)
Người giới thiệu : KQ Trần Ðình Giao, cựu CHT ÐKB 12/BMT (1965- 1969)
đã đọc Ðài Kiểm Báo 621/BMT trong hồi ký Tết Mậu Thân 1968 của tôi đăng trên Ðặc san KQ Bắc Cali số tháng 10 năm 2000.
Cuối thập niên 60, danh hiệu ÐKB 621/BMT được đổi thành Ðài 12 KB/BMT. Do một sự trùng hợp lạ kỳ, nay tôi lại được dịp giới thiệu vài trang sử kiêu hùng đẫm máu cũng của anh em Ðài Kiểm Báo/BMT, một đơn vị KQ nhỏ bé, biệt lập,đồn trú ở xa đơn vị chỉ huy (Liên Ðoàn Kiểm Báo ở TSN) và đơn vị yểm trợ (Sư Ðoàn 2 KQ ở Nha Trang), do Thiếu Tá Hoàng Bá Mỹ, người chi huy kế nhiệm của tôi ghi lại để góp phần vào cuốn Quân Sử Không Quân đang được Liên Hội KQ Úc Châu phụ trách soạn thảo.
Các bạn
Cuối thập niên 60, danh hiệu ÐKB 621/BMT được đổi thành Ðài 12 KB/BMT. Do một sự trùng hợp lạ kỳ, nay tôi lại được dịp giới thiệu vài trang sử kiêu hùng đẫm máu cũng của anh em Ðài Kiểm Báo/BMT, một đơn vị KQ nhỏ bé, biệt lập,đồn trú ở xa đơn vị chỉ huy (Liên Ðoàn Kiểm Báo ở TSN) và đơn vị yểm trợ (Sư Ðoàn 2 KQ ở Nha Trang), do Thiếu Tá Hoàng Bá Mỹ, người chi huy kế nhiệm của tôi ghi lại để góp phần vào cuốn Quân Sử Không Quân đang được Liên Hội KQ Úc Châu phụ trách soạn thảo.
Các bạn
Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của quân cộng sản Bắc Việt và Mặt trận GPMN bị Quân Lực VNCH đánh bại, tôi được thuyên chuyển trở ra Ðà Nẵng nhận chức vụ CHT Trung Tâm Kiểm Báo 41 (Panama Control), Ðại Úy Hoàng Bá Mỹ, người Sĩ quan Phụ tá kiêm Trưởng Phòng Hành quân của tôi được bổ nhiệm làm CHT Ðài Kiểm Báo 621/BMT. Tháng 6- 1969, tôi bàn giao Ðài Kiểm Báo cho Ð/U Mỹ. Trước khi giã từ thủ phủ kinh tế vùng cao nguyên, tôi đã giới thiệu Ð/U Mỹ với vị TưLệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và Bộ Tham Mưu Khu 23 Chiến thuật, ông Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac cùng tất cả các đơn vị trưởng các binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh, Quân Nhu, Công Binh cũng như các ông Trưởng Ty của thị xã Ban Mê Thuột. Khi tiễn biệt tôi ra phi trường Phụng Dực, Mỹ tâm sự với tôi:”Chỉ huy và điều hành Ðài Kiểm báo đối với tôi không có gì khó khăn hết nhưng kiêm nhiệm thêm chức Yếu Khu Trưởng Yếu khu 3 (Phi trường L 19) của Tiểu Khu thì quả là một trách vụ nặng nề với khả năng quân sự của tôi”. Tôi trấn an Mỹ:”anh đừng quá lo, trước lạ sau quen, nghề dậy nghề, điều quan trọng là giao tế nhân sự cho khéo léo trong lúc phối hợp làm việc với các đơn vị bạn, tôi tin tưởng là anh sẽ thành công”. Hơn ai hết, tôi hiểu tâm trạng của Mỹ. Anh nguyên là SVSQ KQ khóa 61 đã được tôi và các Thiếu úy Hoàng Thanh Nhã (1), Ðỗ Minh Ðức (2) huấn luyện căn bản quân sự sĩ quan ở TTHLKQ Nha Trang trước khi được gửi sang Hoa Kỳ thụ huấn khóa hoa tiêu. Vì lý do sức khỏe, anh đã được chuyển ngành học khóa kiểm báo Weapons Controller tại Tyndall AFB, Florida. Năm 1963, sau khi không được BTLKQ chấp thuận cho học khóa hoa tiêu (vì lý do quá hạn tuổi), tôi cũng chọn ngành kiểm báo. Khi tôi được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng HQ tại TTKB Panama thì Mỹ đã là một trong những sĩ quan Chỉ đạo trưởng radar rất lành nghề. Anh đã giúp tôi phối hợp với TTHQKT 1 (ASOC 1), Không Lực Hoa Kỳ (USAF) theo rõi, yểm trợ tất cả những phi vụ hành quân Bắc phạt của KQVN năm 1965 đạt được nhiều kết quả mong muốn với tổn thất tối thiểu. Cuối năm 1965, tôi được bổ nhiệm làm CHT Ðài Kiểm báo 621/BMT thì năm sau, Mỹ cũng được thuyên chuyển lên Ban Mê Thuột làm Trưởng Phòng Hành Quân Pyramid. Rồi như có duyên nợ với xứ Buồn Muôn Thuở, anh đã tìm được người bạn đời trên vùng cao nguyên, giữ chân anh tới ngày tàn của cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Ðiều làm tôi ngạc nhiên là Mỹ đã trụ trì ở nơi mà anh em KQ ngành Kiểm báo thường chê và coi là chỗ bị đi đầy như các bạn bên Bộ Binh vẫn nói là “Ban Mê ÐI dễ , khó VỀ” suốt những năm cuối cùng trong đời binh nghiệp của anh từ 1969 đến 1975.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, tôi (KÐT/KÐYC Phan Rang)được Ðại Tá Lê Văn Thảo (nâu), KÐT/KÐ 92CT cho biết các phi đoàn Thiên Lôi 524 và Ó Ðen 548 của Căn cứ 20CTKQ được điều động bay lên yểm trợ Ban Mê Thuột đang bị quân Cộng sản Bắc Việt có xe tăng T54 tấn công vây hãm rất nặng. Buổi chiều hôm đó, Thảo bay hành quân về cho tôi biết là BMT đã bị Việt cộng overrun, Ð/Tá Vũ Thế Quang (3) Tư Lệnh Phó SÐ23BB bị bắt, Ðài Kiểm Báo Pyramid cũng bị địch tràn ngập. Tôi buồn lặng người đi khi nghĩ đến Hoàng Bá Mỹ và những anh em kiểm báo thân thương của tôi hồi trước không biết bây giờ số phận ra sao?
Khi rút về Sài Gòn cuối tháng 3- 75, tôi có ghé BCH/LÐKB hỏi thăm tin tức Mỹ và anh em ÐKB 621 thì ai cũng nói là có thể tất cả đã mất tích hay bị VC bắt...
Sau ngày 30- 4- 75, theo vận nước nổi trôi, trở thành người dân di tản sống ở xứ tạm dung, tôi bặt tin của tất cả những bạn bè, chiến hữu không may mắn bị kẹt lại dưới chế độ cộng sản vô luân cho đến khi có chương trình HO của chính phủ Hoa Kỳ cho những cựu quân nhân QLVNCH và gia đình được sang Mỹ làm lại cuộc sống mới.
Năm 1996, được tin Mỹ và gia đình đã sang Hoa Kỳ theo diện HO định cư ở Garden Grove, California, tôi có gọi điện thoại thăm hỏi và mừng anh đã thoát ngục tù cộng sản, cùng gia đình đến bến tự do.
Sáng 7 năm 2001, nhân dịp sang dự buổi họp mặt Gia đình KTTV và Bô Lão KQ, tôi đã nhờ anh chị Lưu Huyền Dzũng tổ chức một bữa cơm thân mật gia đình ở nhà Dzũng để tôi được gặp Mỹ hàn huyên tâm sự ôn chuyện cũ năm xưa. Buổi tối hômđó, Mỹ đã kể lại cho tôi nghe những kỷ niệm vui buồn suốt 6 năm trời anh trấn thủ ÐKB 12 trên cao nguyên cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Mỹ đã nói với tôi một câu chí tình đầy xúc động mà tôi sẽ không bao giờ quên được:” Cùng một trách nhiệm chỉ huy và bảo vệ ÐKB/BMT, ông đã thành công trong Tết Mậu Thân năm 68, được thăng cấp, lên chức, còn tôi kế nhiệm ông thì thất bại, chiến đấu tử thủ đến lúc bị quân thù tràn ngập đơn vị, bản thân bị thương và trở thành người tù binh thất trận bị bỏ rơi, lâm cảnh tù đầy nhiều năm trong trại cải tạo cộng sản, thật là nhục nhã!”. Tôi bùi ngùi an ủi Mỹ:”Anh là một trong những người chỉ huy thiếu may mắn. Anh và những người anh em kiểm báo BMT là những người Không Quân phải được vinh danh; thôi cũng là cái số theo cùng vận nước, nay gặp nhau lại hãy nên vui mừng giữ mãi tình anh em, tình chiến hữu, tận hưởng những tháng năm còn lại của cuộc sống mới tự do nơi xứ tạm dung”.
* * * * * * *
Và bây giờ xin mời các bạn đọc hồi ký “Một chặng đường đã qua” của KQ Hoàng Bá Mỹ, người chỉ huy Ðài Kiểm Báo 12/BMT trong một thời gian dài nhất (6 năm), đã nêu gương chiến đấu anh dũng cùng những anh lính “Không Quân đánh bộ“ hiếm có trong quân sử của Không Quân Việt Nam.
Một chặng đường đã qua
Ban Mê Thuột Chủ nhật 9- 3- 1975 : 8 giờ sáng:
Tôi lái xe ra phố để kiếm cái gì ăn sáng sau một đêm gần như không ngủ được vì phải lo nhiều vấn đề trong việc phòng thủ đơn vị : họp và bàn với các sĩ quan đơn vị (kiểm báo) về phòng thủ, rồi họp với các sĩ quan thuộc các Ðại đội Ðịa Phương quân tăng phái, rồi lại phải đi tuần tiễu trong đêm để kiểm tra các pháo đài, vọng gác. . . quanh yếu khu phi trường. Kể từ mấy ngày nay, Quân Trấn BMT được đặt trong tình trạng cấm trại và cấm quân nghiêm ngặt do tình hình mặt trận Ðức Lập bùng nổ mạnh.
Nhiều lúc tôi nghĩ là việc lo cho Yếu Khu cũng nhiều không kém công việc chính của tôi. Chỉ huy một đơn vị Kiểm Báo, với quân số gần 300 người, lại đồn trú ở xa các Căn cứ và Sư Ðoàn KQ nên gần như phải tự lo liệu đủ thứ. Ðã có lần tôi hỏi ông Chỉ Huy Trưởng tiền nhiệm của tôi (Trung Tá Trần Ðình Giao, hỗn danh De Couteau) là “tại sao mình lại mang thêm vào cái trách nhiệm Yếu Khu Trưởng Yếu Khu 3 làm gì cho thêm vất vả, thì được trả lời :”Thôi thì cũng chả sao đâu ! nghề dậy nghề mà, sau rồi “toi” cũng quen đi. Với lại mình đồn trú trên lãnh thổ của họ nên phải có đóng góp tý gì chứ. Rồi khi cần nhờ vả hoặc “đềmẹc”cái gì họ cũng vui vẻ với ta ngay !”
Như vậy, tôi như một anh lính mang hai ba lô : một cái thuộc Kiểm Báo và cái kia là yếu Khu 3 phòng thủ của thị xã Ban Mê Thuột trực thuộc Tiểu Khu Darlac (Quân Trấn BMT có 5 yếu khu).
Ðang suy nghĩ vẩn vơ thì có tiếng gọi trong máy handy talkie:”Tango 1, Pyramid gọi” (Tango 1 là danh hiệu truyền tin của tôi vừa được dùng trong ngành kiểm báo và cũng được dùng trong liên lạc phòng thủ đơn vị, do BCH/LÐKB đặt)
- “Tango 1 nghe đây”.
“Trình Tango 1, có công điện mời họp các đơn vị trưởng tại phòng họp Sư Ðoàn lúc 11 giờ có “Mặt Trời” về dự” (Mặt Trời là Tư Lệnh Quân Ðoàn 2)
“Tôi nhận rõ”.
Ngẫm nghĩ một lát, tôi gọi lại Pyramid :”Anh nói Tango 2 đi họp thay tôi, về báo cáo sau, tôi đang bận chút việc” (Tango 2 là danh hiệu của Th/Tá Phước, CHP/ÐKB). Thật ra thì tôi chả có chút việc gì cả. Do đêm qua thức nhiều nên tôi định ăn điểm tâm xong thì về nhà ngủ một tí cho lại sức. . .
* * * * * * * *
Ðường phố Ban Mê Thuột vẫn đông đúc người qua lại. Khu bùng binh ngã sáu trước nhà thờ vẫn đông người đi lễ. Chợ búa, các quán ăn vẫn sinh hoạt bình thường. Tôi thấy như không có cái không khí chiến tranh ở đây, có lẽ do bởi người dân đã quá quen với cái hoàn cảnh chiến tranh chung của cả nước chứ có riêng gì ở đây đâu ? Chỉ có điều hơi khác biệt với những ngày trướcđây là rất ít xe quân sự qua lại, rất ít thấy mầu áo treillis đi phố. . . Cấm trại 100% mà ! Ðã có lệnh của Quân Trấn BMT:tất cả quân nhân, dù bất cứ thuộc Quân Binh chủng nào, hễ có phép ra khỏi đơn vị là phải trang bị đầy đủ ; nón sắt hai lớp, giây 3 chạc, có thể mặc áo giáp và mang súng. . . . Trong quán ăn, người ta nói nhiều về trận đánh lớn đang diễn ra ở Ðức Lập và một vài nơi khác trong tỉnh Darlac. Một vài người đi đến kết luận mà ai cũng hết sức lo lắng : đó là Ban Mê Thuột đang bị cô lập ! Lý do là : về phía Bắc, đường đi PleiKu, thì Việt Cộng đang chặn ở đèo 110 (Quốc Lộ 19), đường đi Nha Trang (Quốc Lộ 21) thì VC chặn ở khoảng giữa Khánh Dương và Phước an. Còn quốc lộ 14 về Sài Gòn thì đang có trận đánh ở Ðức lập ! Rõ ràng là từ nay, nếu không giải tỏa được khúc nào thì vấn đề tiếp tế chỉ còn trông vào đường hàng không mà thôi
* * * * * * * *
Tiếng chuông điện thoại reo đánh thức tôi dậy. Tôi chụp ống nghe và liếc nhanh nhìn đồng hồ : đã hơn 2 giờ chiều rồi, tôi đã cóđược một giấc ngủ hơn 3 tiếng đồng hồ.
- “Trình Tango 1, có công điện mời họp tất cả các Yếu Khu trưởng và Ðơn vị trưởng đồn trú trong Quân Trấn BMT. Buổi họp do Ðại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng triệu tập vào lúc 3 giờ chiều nay tại phòng họp Tiểu Khu”.
Tôi định hỏi thế còn buổi họp lúc 11 giờ sáng nay thế nào thì đầu dây bên kia cho biết là buổi họp đó đã bị đình hoãn lại.
“Nhận rõ, tôi trả lời. Cho gọi Trung sĩ Cam (là tài xế của tôi) đưa tôi đi họp”.
* * * * * * *
Ðang lúi húi lau xe jeep, thấy tôi ra, TS Cam chào tôi và nói:”Nghe tình hình có vẻ nghiêm trọng quá hả Thiếu Tá?. . . À mà tôi nghe nói có chiếc C 130 chở vật liệu lên, chờ đến 5 giờ chiều nay mới về Sài Gòn, Th/Tá có định cho gia đình về Sài Gòn không ? Tôi bước lên xe và uể oải nói : “Tao chưa tính được gì cả. Chú mày có muốn cho gia đình về Sài Gòn thì cứ việc. . .”
Khi đến phòng họp Tiểu Khu, điều làm tôi ngạc nhiên là thành phần tham dự quá ít, chỉ có khoảng 10 người gồm đủ mặt 5 Yếu Khu Trưởng và một số ít đơn vị trưởng khác đồn trú trong thành phố Ban Mê Thuột. Ðiều làm tôi ngạc nhiên hơn là dáng điệu của Ðại Tá Tỉnh Trưởng (Ð/Tá Luật). Ông ta chống cằm với vẻ mặt suy tư, trầm ngâm. . . Ông hết nhìn xuống bản đồ trải trên bàn lại ngẩng lên nhìn quanh hội trường không nói gì cả. Cả hội trường đều im lặng. Thảng hoặc có vài đơn vị trưởng chụm đầu vào nhau xì xào vài chuyện gì đó. Hơn 10 phút sau vẫn không thấy ai nói gì. Tôi nghĩ : có lẽ mình tới trễ nên buổi họp sắp chấm dứt chăng ? Tôi nhìn đồng hồ : 3 giờ đúng. Bây giờ mới đúng giờ theo công điện mời họp. Tôi vẫn thắc mắc là tại sao Ð/Tá Tỉnh Trưởng và nhiều vị khác đến sớm như vậy ? Có thể có những chuyện đặc biệt quan trọng sắp xẩy ra chăng?. . .
Một vài người rời ghế ra ngoài nói chuyện riêng tư. Cả phòng họp vẫn yên lặng như tờ. Tôi nhìn sang người ngồi kế bên tôi, Th/Tá Hy Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu cũng là bạn tôi. Anh ta thẫn thờ bảo tôi hãy ra ngoài một lát đi . . .
Tôi theo Hy ra ngoài đến gần Phòng 2 thì gặp Ðại úy Trị ( SQ Phụ tá Phòng 2) ngoắc chúng tôi vào. Tôi chưa kịp hỏi han tình hình thế nào, họp hành cái gì mà kỳ cục như thế này thì Hy nói :”Họp hành con mẹ gì nữa, nước đến chân rồi !. . .và Ðại Tá có chỉ thị riêng cho chúng tôi một số ý kiến trong buổi họp nhanh trước đây rồi, lát nữa anh sẽ biết”. Hy tiếp:” tình hình nghiêm trọng và bi đát lắm ! “tụi nó” (VC) về đến Châu Sơn rồi !”. Tôi giật mình sửng sốt thì Trị nói :”đúng vậy, tôi cũng mới đi bay quan sát lấy tình hình về đây. Ở Ðức lập, tù binh địch bị quân ta bắt cho biết chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột tối nay.” Sư đoàn Sao vàng VCđã về đến Châu Sơn. Dân chúng làm rẫy quanh đó chạy về báo tin tụi nó đang giăng dây điện thoại. Ngoài ra còn có 2 Sư đoàn chủ lực 316 và Sư đoàn 2. Trung đoàn 25 đang đụng với bên mình ở Khánh Dương, Tiểu đoàn 401 đặc công đang quanh quẩn ở Quảng Nhiêu (phía bắc BMT khoảng 15 cây số) và có dấu hiệu tăng T54 đang áp sát. . .” Tôi hỏi :
“Như vậy thì lực lượng của bên mình hiện nay có khá không ?” thì Th/Tá Hy buột miệng :
“Khá mẹ gì ! Gần hết Sư Ðoàn 23 đang ở KonTum rồi. Trung Ðoàn 53 và Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh cũng bị cầm chân một số ở Ðức Lập. Chỉ còn một số Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân mà thôi. Còn các đơn vị đồn trú của các anh thì biết đánhđấm gì . . .”
Tôi lặng người ra. VC đã về đến Châu Sơn, như vậy chỉ còn cách thành phố Ban Mê Thuột có 3 km đường chim bay, thì tình hình quả đúng là nguy ngập quá rồi !
Một anh Hạ sĩ quan vào mời chúng tôi qua phòng họp và buổi họp diễn ra với thành phần như cũ. Ð/Tá Tỉnh Trưởng cho biết tình hình giống như lời Hy nói với tôi lúc nãy, là VC coi như đã vào tới vòng đai thành phố rồi; thậm chí có thể có một số đã trà trộn vào dân. . .Tin tức cho biết thêm VC đang thiết trí truyền tin, phối trí trận địa pháo và hỏa tiễn 122 ly ở khu Trại cùi và núi Châu Sơn. Các quốc lộ 14, 19, 21 dẫn về Ban mê Thuột đều bị VC chặn đánh, quấy phá, chia cắt. Tóm lại, BMT hiện đang bị cô lập. Ð/Tá Luật cho biết Sư Ðoàn 23 và Tiểu Khu đã có kế hoạch chống trả với lực lượng hiện hữu và khuyến cáo các yếu khu và các đơn vị phải cố gắng tối đa về mặt phòng thủ mà tự lo liệu là chính. Tiểu khu sẽ chỉ cho tăng viện trong trường hợp cần thiết mà thôi. Sau đó Ð/Tá chỉ thị thêm một số vấn đề nữa về vũ khí đạn dược và nghe từng đơn vị báo cáo khả năng phòng thủ và tham chiến. Buổi họp kết thúc trong bầu không khí hoang mang và nặng trĩu.
Lúc tôi bước ra thì bỗng nhiên Ð/Tá Luật kéo tôi lại nói riêng :” Anh Mỹ, Ðại Tá Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn (Ð/Tá Vũ Thế Quang) và tôi có xin Sài Gòn tăng viện. Tôi mới nhận được công điện lúc nãy từ Quân Ðoàn là sẽ được tăng viện một Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Chúng tôi rất mừng vì ít nhiều vẫn là niềm hy vọng tốt và dấu hiệu lạc quan, anh đồng ý không ? Có điều tôi ái ngại là Liên Ðoàn BÐQ sẽ lên không kịp chiều nay, mà trễ lắm là tối nay phải có mặt ở phi trường Phụng Dực. Trong trường hợp tối tăm như vậy, có cách gì cho phi cơ C 130 đáp xuống được không ?”. Tôi nói :
- “Trình Ðại tá, như Ð/Tá biết, Phụng Dực là phi trường dân sự loại D, không có hệ thống đèn phi đạo, chỉ hoạt động lúc ban ngày thôi. . . nhưng biết đâu. . . để tôi hỏi anh Khánh (Nguyễn Gia Khánh) là CHT phi trường ngoài ấy xem sao. Tôi sẽ trình Ð/Tá sau”. (Phi trường Phụng Dực trực thuộc Nha Căn Cứ Hàng Không dân sự, không thuộc KQVN)
Ðại Tá Luật bảo tôi:” Anh cố gắng giùm. Hy vọng là có được liều thuốc hay trong lúc này”. (ý nói LÐBÐQ).
Tôi nói thêm :” trình Ð/Tá, có 6 trực thăng của Sư Ðoàn 2KQ lên tăng phái cho Sư Ðoàn. Họ đang ở trong phi trường L19, xin Tiểu Khu cho tăng cường thêm lính gác tối nay”.
- “Ừ, tôi biết, để tôi nói Th/Tá Hy lo cho”.
Tôi chào Ð/Tá Luật và ra về.
16 giờ 30 chiều ngày 9/3 :
Ngay khi về đến đơn vị, tôi tức tốc cho triệu tập buổi họp khẩn cấp toàn thể sĩ quan và hạ sĩ quan chủ chốt. Tôi chỉ thị cho Tr/U Tuyển trách nhiệm phòng thủ khu gia binh, Ð/U Khắc và Ð/U Ðiệp phòng thủ đơn vị và chỉ thị đặc biệt cho Ð/U Ðại Ðội trưởng ÐPQ (có nhiệm vụ phòng thủ vòng đai phi trường) cho tăng cường thêm cấp số đạn dược tại mỗi lô cốt, phối trí thêm súngđại liên ở phía Tây Bắc phi trường.
Tôi gọi ra phi trường Phụng Dực gặp anh Khánh để hỏi về hệ thống đèn phi đạo thì anh cho biết là mấy năm trước đây, khi Hoa Kỳ còn tham chiến ở đây thỉnh thoảng, do nhu cầu tiếp tế quân dụng và thực phẩm, họ có gắn đèn dã chiến trên phi đạo cho phi cơ đáp ban đêm. Ðến nay, hệ thống đèn đó đã hư hỏng, vả lại Hàng Không VN không có nhu cầu hoạt động ban đêm ở phi trường Phụng Dực.
Tuy nói vậy, nhưng do hiểu được tình hình dầu sôi lửa bỏng trong lúc này nên anh Khánh hứa sẽ xem xét ngay lại hệ thống dây,đèn và cắt cử người trực trên control tower phi trường tối nay. Anh cũng yêu cầu tôi cung cấp thêm nguồn điện năng. Tôi đồng ý cho anh được nối điện từ đài TACAN.
17 giờ 30 ngày 9/3/75 :
Tôi đang báo cáo tình hình với Ð/Tá Luật thì có một Chuẩn Úy Bộ Binh trẻ theo Th/Sĩ Kiên vào trình diện tôi.
- “Trình Th/Tá, em được lệnh dẫn một Trung đội đến tăng phái canh gác bãi trực thăng của SÐ 2KQ. . .”
Tôi nhổm người lên vì mừng :”À, tốt quá. . . vậy anh có tất cả bao nhiêu người ?”
- “Thưa có 20 người kể cả em. . .”
- Tôi trừng mắt nhìn anh ta :”Anh nói giỡn hả ? Anh có học quân trường rồi, anh biết một trung đội có tệ lắm cũng phải có ba chục người chứ ?”
- “Thưa em biết, nhưng em chỉ được phép nhận có bấy nhiêu, mà lại là lính mới còn đang thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn”.
Tôi nhận ra mình đã nóng nảy vô lý, nhưng do tinh thần quá căng thẳng. Tôi ngaongán dịu giọng hỏi tiếp :
- “Có ai biết bắn súng M72 không ? Có cần thêm đạn dược không ? Thôi được, ra gặp Th/Sĩ Kiên nhận đặc lệnh truyền tin và mật mã. . .”
Tôi bước ra sân cờ. Tự dưng tôi cảm thấy vừa bồn chồn lo lắng, vừa buồn chán trong cảnh cô đơn của đơn vị. Tôi hỏi lại một lần nữa về tình hình đạn dược và lương khô với Tr/Úy Tấn (SQ Tiếp Liệu) và anh Ð/U ÐPQ, vì Ð/Tá Tiểu Khu Trưởng có nói nếu cần thêm, cho đi lãnh vẫn còn kịp. . .
Tôi bảo Ð/U Khắc :”Cúp hết phép tối nay”. Khắc cho biết là đã quá trễ vì giấy phép đã được ký và phát sớm cho một số quân nhân được ở nhà tối nay. (Ðây là một đặc ân cho những quân nhân có gia đình ngoài phố, cứ khoảng 10 ngày mỗi quân nhânđược ở nhà một đêm trong thời gian cấm trại)
Tôi ra lệnh cho Ð/U Khắc :”Anh tìm mọi cách gọi tất cả mọi người vào đơn vị”.
Tôi vào văn phòng gọi về BCH/LÐKB ở Sài Gòn báo cáo tình hình . . .
* * * * * * *
Trong bữa cơm chiều ở nhà hôm đó tôi nói cho vợ tôi biết tình hình hiện nay ở BMT.
Trước đó, sau khi đi họp ở tiểu Khu về, tôi đã khuyên vợ tôi nên đưa các con về Sài Gòn nhân có chuyến C 130 sắp cất cánh. Vợ tôi không chịu đi, nói là về dưới đó ở đâu? Không ai lo giúp cho 3 con còn nhỏ mà đứa nhỏ nhất mới có 3 tháng. Vợ tôi nói tiếp : ”Thôi thì cứ ở đây, tới đâu hay tới đó. . .”
Tôi cố tạo ra bầu không khí vui vẻ trong bữa ăn chứ thật ra lòng tôi vô cùng bồn chồn lo lắng. Sau bữa cơm, tôi đùa dỡn với các con một lúc rồi lững thững đứng dậy chụp bao dây súng và nón sắt. Vợ tôi nói :”Tối hôm qua anh đã ở trong đài rồi mà. Còn nhiều cấp chỉ huy khác nữa chứ ?”. Tôi âu yếm nhìn vợ con tôi :” Ðành là vậy, nhưng ngoài vấn đề chỉ huy ra, anh còn có trách nhiệm nữa. Tình hình gay cấn thế này, anh phải có mặt để anh em trong đó vững tin. Có chuyện gì xẩy ra sẽ được giải quyết ngay”.
Nói vậy nhưng thâm tâm tôi rất lo ngại cho gia đình. Ðầu óc tôi lùng bùng . . . thần kinh căng thẳng . . .
20 giờ tối ngày 9/3/75 :
Trên đường lái xe vào đơn vị chạy ngang qua phố. Thành phố đã lên đèn từ lâu, nhưng sao vắng vẻ quá. Mới 8 giờ tối mà người qua lại đã thưa thớt; thỉnh thoảng có vài xe nhà binh chạy nhanh qua. . . .
Khi tôi vào đến đài thì cũng vừa đúng lúc đơn vị đang điểm danh. Tr/U Chạo báo cáo cho tôi tình hình quân số. Tôi nhìn lướt qưa hàng quân thấy anh em đều trang bị đầy đủ. Tôi nhắc nhở mọi người :”Anh em đã biết tình hình nghiêm trọng như thế nào rồi, vậy chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là chiến đấu tới cùng khi bị địch tấn công. Cho dù chúng ta không phải là những người línhđánh giặc thật sự . . . chúng ta chưa bao giờ biết đánh giặc là gì, nhưng khi cần thiết, chúng ta phải chiến đấu, phải nổ súng để tự vệ. . . Tôi lưu ý anh em là, ngoài các phận sự chuyên môn, kỹ thuật, mọi người phải cảnh giác tối đa trong việc canh gác, ứng chiến, tuần tiễu v.v. . . Phản ứng nhanh và tuân hành lệnh thật chính xác, nhất là khi có báo động . . .
Sau đó tôi trao đổi nhanh vài ý kiến với Th/tá Phước, Tr/U Chạo, Tr/U Diện rồi vào phòng hành quân.
* * * * * * *
20 giờ 45 :
Tr/U Chạo báo cáo :”Trình Th/Tá có C130 chở quân lên, đang quần trên không mà không đáp được vì phi đạo Phụng Dực không có đèn. Không biết giải quyết ra sao ? . .."
Tôi lặng người. Tôi gọi ra phi trường Phụng Dực định gặp anh Khánh mà không gặp được. Tôi bấn lên khi nghe thấy 1 chiếc, 2 chiếc, 3 chiếc C 130 quần trên trời gọi Pyramid ơi ới. Tôi bảo Tr/U Chạo gọi DASC 2 xin chỉ thị. DASC 2 sau đó cho lệnh các C 130 bay ra đáp ở phi trường Phù Cát, chờ sáng mai có chỉ thị mới.
Thế là hy vọng ngoài phi trường Phụng Dực họ làm được hệ thống đèn dã chiến cho phi đạo đã không kịp và thất bại và cái phao mà Ð/Tá Tỉnh Trưởng và tôi nghĩ sẽ bám được thì đã trôi đi xa khỏi tầm tay . . .
Tôi gọi về Sài Gòn báo cáo mọi diễn tiến tình hình. Gặp anh bạn Ð/U Ðức(Ðức thẹo) là SQ trực của BCH Liên Ðoàn, Ðức nói :”Tao đã nhận đầy đủ báo cáo và sẽ trình lên trên . . Qua những tin tức tao cũng nhận thấy tình hình trên mày thật nghiêm trọng và bi quan quá . . Thôi thì cố gắng lên và cầu mong mọi sự sẽ được tốt đẹp . . .”
Rời phòng Hành quân, tôi bước vội qua cư xá sĩ quan độc thân. Cái không khí mát lạnh ban đêm bên ngoài cũng không làm dịu được sự bồn chồn lo lắng trong tôi. Một vài sĩ quan báo cáo cho tôi biết tình hình phòng thủ trong mỗi khu vực. Nhìn đồng hồđã gần 11 giờ khuya rồi .
2 giờ sáng ngày 10/3/75 :
Tôi giật mình choàng dậy vì tiếng pháo nổ từ xa vọng lại dồn dập . . . Tôi bấm máy hỏi SQ trực thì được trả lời :”Trình Tango 1, tôi đã check với TTHQ Sư Ðoàn đó là gà nhà gáy đó”.Tôi dặn SQT nhắc nhở các sĩ quan phòng thủ tuần tra, có gì báo tôi liền.
- “Nhận rõ, Tango 1”
Tôi lại nằm xuống ngủ chập chờn thêm một lúc nữa . . .
* * * * * * *
Tôi đang mơ màng, bỗng nghe tiếng gọi trong máy :” Trình Tango 1 có bóng người đột nhập từ cổng Bravo ”. Tôi ra lệnh:”cho báo động đi”.
Tức thì, còi hụ nổi lên từng hồi, và chỉ vài phút sau tôi nghe tiếng súng cối 82 ly của VC rót vào đơn vị như mưa bão. Tôi mang giầy, chụp vội nón sắt, áo giáp xách súng lao ra cửa. Tôi nhảy xuống một hố cá nhân vì đạn pháo nổ chát chúa dầy đặc xung quanh. Tôi nghe tiếng súng nổ vang rền của M16 lẫn trong tiếng “tốc, tốc” của súng AK của VC ở mặt sau đài. Rồi tiếng nổ củađạn M79 từ trên pháo đài bắn ra. Tôi nhìn đồng hồ : 2 giờ 20 sáng. Tôi hét trong máy ra lệnh cho các pháo đài, vọng gác và các sĩ quan có trách nhiệm phòng thủ ở hai mặt phải tìm mọi cách liên lạc các nơi đang bị tấn công. Tiếng đạn và pháo 82 vẫn nổ rền trời. Rồi tôi nghe có tiếng hỏa tiễn 122 ly rú lên và nổ tung xung quanh. Tôi nghĩ đây là chiến thuật tiền pháo hậu xung của VC cho nên tôi lại hét trong máy nhắc các pháo đài phải cảnh giác. Quả nhiên một lát sau là tiếng pháo im bặt, chỉ còn tiếng súng tay và súng đại liên nổ rền vang . . Tôi chạy nhanh ra hầm chỉ huy. Trong hầm tôi thấy có Tr/U Chạo và một số anh em sĩ quan, hạ sĩ quan. Tôi hỏi :”Sao, trên ấy ra sao?” (tức là phòng Hành Quân). Chạo hổn hển đáp :”Tôi có để lại hai người trực điện thoại và hot line, còn lại đều ra vị trí chiến đấu”. Chạo đưa ống nghe máy PRC 25 cho tôi. Tôi liên lạc được các vọng gác, trừ vọng gác B2 (mặt trước phía bên phải đơn vị)
Các vọng gác phía sau cho biết đang bắn chặn bọn VC đang tràn qua hàng rào . . . Lực lượng ÐPQ cho biết họ mất liên lạc với khu vực phía Tây. Tôi nghĩ:”À, thảo nào vòng đai phía Tây phi trường bị thủng sớm, vì nơi đây có khoảng non một trung đội Thám sát tỉnh trú đóng (tức là toán PRU = Provincial Research Unit) gồm toàn người Thượng và là lực lượng bán quân sự. Họ ở trong các căn nhà của hãng thầu Pacific để lại. Khu này không có gài mìn claymore phòng thủ.
Tôi nghe báo cáo : bọn đặc công VC ở trần, mình họ bôi đầy lọ đen, liều lĩnh áp sát vào các vọng gác, pháo đài để ném “bê ta”(4) và lựu đạn. . .
Tiếng súng mỗi lúc mỗi dồn dập hơn rồi lại nghe tiếng nổ của hỏa tiễn 122 ly. Tiểu Khu hỏi :”Có nặng không ?”. Tôi trả lời :”Khá nặng. . . mất liên lạc nhiều nơi . . . nhưng đã có xin máy bay thả flare...”
Tôi nghe tiếng của Th/Sĩ Phong la :”VC tràn vào đông quá, tụi tôi bắn không xuể, phải dùng lựu đạn “. . . Một lát sau . . .VC phát hiện vị trí của tụi này, nó bắn B40 lên. . . bọn tôi rút qua pháo đài giữa . . . và . . . vọng gác số 3 bị trúng B40 rồi . . .”
Lúc đó có TS 1 Thành từ phòng Truyền tin chạy đến báo cáo :”em đã cho nổ phòng mật mã”. . .
Tiếng súng và đạn pháo vẫn nổ rền càng lúc càng nhiều. Tôi nghe 2 tiếng nổ lớn rất gần.“Báo cáo Tango 1 nhà máy điện cháy”. . . và 1 phút sau. . . . “Hội trường cháy !” . . .
Tôi bảo Tr/U Chạo cùng tôi lên miệng hầm để quan sát tình hình và bảo Th/U Hùng trực máy 25. Tôi thấy Th/U Thành chạyđến hổn hển trình :”em cố gắng ra vòng ngoài mà chưa được”. Thành là sĩ quan CTCT của đơn vị. Anh phụ trách khu vực phía sau cùng với Ð/U Ðiệp. Tôi hỏi :”Tango 4 đâu ?”. Thành cho biết Ðiệp đã có mặt ngoài ấy từ lâu. Rồi anh chạy đi nhanh như cơn gió. (Sau này tôi mới biết đó là lần ra đi cuối cùng của anh!)
Tôi biết phía sau đang bị nặng và anh em vẫn còn đang chiến đấu. Tôi nhìn quanh : nhà cháy rực sáng, đạn nổ rền trời, ánh hỏa châu bập bùng soi sáng, mùi thuốc súng khét lẹt . .
Tôi tự nhủ : chiến trường là đây sao ? Ôi 13 năm quân ngũ bây giờ tôi mới biết thế nào là cảnh chiến địa với khói, lửa, đạn, bom . . .
TS 1 Hoàng Công Chính chạy vội tới hét lên :”có 2 thằng VC ở đằng kia !” rồi quả nhiên thấy có 2 bóng đen lướt nhanh qua chỗ chúng tôi cách khoảng 15 mét. Chính ria một tràng M 16. Nhưng cũng sau một tích tắc là một trái Bê Ta nổ vang ngay trên miệng hầm chỉ huy . . . Tiếng Tr/U Chạo la lên: ”Thằng Chính nằm rồi !”( Chính đứng gần tôi và Chạo). Tôi nghe anh ta rên lên một tiếng rồi im bặt. Khói bụi mịt mù tung lên. . . tôi bị hất tung vào bên trong. Có mùi khét của tóc tôi bị cháy, mặt và cánh tay trái bị thương rát bỏng, chiếc máy motorola trên tay bị hất văng ra xa. Tai trái của tôi bị ù và đau nhức không còn nghe thấy gì nữa. Chạo dìu tôi vào bên trong. Lúc này dưới hầm có khoảng 10 người. Có cả anh Th/Tá biệt đội trưởng trực thăng biệt phái cho SÐ 23BB. Anh ta nói với tôi :”Tóc anh cháy hết rồi, vết thương có sao không, anh Mỹ ? Chờ rứt pháo thì tụi mình chạy ra bãi trực thăng, chúng ta cùng thoát”. Tôi nói :”Ðạn nổ như vầy mà đi ra ngoài đó sao được ? VC đã tràn vào đơn vị cho nổ bê ta nhưanh đã thấy đó. . . Vả lại tôi còn trách nhiệm chỉ huy nữa, đâu có thể bỏ anh em mà đi trong tình hình thế này được. . . thôi anh điđi . . .” Một lát sau anh ta lướt lên miệng hầm chạy đi. . .
Tr/U Chạo nói :’Thằng Hồng Hà (danh hiệu của ÐPQ) cho biết VC tràn vào từ phía Tây phi trường dừng B 40 bắn cháy các trực thăng và L 19 của ta”. Tôi nói với Chạo :’Bảo nó cố gắng liên lạc với mấy đứa con của nó hãy cố tử thủ, mình sẽ xin Tiểu Khu tiếp cứu. . .”
4 giờ sáng ngày 10/3 :
Lúc này thì tôi không còn liên lạc được với mặt sau nữa, chỉ còn mặt trước và đại đội ÐPQ. Họ cho biết có 2 trực thăng lênđược, số còn lại đang bị cháy. Trung đội gác bãi trực thăng thì một số tan hàng, số còn lại tìm đường rút lui.
Tôi xin Tiểu Khu tiếp cứu thì họ cho biết :”TK cũng đang bị pháo nặng lắm. Họ khuyên tụi tôi ráng cầm cự và sẽ cho quân tiếp viện . . .” Tôi nghĩ :”Cầm cự cái con mẹ gì nữa, nó đang đánh và pháo phủ đầu thế này, mình không làm gì được. . .”
Có hai người dìu một thương binh xuống hầm. Ðó là Th/Sĩ 1 Khương (Bảo trì Radar). Anh ta bị thương khá nặng đang rên la. Tôi thấy đau lòng quá. Tôi bảo anh em tạm băng bó vết thương cho anh ta, chờ tới sáng sẽ tính...Anh ta la lớn :”Th/Tá ơi cho chở em đi nhà thương đi, em đau quá, chắc chết mất !”. Tôi ghé vào tai Khương :”Ðược rồi, chờ rứt pháo đã... ráng chịu đựng một lát nữa đi... mà mày rên nho nhỏ thôi, VC ở quanh đây, nó nghe được thì chết luôn cả lũ dưới này !”. Thật tôi nghiệp, nghe vậy anh ta rên nhỏ lại, khe khẽ dần rồi im luôn. . .một lát sau, Th/Sĩ Lộc nói :”Thằng Khương “đi” rồi Th/Tá ơi !”. Tôi lặng người. Ðầu óc tôi lùng bùng, tay trái và mặt bị rát bỏng do trái bộc pha nổ lúc nãy. Tôi nói :”Có cậu nào đó vuốt mắt cho Khương đi !”. Th/Sĩ Lộc cúi xuống . . .
4 giờ 40 sáng :
Lúc này thì tiếng pháo đã dứt, chỉ còn tiếng súng nổ rền. Một vài nơi vẫn còn chiến đấu. Tôi nghe Th/sĩ Y San báo khu vực anh đang chống trả lại VC . . . một lát sau, tiếng anh la trong máy :”Pháo đài bị B 40 bắn sập, Th/U Mỹ cùng vài người nữa bị thương . . . và . . . chuẩn bị rút qua đài Tropo . . .” (Th/U Nguyễn Thế Mỹ là SQ Truyền Tin của đơn vị, chịu trách nhiệm phòng thủ pháo đài này. Anh đã cùng anh em chiến đấu rất gan dạ)
* * * * * * *
6 giờ sáng ngày 10/3 :
Tôi đang ôm ống nghe máy PRC 25 thì Tr/U Chạo nói :”Th/Tá hãy nghỉ một lát, đưa tôi trực máy cho”. Tôi bảo :”Ừ... nhớ có ai gọi phải cho tôi biết ngay”. Một lát sau, Chạo đưa ống liên hợp cho tôi: ”có thằng Hồng Hà gọi”. Tôi nghe giọng nói rè rè và hốt hoảng của nó đang gọi Ðống Ða. (về liên lạc phòng thủ trong phi trường và với Tiểu Khu thì Hồng Hà là ÐPQ gác vòng đai, còn Ðống Ða là BCH/ Ðài Kiểm Báo).
- “Ðống Ða nghe”.
- “Trình Ðống Ða có mấy thằng T 54 (chiến xa T 54 của VC) đang tràn vào bắn phá từ hướng Tây bắc làm mấy đứa con tôi phải đi chợ rồi!” (tan hàng)
Tôi bảo Hồng Hà giữ liên lạc với tôi và Tiểu Khu và tôi đã xin tiếp cứu rồi. (hướng Tây là nơi có toán Thám sát tỉnh PRU trú ngụ sát nhà dân gần xóm đạo nên không có gài mìn)
7 giờ 30 sáng 10/3 :
Tiếng súng vẫn nổ đều. Cả hầm im lặng như tờ. Thỉnh thoảng mới có tiếng trả lời và tiếng gọi của tôi trong máy. Chúng tôiđang hy vọng và chờ quân tiếp viện. Bỗng có tiếng của Th/Sĩ Lộc (Lộc ruộng) vang lên nói với Chạo và Tấn :
- ”bây giờ có bộ bài Domino chơi một lát thì hay quá hả Tr/U ?”.
Tôi trừng mắt :
- “mày có im đi không, VC đang ở quanh đây, đơn vị coi như xong rồi!”
Lộc nói như mếu khóc :
- “. . . cho đỡ buồn Th/Tá ơi, mà sao em lo cho vợ và 6 đứa con em quá không biết giờ này ra sao !?”
Nghe Lộc nói vậy, tôi cũng chạnh lòng và nghĩ đến gia đình tôi. Không biết vợ tôi một mình với 3 con nhỏ bồng bế chạy giặc ra sao, lòng tôi se thắt lại . . . đau xót . . .
Tôi nói :”Theo tin tôi nhận được thì ngoài phố, khu vực Tiểu Khu và Sư Ðoàn cũng đang bị pháo nặng. Có nơi đang giao tranh. Tôi đã xin tiếp cứu, mình phải chờ xem sao. Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện rút đi. . . nhưng thời điểm này chưa thuận tiện, VC tràn ngập trong phi trường, có lẽ phải đợi đến tối. . .”. Anh em nhìn tôi im lặng.
* * * * * * *
9 giờ sáng 10/3 :
Tới giờ này chúng tôi vẫn còn lạc quan vì nhận được tin từ Tiểu Khu là sẽ có một lực lượng tăng viện đánh vào phi trường đểgiải vây. Quả nhiên một lát sau tôi nghe họ gọi tôi trên tần số và cho biết họ đang có mặt trước cổng phi trường.
- “Ðống Ða, anh cho tôi biết hướng nằm của anh để tôi vào thăm”.
Tôi cho họ biết đại khái lấy mốc là một cây dừa nào đó. Họ cho biết đang đánh vào và hy vọng sẽ bắt tay được với đơn vị tôi trong vài giờ. Tôi mừng rỡ. Tiếng súng vẫn nổ vang phía ngoài. . .
Cho đến 11 giờ, tôi vẫn không thấy gì. Cố gắng liên lạc thì họ cho biết tiến rất chậm, chưa vào được. . . một lát sau họ nói đã vào bên trong nhưng bị địch chặn lại, chưa vào sâu được . . . Rồi lại tiếp : “chưa tiến vào được vì bị VC bên trong có T54 bắn ra dữ dội quá”. Quá thất vọng, tôi bấm máy chửi thề :
- “ Ð.M các anh đánh đấm cái con “C” gì vậy ? Có một bầy con mà không diệt được tụi nó sao ? “.
Tôi báo cho Tiểu Khu, họ nói : “đơn vị tiếp viện báo về bị nặng lắm. . . cố gắng chờ đi”.
Một lát sau họ nói : “Họ bị quá nặng, không thể vào được”. Thế là chúng tôi tiêu tan hy vọng.
(Về sau trong trại tù binh ở Ðức Cơ, tôi có gặp người chỉ huy cánh quân hôm đó, anh ta tên là Th/Tá Y Kdam Niê. Nhắc lại chuyện giải vây tiếp cứu phi trường, anh ta ôm tay tôi và nhe răng cười:”Tôi biết anh nóng lòng muốn được giải vây nhanh, trong khi VC quá đông lại có tăng T54 bắn ra dữ dội . . . mà tôi chỉ có hơn một đại đội bị thiệt hại nặng nên không làm gì được. . .”)
Tôi liên lạc với đơn vị kế bên là Chiến Ðoàn 3 Xung Kích (Lôi Hổ) để mong được giúp đỡ nhưng họ cho biết xe tăng VCđang tràn vào, họ cũng chuẩn bị rút. . .
16 giờ chiều 10/3/75 :
Ðã nhiều lần bật qua tần số liên lạc với phi cơ của KQ, tôi vẫn nghe rõ tiếng gọi Pyramid của L19 và A37 mà tôi trả lời thì họ không nhận được không hiểu vì sao ? (Có lẽ vì antenna của máy PRC 25 được thiết trí trên tháp cao của máy Search Radar nên bắt được tiếng nói từ phi cơ rất rõ). Thỉnh thoảng tôi cũng nghe họ liên lạc với nhau trên tần số FM qua các danh hiệu “Thiên Lôi, Ó Ðen” (khu trục cơ A37 của các PÐ 524, 548 thuộc Căn Cứ 20CTKQ Phan Rang).
Tôi cố gào trong máy một cách tuyệt vọng mà họ cũng không nghe được. Ðến một lúc sau, lâu lắm, có một chiếc “Thiên Lôi” nghe được tôi. Tôi mừng quá và anh ta cũng mừng. Anh ta gọi một phi cơ khác mà danh hiệu tôi nghi là của L19 (ALO/FAC): “Phải bay on top vertical Pyramid thì mới nghe nó được”. Chiếc Thiên Lôi hỏi tôi tình hình dưới này. Tôi nói : “bi đát lắm!”. Tôi cho anh ta biết : tăng (tank) T54 của VC đã vào phi trường, còn bọn VC thì đông như kiến đang nằm khắp nơi trên phi đạo đểchặn đánh không cho lực lượng tiếp viện tiến vào”. Anh ta hỏi tôi có cần gì không ? Tôi nói : “Chỉ xin lực lượng giải vây cho tôi, nếu không có thể chúng tôi sẽ chào vĩnh biệt !”
Một lát sau, Thiên Lôi nói đã chuyển công điện của tôi về DASC 2 rồi. Tôi đề nghị Thiên Lôi thả bom và bắn rocket dọc theo phi đạo và dọc theo con đường phía sau phi trường. Tôi nói là mấy thằng con tôi (ÐPQ) báo cáo về cho biết VC đang tập trung ởđó nhiều lắm. Một lát sau anh ta nói : “Thấy rồi, mà sao tụi nó ở gần đài các anh quá, có sao không ?”
Tôi trả lời :”Cứ làm đi” vì hy vọng may ra Thiên Lôi giải tỏa được hỏa lực VC để lực lượng ÐPQ giải vây tiến vào được . . .”
Sau đó là từng loạt bom nổ rất gần. Bụi cát bay mù mịt phủ đầy đài và phi đạo. Lúc này là khoảng 17 giờ chiều 10/3/75. Từng loạt bom, từng loạt rocket nổ rền, căn hầm chỉ huy của tôi bị rung chuyển từng hồi như bị nhồi lên nhồi xuống vì sức ép của bom nổ quá gần. . .
Tôi báo cho Tiểu Khu là phi cơ của ta có thể đã giải tỏa bớt sự kháng cự của VC, và xin được tiếp viện giải vây cho chúng tôi. Họ nói :”Chờ sẽ có”. Một lát sau họ lại cho biết chưa tìm được lực lượng tiếp cứu vì đang bị VC tấn công và pháo nặng. Chiến xa T54 của VC cũng xuất hiện trước BCH Tiểu Khu. Họ cũng đang chuẩn bị đối phó.
18 giờ tối 10/3 :
Tiểu Khu khuyên tôi :”Nên tìm cách rút đi”. Họ cho biết :” nên đi theo hướng Tây Bắc, dọc theo con đường bao quanh Buôn Kosia lên Trung Tâm Huấn Luyện SÐ, vì đây là hướng duy nhất còn an toàn, và sau đó tìm cách đi lần xuống Phước An. . .”
Tôi vô cùng phân vân vì muốn qua Buôn Kosia và Buôn Păng Lăng thì phải băng qua phi đạo trống trải rồi lại phải băng qua bãi đậu trực thăng nữa, rất dễ làm mồi cho bọn VC đang ở đó.
Tôi báo cho anh em biết tình hình như vậy. Ai nấy đều lặng thinh. Tôi nhìn nét mặt ai cũng lem luốc, hốc hát, đói khát, rã rời và tuyệt vọng. . .
Một lát sau, tôi ra lệnh :”Tất cả chuẩn bị rút. . .!”
* * * * * * *
Khi chúng tôi vừa lên khỏi miệng hầm định tìm hướng rút đi thì sa ngay vào vòng vây của VC. Tôi và tất cả anh em gần 10 người bị bắt trước họng súng đại bác của chiến xa T 54. Tôi bị VC nhốt chung trong trại tù binh cùng với Ð/Tá Quang (TLP/SÐ 23BB), Ð/Tá Dụng (TMT/SÐ 23BB) và Ð/Tá Luật (Tỉnh Trưởng BMT) gần 2 tháng. Sau đó, tôi bị chúng đưa lên Ðức Cơ, rồi chuyển lên PleiKu và sau cùng giam trong trại tù trong đồn điền Méval hơn 7 năm mới được trả tự do.
* * * * * * * *
9 năm sau : Chiến tranh rồi cũng qua đi...
Những năm tháng tù đầy tủi nhục cũng đã qua...
Tôi trở về với tâm trạng nửa vui nửa mừng, vừa buồn chán. Mừng vì được gặp lại gia đình; buồn vì cuộc chiến vừa qua đã gây cho tôi nhiều mất mát : gia đình gần như mục rã vì kinh tế; một đứa con chết vì đau ốm không có thuốc chữa trị; bạn bè, chiến hữu... kẻ mất người còn, kẻ lang bạt ở phương xa... Cái xã hội mà tôi đang sống đây, đối với tôi, đầy rẫy những thù hằn, nghi kỵ, khốn khổ...
Sau này tôi đã có dịp đi trở lại con đường cũ để tới nơi mà trước kia đơn vị tôi đóng quân. Ðó là vào một buổi chiều tháng 12, vẫn với những nét đặc thù của xứ Ban Mê Thuột “buồn muôn thuở”, nầy là : rất lạnh và gió tung bụi đỏ mịt trời ! Ðơn vị cũ của tôiđây rồi sao !?... Nhà cửa tan nát, sập đổ; một vài nơi bị cháy dở chỉ còn trơ lại vách tường lởm chởm vì bị bắn phá, hoặc loang lổ những vết đạn. Hai tháp cao của máy Search và Height finder cũng bị nhiều lỗ đạn phá toang hoác, tuy không sập nhưng dàn Antenna bị sập xuống, gẫy nát... ( tôi không hiểu đã hơn 9 năm rồi mà sao VC lại chưa dọn dẹp đi ?). Tôi đi lang thang nhìn quanh quẩn. Tôi chợt thấy một vài người đang đào bới tìm sắt vụn giữa đám cỏ hoang mọc cao bằng đầu người. Họ không biết tôi là ai. Họ chỉ cho tôi thấy một vài nấm mồ thấp lè tè mà tôi đoán chắc là của các chiến hữu tôi. Tôi khựng lại và đảo mắt nhìn quanh một vòng để nhớ lại đơn vị cũ của tôi. Tôi lặng người đi và cảm thấy buồn vô cùng. Chiến hữu tôi nằm đó mà tôi tệ quá đến nỗi không có được một nén nhang thắp cho họ ! Tôi thì thầm :”Thôi thì xin các anh em yên nghỉ... Phải khó khăn lắm tôi mới được vào đây. Tôi xin cầu nguyện cho linh hồn các anh em được yên nghỉ thanh thản ở một nơi nào đó... không có chiến tranh, không có hận thù... Phần tôi, tuy còn sống trên cõi đời này, nhưng lại mang biết bao nhiêu là tủi nhục...”
Nhìn lại quãng đường hơn nửa đời người đã đi qua, tôi nghĩ, tôi từ một anh chàng thư sinh đang cắp sách đến trường, rồi chiến tranh, để rồi trở thành một người lính, rồi trở thành một tù binh bị đi “cải tạo” nhiều năm, rồi trở về bị mất quyền công dân, bị cái chính quyền trước kia tôi cầm súng chống lại nó đá văng ra bên lề xã hội... thật là khổ nhục. Nhưng rồi có lúc tôi cũng cảm thấy mình không đến nỗi nào : Ðối với Tổ Quốc và Quân Ðội, tôi là một người lính hết lòng phục vụ dưới cờ; đối với anh em trong đơn vị, chúng ta đã đối xử với nhau bằng tình huynh đệ chi binh. Thực lòng tôi lúc nào cũng vậy, là càng nghĩ đến cuộc chiến ngày nào càng thương nhớ các chiến hữu của tôi, nhất là những người đã vĩnh viễn nằm xuống; tôi muốn nói đến cả về lực lượng cơ hữu đến tăng phái. Trận chiến tuy nhỏ nhưng họ đã chiến đấu thật anh hùng. Trong số ấy có những người như anh em Không Quân của Ðài Kiểm Báo BMT, chưa bao giờ biết cầm súng trực diện đánh giặc đối mặt với quân thù, mà vẫn chiến đấu một cách dũng mãnh; chỉ tiếc là đơn độc, thiếu hỗ trợ... tất cả chỉ vì sinh tồn, vì Tổ Quốc. Ðể rồi một số anh em mãi mãi ra đi đang nằm xuống nơi nầy, một số bị thương tật. Nhưng kẻ thù cũng đã phải trả một giá thật sòng phẳng và khá đắt : Ðó là về sau này, tôi có nghe nhiều người dân sống ở xóm đạo nói rằng chính họ đã thấy VC khiêng trên 20 xác chết và bị thương từ phi trường ra, qua ngả của hãng Pacific cũ ( tức là nơi do toán PRU ở) băng qua xóm đạo đi về hướng nghĩa trang BMT trong ngày 10/3/75. Dù sao, các anh em cũng đã hãnh diện là đã hoàn thành nhiệm vụ của người lính đối với Tổ Quốc...
Suy nghĩ miên man như vậy, tôi ngẩng lên nhìn quanh quẩn một lần nữa rồi ra về...
.... Xin giã từ đơn vị cũ, chiến trường xưa; Xin chào các anh em....!
- Viết để tưởng nhớ và thương tiếc cho những chiến hữu đã vĩnh viễn ra đi :
Các Sĩ Quan : Ð/U Trần Văn Ðiệp, Th/U Nguyễn Thế Mỹ, Trần Lợi Thành.
Các HSQ và BS : Hàn Bố Quang, Trần Văn Khương, Phan Văn Hoa, Y Wong, Trần Quang Trứ, Y Cuic, Y Bhan, Ðào Huy Bích, Hoàng Trung Chính, Huỳnh Lựu, Ðỗ Dư, Trần Văn Mẹo, Nguyễn Văn Vân... và một số anh em khác...
viết xong tháng 10/1984
KQ Hoàng Bá Mỹ
Chú thích :
(1) T/U Hoàng Thanh Nhã sau là Ð/Tá KÐT/KÐ 23CT/Sư Ðoàn 3 KQ ở Căn cứ Biên Hòa.
(2) T/U Ðỗ Minh Ðức sau là SQ đại diện KQ tại Biệt Khu Thủ Ðô/ Sài Gòn.
(3) Ð/Tá Vũ Thế Quang (Dù) TLP/SÐ 23BB, ngày 10/3/75 trên đường rút lui về kho đạn bằng thiết vận xa bị VC vây hãm, đã dùng máy PRC 25 kêu Ð/Tá Thảo (nâu) dội bom ngay vào đầu anh để khởi bị rơi vào tay quân địch.
(4) Bê Ta còn gọi là “bộc pha”là trái nổ do chữ pétard của Pháp.
Bản đồ BMT từ thời Pháp |
bungalow - băng ka lô |
Hồ Pissin - Xóm Trần Hưng Đạo |
Loại xe phổ biến |
Kem Chi Cao - Góc Quang Trung - Lý Thường Kiệt |
Bùng Binh Cây số 3 |
Bùng Binh Cây số 3 |
Cột đèn 3 ngọn (ngã sáu bây giờ) |
Đường Tự Do, Tiểu Khu DarLac (nay là đường Độc lập. đoạn UB Tỉnh) |
Đình Lạc Giao đã cải tạo sau này |
Góc đường Quang Trung - Hai Bà Trưng - 1965 |
Đường Quang Trung - Góc Cây mít, nằm giữa y Jút và Lý Thường Kiệt |
Đường Tôn Thất Thuyết, nay là Lê Hồng Phong Phía trái là Trường Nguyễn Công Trứ Phía phải là rạp ciné Hưng Đạo |
Cây xăng _ngã sáu |
Nhà thờ lớn |
Rạp Thăng Long - Caritas |
Rạp LÔ ĐÔ |
Tiệm vàng Kim Môn đường A Ma Trang Long |
Ngã tư Quang Trung - Tôn Thất Thuyết (Lê Hồng Phong) |
Nhà Hàng Thanh Thế đường Hoàng Diệu (cùng một chủ với rạp Hưng Đạo) |