RAU TẬP TÀNG Ở KON BRAIH YU
Nguyên Ngọc: Khi nồi canh tập tàng vừa sôi trên bếp thì bỗng xuất hiện một người với chiếc gùi lớn đứng choáng cả khung cửa: vị chủ nhà, Bok Tơ.
Thoạt đầu tôi không đoán nổi tại sao lại có người Bana Alakông ở vùng này, thuộc huyện Kon Rẫy (đúng ra là Kon Braih) của tỉnh Kontum. Kon Rẫy chủ yếu chỉ có người Xơ Đăng; đi xa hơn chút nữa về hướng đông, quá đèo Mang Đen, xuống sát Kon Plong, thì có thể gặp người Ca Dong, cũng là một nhánh Xơ Đăng. Vậy mà làng Kon Braih Yu cách huyện lỵ Kon Rẫy chỉ vài cây số đúng là một làng Bana Alakông không thể nhầm, nghe giọng nói nhận ra được ngay. Người Bana Alakông chỉ có thể tìm thấy ở mạn An Khê nay thuộc tỉnh Gia Lai, cách nơi này ngót trăm cây số và những dãy núi cao ngất.
Bỏ xe lại ở gần huyện vì trời mưa đường lầy, qua một cầu treo nhỏ đong đưa, thì đến nhà rông của làng, gặp già làng Bok Deh, và thắc mắc liền được giải tỏa. Các già làng là lịch sử sống của làng. Bok Deh kể: Đây là chuyện tôi được nghe cha của cha tôi truyền lại, còn cha của cha tôi thì được nghe từ cha của cha ông. Thời ấy còn chiến tranh bộ lạc, liên miên; đúng ra thì không phải chiến tranh bộ lạc, không phải các bộ lạc đánh nhau đâu, mà các làng đánh nhau, để bắt tù binh bán sang Lào, sang Xiêm làm nô lệ. Làng nào yếu thì thua, hoặc bị sáp nhập vào làng kia hoặc bỏ chạy. Làng này đã chạy từ An Khê lên đây, tương truyền do một người đàn bà tên là Ya Braih dẫn đầu, đến trốn trong một thung lũng ngày ấy còn rất kín đáo tên là Đak Yu. Làng mang tên Kon Braih Yu từ đó. Kon có nghĩa là người, Braih là tên người đàn bà thủ lĩnh nọ, Đak có nghĩa là nước, là con suối. Con suối các anh chị vừa qua cầu treo chính là suối nước Yu…
Vậy đó, Tây Nguyên, dường như chỉ cần ngồi nhích qua một chút, thay đổi góc nhìn vài độ, lập tức có thể bất ngờ rơi ngược vào một quá khứ hằng mấy trăm năm, huyền ảo mà hiển hiện đâu đó sau đôi mắt chưa mờ của vị già làng đang ngồi trước mặt ta kia. Đúng ra già làng Bok Deh cũng chưa thật già lắm đâu, chưa có chút vẻ gì là người của một thời đã qua ít nhiều huyền thoại ở Tây Nguyên vốn là cái chất còn rất gần. Hỏi kỹ thì đúng vậy: ông từng là cán bộ xã rồi huyện, thậm chí đã đi bộ đội đánh nhau ở Cămpuchia, về hưu thì làm già làng. Tôi hỏi ông: Làng mình ở đây là làng mới phải không? Dời ra đây từ bao giờ? Ông hỏi lại: Sao anh biết? Rồi ông cười: Thôi, không cần hỏi nữa, anh đã nhận ra ngay chúng tôi là người Bana Alakông tức anh sống trên này đã lâu lắm. Anh tinh đấy. Đây đúng là làng mới…
Thật ra không khó phân biệt một làng mới bị dời và được lập lại, gọi là tái định cư: có một sự ngăn nắp chỉn chu mà giả tạo thế nào đó khiến một cái làng Tây Nguyên mới không còn thật là làng Tây Nguyên. Tôi bỗng nhớ một chương rất hay trong một tác phẩm viết về các bộ lạc Nam Mỹ của Claude Lévi-Strauss. Làng của người Nambikwara bao giờ cũng được bố trí theo hình vòng tròn, có một đường kính vô hình chia làng làm đôi, không nhìn thấy nhưng lại hết sức hiển hiện đối với người bản địa. Trai gái ở nửa làng bên này chỉ được lấy vợ lấy chồng thuộc nửa làng bên kia… Các nhà truyền giáo châu Âu đến, chỉ cần làm mỗi một việc: họ xây những làng mới tái định cư cho người Nambikwara, không còn theo hình vòng tròn nữa mà thành hai hàng song song. Lập tức văn hóa Nambikwara bị phá vỡ tan tành, và rồi dân tộc Nambikwara chẳng bao lâu cũng biến mất luôn… Tôi cứ ước gì những người đang làm công tác tái định cư ở Tây Nguyên - và cả ở những nơi khác nữa - chịu khó đọc Lévi-Strauss đôi chút, cuốn sách ấy của ông đã được dịch và in ở Việt Nam rồi, nó tên là Nhiệt đới buồn. Sẽ có thể hiểu vì sao Strauss bảo Nhiệt đới là buồn! Việt Nam mình, Tây Nguyên mình cũng nhiệt đới mà...
Tôi hỏi Bok Deh: Bây giờ mình muốn đi vô thăm lại chỗ làng cũ được không? Ông già phân vân một chút, nhìn sâu vào mắt tôi, rồi bảo: Cũng được chớ. Mà cũng chẳng còn gì trong đó đâu, chỉ có mấy cái chòi rẫy của bà con… Nhưng anh còn leo dốc được không? Trời mưa, đường dốc trơn, nhiều vắt đấy… Vào đấy thì thấy gì mà vào cho nhọc. Ở ngoài này hay hơn chứ, ngoài này chúng tôi đang chuẩn bị trồng cao su, đã quy hoạch cả rồi. Cả vùng này sẽ tràn cao su. – Mình muốn vào thăm bà con thôi mà, mình có biết Bok Tơ, gặp lâu rồi, Bok Tơ bây giờ vẫn ở trong ấy phải không? Mình đi thăm được chớ? – Được thôi, tùy anh, giọng Bok Dek chợt hơi trầm xuống…
Quả đường khá dốc, lắm đoạn trèo đến bở hơi tai, lại lầy lội, mưa lớn nên một con suối nhỏ cũng đã thành lũ dữ, và vắt thì tất nhiên rồi, nhiều vô kể. Hơn 2 tiếng đồng hồ. Rừng mỗi lúc một dày hơn. Đã bớt cái cằn cỗi của núi non bị bóc trụi. Đã mát mắt, và dịu lòng nữa, đôi chút vì màu xanh đậm đà của rừng già… Tưởng chừng dốc cứ lên bất tận. Và đột ngột trong một khoảng rừng thưa hiện lên căn nhà đầu tiên, đứng một mình bên một con suối nhỏ. Chừng năm phút sau, ba căn nhà khác. Bok Deh đã không nói đúng: không phải chòi rẫy. Người Tây Nguyên vẫn có tục: mùa lao động, vào làng bao giờ cũng rất vắng, chỉ gặp được đôi người già và trẻ con. Người lớn đều ở ngoài rẫy, rẫy thường xa làng nên trong suốt mùa lao động người ta sống ở đấy, trong những chiếc chòi cất tạm, để đỡ phải đi lại. Mấy ngôi nhà chúng tôi gặp lúc này đây hoàn toàn không phải là chòi rẫy. Người có đôi chút kinh nghiệm sống ở Tây Nguyên có thể nhận ra ngay: những ngôi nhà này nghèo nhưng rõ ràng là nhà ở trong làng, kín đáo và tươm tất; và rải rác đây đó vẫn còn dấu vết một số cây ăn quả, đặc biệt một số bụi ớt hiểm và cà đắng rất đặc trưng của các làng Tây Nguyên. Đây chính là ngôi làng Kon Braih Yu cũ, đã bị bỏ đi để tái định cư ở làng mới ngăn nắp ngoài kia nơi chúng tôi vừa gặp Bok Deh. Để làm gì? Bok Deh đã tiết lộ một chút rồi: để chuyển cả vùng này sang trồng cao su. Những ngôi nhà còn sót lại giữa rừng sâu này là của những gia đình chưa hay không chịu đi. Họ còn trụ lại. Với rừng. Níu lấy rừng.
Chúng tôi vào một nhà có người. Nhà Bok Tơ. Đã xế chiều nhưng trời đột ngột dứt mưa và như thường vẫn vậy trên núi cao, chợt có nắng, nắng xế làm ửng lên vàng óng vạt rẫy hình tam giác lúa đã chín ở sườn núi bên kia; còn ở trong nhà này thì nắng cũng vàng như sơn mài đan qua các liếp tre giúp chúng tôi nhận ra được một bếp lửa đang âm ỉ khói và trong góc nhà bốn đứa bé xúm xít vào nhau, ngơ ngác nhưng không hề sợ sệt, mở to mắt nhìn chúng tôi. Đứa lớn nhất chừng năm tuổi, đứa bé nhất chắc chưa lên một. Tôi hiểu: ở trên này, năm tuổi thì đã là người lớn. Bố mẹ đi vắng suốt ngày, chắc làm rẫy xa, có thể đến năm bảy cây số, chăm lo cho các em, đảm đang mọi việc trong nhà, kể cả việc đối ngoại, giữ vai trò người chủ thật sự của gia đình chính là cậu bé năm tuổi đó. Cậu chững chạc bước ra chào chúng tôi, chỉ cho chúng tôi chỗ xếp tạm đồ đạc, rồi rất thản thiên trở lại tiếp tục cuộc chơi với các em. Chúng chơi trò oẳn tù tì, chắc là suốt từ sáng đến giờ, không chán, chốc chốc lại cười ré lên. Đứa nào mệt thì lăn ra ngủ một lúc, tỉnh dậy lại chơi, đói thì tự tìm đến bếp, đã có sẵn cơm nguội, rau, đôi chút thịt rừng ở đấy. Thỉnh thoảng cậu bé năm tuổi có việc bỏ chạy đi đâu đó một lúc, sẽ thấy ngay cậu em sát nó, chắc chỉ đến ba hay bốn tuổi, liền thay vai trò của anh, điều khiển cuộc chơi và chăm cho các em. Nó trở thành người chủ, đàng hoàng chẳng hề kém anh…
Khoảng năm giờ chiều chúng tôi chuẩn bị nấu ăn. Vừa thấy chúng tôi soạn gạo và các thức ăn mang theo sẵn, cậu bé năm tuổi lập tức đứng dậy, chạy đi lấy cái nồi lớn, mấy cái soong nhỏ, chén bát, khệ nệ mang xuống rửa ở vòi nước đầu làng. Nặng quá, thằng bé bưng khòm cả lưng. Chúng tôi định chạy ra giúp thì nó khua tay bảo: Không, không, cháu làm được! Cứ kệ cháu!… Nó bứt một nhúm lá của một loại cây dại mọc ngay bên vòi nước - hồi chiến tranh chúng tôi gọi đấy là “cây cộng sản”, loài cây dại mọc tràn lan khắp rừng, có sức sống dai dẳng, không gì diệt được, kể cả chất độc hóa học Mỹ - Nồi chảo chén bát được đánh bằng lá “cây cộng sản” sạch bong. Không cần chút miếng mút nào như lũ người văn minh dại dột chúng ta, anh bạn tôi cười.
Rồi cậu bé năm tuổi ấy, cùng với đứa em sát nó, bốn tuổi, dẫn chúng tôi đi hái rau rừng. Đứa thứ ba, chắc chỉ hai tuổi lại thay hai anh ở nhà chăm đứa út.
Đêm nay chúng tôi sẽ có một nồi canh tập tàng, đã lâu lắm không được thưởng thức. Đặc sản tuyệt diệu của rừng. “Tập tàng”, ta biết rồi, là gồm nhiều loại rau rừng khác nhau trộn lại, là đủ các mùi vị của rừng chưng cất, là toàn bộ cái hay cái ngon cái độc đáo, cái chỉ có, tuyệt đối chỉ có của rừng hỗn hợp và lên men. Rừng cộng lại và nhân lên. Và từ trong máu, trong li ti huyết quản, hẳn truyền lại từ đời này sang đời khác bằng một hệ gen riêng biệt, được rừng dạy cho và học được của rừng từ trong bụng mẹ, mỗi đứa bé Tây Nguyên, năm tuổi, bốn tuổi, ba tuổi, thậm chí hai hay chỉ một tuổi thôi đều thuộc nằm lòng. Hôm nay hai cậu bé bốn tuổi và ba tuổi con trai của Bok Tơ, người còn trụ lại giữa rừng xanh, muốn đem chiêu đãi chúng tôi. Không chờ đến tối nay, trong bữa ăn; ngay cả bây giờ nữa, trong khi dẫn chúng tôi lang thang len lỏi trong rừng già mà cha mẹ chúng còn cố níu lấy, chỉ cho chúng tôi từng loại lá ăn được, cái vị ngon riêng biệt của từng thứ, từng món, cái nghệ thuật tạo nên bởi việc trộn lẫn tài tình loại lá này với loại lá nọ chứ không phải một loại lá nào khác, cả cái nào trước cái nào sau nữa, một thứ tự tài hoa mà rừng vô tận hiền minh đã dạy cho con người… Ở trong rừng, hai đứa bé là những người thầy từng trải, dày dạn, thông minh. Hai nhà bác học của rừng. Cứ như chúng với rừng, với cây, với lá ấy là một, từ những bao giờ, bao giờ, không có khởi đầu, cũng sẽ chẳng có kết thúc. Chúng là con đẻ của rừng. Rừng tự nhiên. Vĩ đại. Đa tạp. Còn chúng tôi thì quả đúng là một lũ học trò vụng dại, ngớ ngẩn. Chúng tôi đang trở thành những đứa con hoang của một thứ mà chúng ta cũng gọi vống lên là rừng: rừng cao su. Cao su thì độc canh. Dưới tán cao su không còn bất cứ cây gì sống được. Tuyệt không có, không còn rau tạp tàng! Cao lương mỹ vị mấy cũng có thể có, nhưng một nồi canh rau tập tàng thì nhất định không. Không chỉ một văn hóa ẩm thực khác đâu; một văn hóa sống khác, độc canh, đơn nhất, khô cằn…
Khi nồi canh tập tàng vừa sôi trên bếp thì bỗng xuất hiện một người với chiếc gùi lớn đứng choáng cả khung cửa: vị chủ nhà, Bok Tơ. Trời đã tối, nhưng ánh lửa trong bếp lúc này đã bùng to cũng đủ soi rõ một khuôn mặt tuyệt vời, không, không phải một khuôn mặt, một cái cười có thể lập tức cho ta hiểu được tất cả về con người đang đứng đó. Cái cười làm bừng sáng cả khuôn mặt, thôi bây giờ thì tôi biết rõ rồi, của một người Bana điển hình, người Bana, dân tộc nghệ sĩ nhất ở Tây Nguyên. Hình như tôi đã có lần nói về điều này: người Ba Na có một triết lý sống đặc biệt: làm đủ ăn thôi là được rồi, giàu có dư thừa mà làm gì, còn thì để thời giờ mà chơi, mà tận hưởng cuộc đời! Và chơi gì, ở đâu? Chơi trong rừng, lang thang trong rừng, đi tìm con cheo, con chồn, con dúi, con chuột, con cá, cây nứa và quả bầu khéo làm đàn gong, đoạn trúc đẹp làm cây sáo hay, khúc giang mướt nướng cơm lam ngon… Bất chấp hết mọi thứ khác trên đời, bất chấp hiện đại, bất chấp công nghiệp, bất chấp cao su, bất chấp tất cả… Bây giờ thì người đàn ông bất chấp ấy đã từ rẫy về, đứng đó đầy ngưỡng cửa trong buổi chiều đang xuống sẫm và toét miệng cười chào chúng tôi. - Chào cả nhà, anh nói lơ lớ tiếng Kinh, mấy đứa nhỏ đã đi hái đủ rau tập tàng chưa, các con? Rau tập tàng rừng Kon Braih Yu ngon nhất đời. Hái rau đãi khách chớ… - Đủ rau rồi, Bok Tơ ơi, ngồi xuống đây đã… Nhưng anh đã đặt gùi xuống và cầm mấy cái lờ vội quay ngay ra cửa: Để mình ra suối tìm có con cá nào không… Và rượu cần cho đem nay nữa chớ!…
Vài phút sau thì bà chủ nhà cũng về. Đường xa, mệt và ướt, chị đổ người xuống bên bếp lửa. Và bốn đứa trẻ, kể cả thằng lớn nhất, suốt ngày chững chạc chăm lo cho các em, bây giờ bỗng đua nhau ùa vào lòng mẹ, chen nhau để được mẹ ôm một cái, vuốt nhẹ một một bàn tay lên mái đầu…
Bên ngoài đã hơi trở gió và đêm rừng đã se se rét. Ánh lửa chập chờn soi một gia đình hạnh phúc. Và chúng tôi, đến từ thế giới chen lấn điên cuồng của hiện đại hóa, chúng tôi được những người chủ của rừng hào phóng chia sẻ một đêm hạnh phúc mà họ dư thừa…
Cơm và canh rau núi tập tàng đã được dọn ra. Bây giờ thì chúng ta có thể hiểu vì sao Georges Condominas lại đặt tên cuốn sách của mình là “Chúng tôi ăn rừng”. Quả thật, đi rừng, không được ăn một nồi canh rau tập tàng của rừng thì cũng coi như chưa đi. Đêm nay Bok Tơ còn đãi chúng tôi một món đặc sản cũng tuyệt không kém: cơm lam chấm với lá é giã ớt, cay xé lưỡi mà nuốt rồi, thêm một húp canh rau tập tàng thì thấm mãi ở cuống họng một vị ngọt đắng cay khó tả và không thể quên. Thực đơn kỳ diệu của rừng…
Rồi rượu cần được buộc vào cây cột giữa nhà. Và đêm la đà bất tận của Tây Nguyên bắt đầu. Bok Klơh ở nhà bên cạnh cùng sang. Bok Klơh là chuyên gia đàn gong, và cũng là người chưa chịu bỏ làng cũ trong rừng sâu ra với dự án cao su ở làng định cư mới của Bok Deh. Tôi đã được gặp ông một lần nhưng chưa bao giờ được nghe tiếng đàn của ông. Đêm nay cũng vậy, ông mang cây đàn sang nhưng khó tính đến gàn dở như một nhạc công trưởng của triều đình, ông chỉ ngồi trịnh trọng, chăm chú chỉnh đi chỉnh lại dây đàn, mất đến gần nửa tiếng, mặc cho chúng tôi sốt ruột. Rồi ông trao đàn lại cho Bok Tơ. – Đúng với tiếng rừng rồi đó, ông bảo.
Bạn đã nghe người Bana hát trong rừng sâu đêm khuya bao giờ chưa? Đêm nay chúng tôi được hưởng cái hạnh phúc ấy. Rừng già. Đêm thăm thẳm. Một căn nhà nhỏ lạc giữa mênh mông chừng vô tận và vĩnh cửu của rừng, hoàn toàn tách ra khỏi toàn bộ thế giới và nhân quần, mặc kệ hết cái thế giới và nhân quần hỗn tạp ấy. Một bếp lửa chập chờn, lúc soi tỏ từng khuôn mặt người, lúc phủ nhòa đi tất cả, khiến tất cả bổng trở nên huyền ảo, huyền hoặc. Và một người đàn ông ngồi đó, đẹp lạ lùng, một vị tiên giản dị và nghèo hèn, một nghệ sĩ chỉ có rừng biết, cây cỏ của rừng và muôn thú trong rừng biết và quen thân, với cây đàn gong hờ hững trên tay, ông cất tiếng hát. Tiếng hát sao chẳng duyên cớ gì mà bỗng thống thiết đến thế, ông vuốt từng chữ, từng âm, từng tiếng, từng lời, mỗi tiếng, mỗi lời dường như từ gan ruột mà trào ra. Buông thả mà nắn nót. Dân dã mà sang trọng. Trong veo mà nặng trĩu tâm tình sâu kín dường không thể thổ lộ. Trao gửi và giữ gìn. Là tiếng hát của người, mà cũng là tiếng hát của rừng. Ở đây con người với rừng đã tuyệt đối là một. Lời hát vừa như có nghĩa vừa như chẳng có nghĩa gì cả, chẳng có duyên cớ gì hết, thống thiết buồn, vô cớ, cũng vô cớ và vô cùng như rừng vậy…
Dang ei thoi gio oh oi
Nhong au hel jt
Jing thoi de royup
Papuk to so ngon
Gon oh bi vao …
Em ơi, sao giờ đây anh buồn quá
Giọng anh như người mất trí mất rồi
Muốn đi đến chỗ em nhưng lòng lại buồn
Biết cái tai em có còn muốn nghe…
Mới gặp mà anh nhớ luôn luôn
Làm sao để cho quên được em
Hỡi em
Sao bỗng thương tiếc như tiếc hoa héo tàn
Hoa đẹp Ro sang
….
Em đẹp quá em ơi
Đẹp tựa con trời
Hỏi nhìn em anh làm sao còn chịu nổi
Ơi em…
Vậy đó, tình yêu, hạnh phúc, đau khổ, ước mong, thất vọng, hy vọng, vô vọng, có nghĩa và không có nghĩa, như cuộc đời con người, như rừng…
Có lẽ đã đến ba hay bốn giờ sáng. Người Tây Nguyên thường nói: Uống cho đến nhạt một ché rượu cần. Cho đến cạn chất say ở đáy ché. Bok Tơ dành cho tôi cần rượu cuối, cần rượu ở đáy ché ấy. Chia đôi.
Rồi chúng tôi lăn ra ngủ.
Cho đến khi bừng thức thì bên ngoài rừng đã ửng sáng. Bên bếp lửa đã thấy người mẹ cùng bốn đứa con chen trong lòng.
Bok Tơ bảo: Hôm nay tôi cùng đi với các anh ra chỗ Bok Deh. - Để làm gì thế? chúng tôi hỏi. Bơk Tơ đeo gùi lên vai: Mình đi sớm đi, bữa nay nắng, leo dốc mệt đấy. Mình ra gặp Bok Deh để nghe phổ biến việc dời luôn hết ra làng mới. Dự án cao su đã bắt đầu rồi. Dồn hết về làng mới để làm cao su mà…
Bỏ rừng già sao? Tôi buột miệng.
Rừng già và rau tập tàng, Bok Tơ bảo.
Đi hết cả mấy nhà này à?
Chắc mình phải đi trước. Còn bok Klơh chưa chịu. Bok ấy bảo chết ở đây thôi. Chết với rau tập tàng mà. Khi cao su vào đến đây nữa thì còn gì rau tập tàng. Lần sau anh lên biết có còn không… Mà không còn thì anh lên làm gì nữa. Chỉ có cao su thôi. Hết tập tàng…
Lần này nữa, người đàn ông ấy vẫn cười. Vẫn cái cười ấy, hiền, sâu, và thăm thẳm buồn. Hiền, sâu, thăm thẳm đến thế, mà vẫn bất lực.
Như rừng.
12/2010
Nguyên Ngọc