Saturday, December 5, 2020

MỘT CUỘC HÀNH QUÂN ĐIỂN HÌNH CỦA QUÂN MỸ TẠI VIỆT NAM.

Chương 8 - Hành quân Apache Snow tháng 5/1969 tại thung lũng A Shau, phía tây tỉnh Thừa Thiên


- Dù các lãnh đạo của nước Mỹ bỏ rơi VNCH, nhưng chúng ta ko quên ơn những chiến sĩ Mỹ đã hy sinh cho đất nước này. 


LỜI NÓI ĐẦU: Sau khi TĐ 3/187 của  trung tá Honeycutt chiếm được núi Động Ngải, họ đã xây dựng căn cứ hỏa lực (CCHL) Airborne và ngày 8/5 cả TĐ được trực thăng vận về căn cứ Evans ở bắc Huế. Đại đội Alpha của TĐ 2/501, cũng thuộc sđ đã thay họ canh giữ CCHL này và chỉ sau đó bốn ngày, căn cứ đã bị đặc công csbv tấn công, đã kể trong bài trước. Riêng TĐ của trung tá Honeycutt, ngày 10/5, nghĩa là hai ngày trước khi CCHL này bị tấn công, đã cùng bốn TĐ khác, trong đó của hai TĐ của VNCH, tham dự cuộc HQ Apache Snow, được mô tả trong phần chuyển ngữ dưới đây từ quyển Hamburger Hill.

===

"Lúc 0710 công tác bắn dọn bãi của pháo binh đã chấm dứt (có năm bãi đáp cho năm TĐ). Vài phút sau, một cặp Cobra đã xuất hiện trên mỗi bãi đáp hay LZ (landing zone) và bắt đầu bắn dọn bãi lần cuối. Trong khi chiếc thứ nhứt hover hay bay đứng một chỗ bên hông của bãi đáp để làm nhiệm vụ bảo vệ, chiếc thứ hai nhào xuống phóng từng đợt hỏa tiển loại nổ cao hay HE (high explosive) xuống bãi đáp và khu rừng chung quanh, và sau đó liên tục tưới đạn minigun 7.62 ly xuống khu vực. (Nói thêm: quân đội Việt-Mỹ đã từng dùng súng trường Garand M-1 bắn đạn 7.62 ly và đại liên 50 bắn đạn 12,7 ly. Sở dĩ có số lẻ như vậy vì đường kính lần lượt của đạn 7.62 ly và 12,7 ly bằng 30/100 và 50/100 của một inch trong khi một inch bằng 25,4 ly -- người dịch). Khi chiếc thứ nhứt bắn hết đạn, chiếc thứ hai nhào xuống làm tiếp công việc.

Khi đó, các đoàn trực thăng chỡ quân chỉ còn cách bãi đáp vài giây. Khi mỗi đoàn này tới gần bãi đáp, chiếc Cobra dẫn đầu của đoàn nhẹ nhàng tách rời đoàn và liên tục tưới đạn minigun 7.62 ly, kế đó lại bắn tiếp đạn phóng lựu 40 ly và cuối cùng là một hay hai đợt rocket chống biển người (flechette rocket). Mỗi rocket chống biển người loại Hydra 70 chứa 1179 mũi tên nhỏ, mỗi mủi tên nặng 3.9 gram. Cùng lúc đó, bốn chiếc Cobra đang bảo vệ cạnh sườn của đoàn máy bay này bay tới bên hông bãi đáp tưới thêm đạn minigun xuống bãi, sau đó là hỏa tiển chống biển người và đạn phóng lựu 40 ly. 

Việc bắn dọn bãi này KÉO DÀI LIÊN TỤC TRONG 74 PHÚT. Đúng 0710, mọi Cobra ngừng bắn và rời bãi và hover (bay đứng một chỗ) bên cạnh bãi đáp, sẵn sàng nổ súng khi cần. 

Trong đội hình chữ V, các máy bay chỡ quân loại UH-1 nảy giờ đang hover gần đó để chờ Cobra dọn bãi, nay bắt đầu vào. Tất cả năm bãi đáp đều quá nhỏ cho 16 chiếc trong mỗi đoàn xuống một lần nên máy bay chỉ xuống mỗi lần 1 hay 2 chiếc. Vì bãi đáp đầy hố bom hay hố đại bác và cây cối đổ vỡ nên máy bay bay đứng một chỗ cách mặt đất 1.5 m tới 3 m để xạ thủ bắn đạn 7.62 ly lần chót. Sau đó, các binh sĩ, với ba lô nặng gần 30 kí, nhảy xuống đất và nhanh chóng bung rộng để lập chu vi phòng thủ. Khi có người xuống thêm, chu vi phòng thủ càng mở rộng. 

Thật là lạ, hầu như việc đổ quân ko gặp trở ngại. Chỉ có TĐ 4/1 của VNCH đã bị bắn sẻ khi an ninh bãi đáp ở đỉnh Núi Trần Lây, và một đ.đ. của TĐ 2/1 VNCH mất một Chinook khi họ bắt đầu xây CCHL Tiger ở núi Ka Lou. Nhưng 3 TĐ Mỹ đổ quân thì ko gặp địch, và đến 9 g sáng họ đã bảo vệ an toàn bãi đáp và đang chuẩn bị tiến tới mục tiêu hay đã tiến tới mục tiêu. Nhiệm vụ cơ bản của 5 TĐ này đều giống nhau, đều hành quân lục soát kỹ lưỡng về hướng tây tới biên giới Lào-Việt và về hướng đông tới thung lũng A Shau. 

Tuy nhiên có 3 TĐ có nhiệm vụ hơi khác. Ở xa về phía bắc, TĐ 2/1 của VNCH phải cắt tỉnh lộ 548, có từ đời Pháp, và ngăn chận mọi địch quân rút lui từ thung lũng, và ở phía nam, TĐ 1/506 của sđ 101 Dù phải ngăn chận xa lộ 923 đi từ biên giới Lào tại giao điểm với tỉnh lộ 548. Ở giữa, tđ 3/187 của trung tá Honeycutt có nhiệm vụ lục soát Động Ấp Bia, mà phòng tình báo của lữ đoàn và sđ 101 nghĩ rằng đã được dùng làm trạm trung chuyển (way station) hàng hóa giữa căn cứ 611 gần đó và mạng lưới dầy đặc các đường mòn ở thung lũng.  

Trung tá Honeycutt rất ngạc nhiên về đợt đổ quân vô sự này vì chỉ 2 tuần trước, trong đợt đổ quân đầu tiên đã rớt 3 máy bay và một số khác hư hại. Ông đã nghĩ rằng sẽ gặp hỏa lực địch hôm nay và rất ngạc nhiên khi cuộc đổ quân quá dễ dàng. 

Thật đúng như vậy. Lúc 0801, đ.đ. Delta của đại úy Luther Sanders, xuống đầu tiên, kế đó là đ.đ. Alpha và Charlie. Trong khi Charlie đang an ninh chu vi bãi đáp thì Delta và Alpha đã bắt đầu hành quân lục soát hai hướng dối diện dọc theo sống núi lớn (large ridge) mà trên đó có bãi đáp: Alpha đi phía tây bắc về biên giới, và Delta đi hướng đông nam về đỉnh của Động Ấp Bia. Honeycutt và bộ tham mưu xuống bãi đáp lúc 0930, ông ra lịnh cho đ.đ. Charlie của đại úy Dean Johnson ko làm an ninh bãi đáp nữa mà bắt đầu hành quân lục soát dọc theo một đường thông thủy (draw) lớn chạy theo hướng tây bắc, hướng về biên giới. Rồi với bộ tham mưu và trung đội cối 81 ly, trung tá Honeycutt đi lên sống núi, hướng về tây bắc, theo sau Delta. 

...

Honeycutt đã bắt tay với đ.đ. Delta của đ.u. Sanders lúc 12 g ở khoảng 1000 m cách đỉnh của Động Ấp Bia. Ở đấy mọi người chuẩn bị một bãi đáp và bch TĐ. Ngày kế trung tá đã dự định lập một bch thường trực hơn trên đỉnh của Động Ấp Bia, nhưng giờ đây ông cần một bch đủ gần để chỉ huy hai đ.đ. Alpha và Charlie đang phối hợp lục soát hướng về biên giới Lào-Việt.

Trên sống núi chật hẹp này, quân sĩ của Honeycutt đã nhanh chóng chuẩn bị một vị trí có hình thuông (oblong). Ở đầu tây bắc của vị trí này, lính công binh với cưa máy đã chặt cả chục cây cao trên 30 mét và những cây thấp hơn và một bãi đáp chỉ đủ một chiếc trực thăng đáp xuống. Ở giữa của vị trí này, các lính công binh đã tạo một lổ hổng trong rừng cây để khẫu cối 81 ly có thể bắn, kế đó ở đầu đông nam của vị trí họ đã dùng dao rựa để cắt bỏ một bụi tre dầy (thick stand of bamboo) để làm chỗ cho bch TĐ. Trong khi những lính công binh làm việc dưới nhiệt độ 100 độ F hay 37.7 độ C, chín mươi tư người lính của đ.đ. Delta đã bao quanh vị trí này với những hố chiến đấu, mìn chiếu sáng và mìn claymore, và đã bắt đầu mở những lục soát nhỏ ở những hẽm núi (ravine) và đường thông thủy (draw) chung quanh để bảo đảm rằng ko có địch quân. 

Những biến cố đã xảy ra nhanh chóng khắp vùng bắc A Shau. Dù cả hai đ.đ. Alpha và Charlie chỉ di chuyển vài trăm mét từ bãi đáp đầu tiên, họ đã khám phá những lều và công sự phòng thủ của địch dọc theo đường tiến quân của họ. Một số lều này lớn - đủ chứa cả một trung đội, với những khu vườn chăm sóc cẩn thận ở phía sau và các công sự sâu và rộng. Đại đội Charlie còn thấy lửa cháy dở dang (smoldering) trong một lều chứng tỏ địch quân đã rời khu vực vài phút trước khi đ.đ. tới. 

Trong khi đó, các phi công của các máy bay quan sát OH-6 Loach, trong khi bay sát ngọn cây để họ có thể nhìn qua những lổ trống trong rừng cây dầy đặc, cũng đã trông thấy nhiều lều và công sự phòng thủ khắp nơi chung quanh Động Ấp Bia. (NÓI THÊM: dù là trực thăng quan sát nhưng chiếc OH-6 có thể trang bị một minigun M134 sáu-nòng bắn đạn 7.62 ly hay một phóng lựu M129 bắn lựu đạn 40 ly. Trong số 1.422 chiếc OH-6 dùng trong chiến tranh VN, đã có 964 chiếc rơi vì hỏa lực địch-- người dịch).  

                 

 MỘT TOÁN SĂN VÀ DIỆT GỒM HAI CHIẾC OH-6 LOACH VÀ HAI CHIẾC AH-1 COBRA 

MINIGUN SÁU NÒNG BẮN ĐẠN 7.62 LY
Vào khoảng1400, một trong những chiếc quan sát nhẹ OH-6, trong một Tổ Săn-Diệt (Hunter-Killer Team) với hai chiếc Cobra, đã phát hiện địch. Trong khi bay đứng một chỗ (hover) trên một khu rừng, ở hai ngàn mét phía tây của Động Ấp Bia, phi công của chiếc OH-6 này, trong khi dùng cánh quạt thổi mạnh để tạo một lổ hổng trong rừng cây, đã thấy 5 hay 6 cán binh csbv chạy khỏi một lều và phóng nhanh xuống một đường mòn gần đó. Phi công đã gọi Cobra, đang bay vòng vòng trong khu vực, và họ đã bắt đầu bắn minigun xuống đường mòn này. Một trong hai Cobra đã hạ hai địch quân, nhưng những tên khác đã trốn thoát vào rừng sâu. 

 Vài phút sau, một quan sát cơ (FAC plane) khác, trong khi bay lòng vòng trên một khu ở đông của Động Ấp Bia, bị bắn bằng phòng không 12.7 ly. Sau khi suýt bị bắn rơi, phi công này đã gọi cầu cứu. Hai oanh tạc cơ đã đến, và sau khi vị trí được đánh dấu bởi chiếc quan sát cơ này, đã ném bốn quả 500 cân Anh. Một quả bom đã rơi đúng vị trí, và phi công quan sát thấy các phần của súng phòng không đã văng cao hơn 9 mét lên trời. 

Khi ông nghe hai sự kiện này và so sánh với những dấu hiệu ngày càng gia tăng của địch mà Alpha và Bravo đã khám phá, trung tá Honeycutt đã ko có chọn lựa nào ngoài kết luận rằng TĐ của ông đã nằm (set down) ngay trung tâm của một loại căn cứ nào đó của địch. Ông chỉ có thể phỏng đoán căn cứ lớn cỡ nào hay bao nhiêu lính địch đóng quân tại đó, nhưng ông đã biết rằng địch có thể tấn công họ bất cứ lúc nào chúng muốn. 

Và đó là điều ông lo nhứt. Nếu quân CSBV đã quyết định chiến đấu tại khu vực này, ông sẽ phải cần thêm viện quân, và họ sẽ phải đổ quân vào những bãi đáp nóng. Và ông nghĩ rằng tốt hơn hết là đổ thêm viện quân vào lúc này trong lúc bãi đáp chưa nóng hơn là lúc diển ra trận chiến. 

Từ lâu đại đội Bravo bị giữ làm trừ bị của lữ đoàn 3 tại CCHL Blaze, nên trung tá Honeycutt đã gọi ĐT Joseph Conny, TL lữ đoàn 3, xin trả lại đ.đ. cho TĐ. Không do dự, Conny đã đồng ý đã nhả đ.đ. Bravo, và lúc 1400 toàn đ.đ. này được trực thăng vận vào A Shau. 

Đ.đ. Bravo đã ko gặp may mắn như các đ.đ. khác của TĐ. Mười lăm của 16 chiếc chỡ đ.đ. này đáp xuống bãi đáp ko gặp khó khăn, nhưng chiếc cuối, chỡ trung úy Charles Denholm và BCH đ.đ., bị trúng đạn, khiến phi công đáp khẩn cấp xuống thung lũng. Một trực thăng khác đến vài phút sau đó để bốc họ, nhưng cũng gặp rắc rối. Khi chiếc này bốc lên cao, hướng về phía tây tới Động Ấp Bia, nó bị bắn bởi một số súng phòng không, đặt từ cửa của các hang động ở phía tây của A Shau. Hai hay ba đạn loại proximity của địch đã nổ gần đuôi của chiếc này khiến nó đã xoáy tròn (reel) trong vài giây trước khi phi công làm chủ được máy bay. //Nói thêm: ngòi nổ proximity của đạn này sẽ tự động nổ khi khoảng cách tới mục tiêu nhỏ hơn trị số định trước, nghĩa là ko cần chạm mục tiêu.  Ngòi nổ đã gia tăng sức tàn phá từ 5 đến 10 lần so với những ngòi nổ khác trong đó có ngòi nổ chạm nổ (contact fuze) hay ngòi nổ canh giờ (timed fuze)--người dịch.//

Khi trung úy Denholm và bch của đ.đ. cuối cùng đã xuống đất và gặp lại phần còn lại của đ.đ. Bravo và bắt đầu đi bộ 800 mét tới bch của TĐ. Một giờ sau, họ gặp Honeycutt: ông này lấy viết chì mỡ và bản đồ bọc plastic và vẽ con đường mà ông muốn Bravo đi từ bch TĐ hiện tại tới đỉnh của Động Ấp Bia. 

"Tôi chưa chắc anh làm được việc này tối nay," Honeycutt, "nhưng vào lúc nào đó trong buổi sáng tôi muốn chuyển bch lên đó."

"Không có chi."

"Cẩn thận."

"Đừng lo, thưa trung tá."

Đại úy Littnan đã ko lo ngại (unconcerned) về nhiệm vụ an ninh núi nầy. Vị sĩ quan 29 tuổi này đã ở VN một năm với trung đội cối 81 ly và nắm đ.đ. này được ba tháng, và suốt thời gian này ông đã thực hiện hàng chục nhiệm vụ như vậy mà ko trở ngại. Dù y biết rằng mọi người ở A Shau đều phải cẩn thận, y chưa cảm thấy điềm báo trước về một nguy hiểm nào đó. Đối với Littnan, y và lính của y đã bắt đầu cái mà lính bộ binh gọi là "chỉ là chuyến đi bộ dưới ánh mặt trời."

Cảm giác của Littnan đã được chia sẻ bởi phần lớn người trong đ.đ. Khi tin về nhiệm vụ này truyền xuống đ.đ., mọi người đã bắt đầu nói đùa và chúc mừng lẫn nhau về sự may mắn đột ngột này. 

Phần lớn trước đó đã nghĩ rằng trong một hay hai tuần tới với ba-lô nặng 60 lb hay 27 kg, họ sẽ leo lên leo xuống các dốc núi của vùng bắc A Shau, dễ bị phục kích và chết bất ngờ ở từng khúc quanh của đường mòn, nhưng sắp tới đây họ lại có nhiệm vụ bảo vệ bch TĐ. Đây là nhiệm vụ mà họ đã gọi một cách mĩa mai là "canh gác dinh tổng thống" (palace guard). 

"Sau chiến đấu ác liệt tại Động Ngải," trung úy Frank Boccia, chỉ huy trung đội 1, sau này đã nói, "công việc an ninh ngọn núi cho bch TĐ giống như đi phép hai tuần mỗi năm. Như mọi người khác, tôi đã thực sự nhìn thấy một tuần lễ êm đẹp ở đó."

Bất kể (regardless) sự lạc quan của họ, những người này vẫn có một ngàn mét để vượt qua trước khi tới đỉnh của núi này, là một ngàn mét mà họ phải leo trên một đường mòn hẹp, dốc và đầy nghẹt cây cối, tre, và dây leo gẫy đổ - hậu quả của những vụ bắn phá trước đây của máy bay và trực thăng.

Họ bắt đầu lúc 1620, trung đội 2 của  trung úy Marshall Edward, đi đầu, kế đó là trung đội 1, và bch đ.đ., và cuối cùng là trung đội 4. Edward cho tiểu đội 2 đi đầu và chuyên viên bậc 4 Ron Storm làm khinh binh 1 và chuyên viên bậc 4 James Rocker làm khinh binh 2. Storm đã bắt đầu đi chậm chạp và cẩn thận trên đường mòn, cân nhắc (deliberate) trong mỗi bước đi, y quan sát cẩn thận hai bên đường mòn, sẵn sàng đáp ứng mọi chuyển động nhỏ nhứt. Y để khẫu M16 ở vị thế tự động, hướng súng về trước, sẵn sàng bắn hết băng đạn 20 viên trong một giây. Rocker theo sau, cách y 10 mét, im lặng như một con mèo, bước chầm chậm trên những tảng đá và những khúc cây, di chuyển nhẹ nhàng dưới những giây leo và những cành thấp. 

Đường mòn lúc này giống như một đường hầm với những lá cọ (palm frond) mọc de ra đường như những bàn tay lớn. Dây leo bám đầy các cây. Vì tàn lá dầy nên ánh sáng yếu (wan) và xám, không khí ẩm lạnh (dank) và có mùi khó chịu. 

Storm tiến được 100 mét, và thêm 200 mét. Chẳng bao lâu họ ra khỏi cao địa nơi đặt bch TĐ và gặp một yên ngựa nhỏ và thấp, kế đó một vùng đất bằng phẳng. Ba trăm mét sau đó, Storm tới rìa một yên ngựa thứ hai. Tuy nhiên, cái này sâu hơn cái đầu tiên. Có Rocker bảo vệ y, y xuống được 20 m, rồi ra dấu cho Rocker để phần còn lại của đ.đ. tiến lên.

Storm di chuyển qua khỏi đáy của yên ngựa, và bắt đầu đi lên. Phần lớn của tiểu đội 2 đã qua khỏi yên ngựa và đi lên núi khi một B-40 phụt ra (whoosh) từ một điểm trên đường mòn ở phía trước họ và đã nổ đinh tai nhức óc khi đụng một cây ở bên trái Storm. Sức nổ đã đẩy y khỏi đường mòn, và nằm sóng sượt (sprawl) trên dốc núi bên phải. Y bị choáng (pass out) trong vài giây, rồi kế đó là âm thanh quen thuộc của hỏa lực AK-47. Storm nhìn lên sống núi để xem sự hỗn loạn trên đường mòn. Ba người bị bắn gục, và một người đang liên tiếp la hét, "Tôi bị thương!". Một số người đang bò về phía trước để cứu người bị thương trong khi những người khác bắn vào hàng cây hai bên đường.

Cùng lúc đó, một xạ thủ địch đã thấy Storm và nổ súng. Storm ngả ngửa xuống đất để tránh đạn, và một giây sau một quả B40 đã trúng cây trên đầu y, làm vỏ và lá cây rớt đầy trên đầu y. Y quét mắt phía trên sống núi trong một giây để cố gắng tìm kiếm vị trí của khẩu B40 và thay vào đó thấy 3 hay 4 xạ thủ địch điều khiển một vị trí ở bên trái của sống núi khoảng 25 mét. Y gọi những người còn đứng bên dưới tiến lên, và khinh binh số 2 James Rocker và các binh nhứt Anthony Tolle, Alan Bork, và James Prefundo chạy nhanh đến. Kế đó Storm dẫn toán này tiến thêm khoảng 30 mét, cho tới khi ở phía đối diện và phía sau của vị trí địch.

Storm nhìn nhanh và đã nghĩ rằng y đã thấy 4 hay 5 lính địch ở phía kia. Họ ở sau một cây lớn và được che dấu một phần bởi những nhánh và lá cọ thấp. Lúc đầu, y nghĩ rằng có thể bắn họ, nhưng họ bảo vệ quá kỹ nên điều đó rất khó. Thay vào đó, y đề nghị toán của y nên dùng lựu đạn, và họ đồng ý. Từ một dấu hiệu của Storm, năm người này đã rút chốt lựu đạn và ném một lượt, và tìm chỗ nấp khi phía trái của đường mòn đã rung chuyển bởi một tiếng nổ lớn. 

Tụi nó bị rồi, Storm nghĩ như vậy khi y nhìn lên lổ lớn tạo ra ở phía trên vị trí của địch. Để chắc ăn, tất cả lại ném lựu đạn vào vị trí đó lần nữa, và phía trái của đường mòn đã rung lên lần nữa.

Chẳng bao lâu cả toán bị tấn công mạnh bởi một vị trí ở xa hơn trên đường mòn. Khi một quả B40 nổ trên đầu họ, Storm ra lịnh cho toán trở lại tiểu đội và thấy y tá đang săn sóc ba người bị thương ở bên lề đường trong khi phần còn lại của tiểu đội bắn dữ dội (wildly) về vị trí địch ở phía trước.

"Họ đang kêu máy bay," Storm nghe ai đó la lên. "Chúng ta phải ra khỏi đây."

Storm và phần còn lại của tiểu đội theo đ.đ. vượt qua yên ngựa để về phía sau. Ở đây, trung đội 2 của trung úy Marshall Edward nhanh chóng tạo một chu vi phòng thủ hai bên đường mòn. 

Lời yêu cầu oanh kích đã được đồng ý bởi Honeycutt. Khoảng 5 phút sau, một quan sát cơ xuất hiện, kế đó là hai A-1 Skyraider. Thay vì đánh dấu vị trí của mình bằng lựu đạn khói, đại úy Littnan chỉ dẫn phi công của quan sát cơ cho Skyraider đánh theo sống núi và bắt đầu từ bờ nam của yên ngựa , và đánh từ từ lên cao. 

Một trong hai chiếc Skyraider, theo ý của Littnan, bay nhưng ko ném bom, và khi đc đồng ý, chiếc thứ hai, bay sát ngọn cây và bay theo sống núi, vừa nhả đạn đại bác 20 ly. Chiếc đầu tiên, chỉ vài giây sau chiếc thứ hai, đã tiếp tục bắn đại bác, và chiếc thứ hai trở lại với hai quả 500 cân Anh loại nổ phá và sát thương (high drag bom). 

Máy bay ném bom và bắn phá khoảng 15 phút. Chúng rời mục tiêu lúc 1900, đã biến phần trên của yên ngựa đổ nát và bốc khói. Bom đã đánh gục một số cây cao 30 mét, tạo những lổ to (gaping hole) trên tán lá dầy đặc, và đốn ngả những bụi tre dầy ở 20 mét của hai bên đường mòn. 

Honeycutt đã muốn gửi một toán đi lên đường mòn để kiểm tra thiệt hại, nhưng đã bỏ ý định này vì trời sắp tới. Thay vào đó, ông ra lịnh cho đại úy Littnan lập một vị trí phòng thủ đêm hay NDP ở bờ bắc của yên ngựa này và tiếp tục hành quân lục soát hướng về Động Ấp Bia. 

Sau khi đào hố chiến đấu và đặt các tiền đồn, 107 người của đ.đ. Bravo đã trải một đêm ko an bình. Trong suy nghĩ, phần lớn họ đã cố gắng quân bình niềm lạc quan mà họ đã có trước khi bắt đầu đi vào đường mòn với cú sốc của trận đánh tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này. Đây là một sự việc riêng biệt hay một linh cảm (presage) về một điều rất xấu sắp xảy ra? Đây là một câu hỏi mà nhiều người đã tự hỏi đêm nay./.

Chuyển ngữ từ trang 63-73 của quyển Hamburger Hill của Samuel Zaffira.

San Jose ngày 9 Dec 2020

Tài Trần




MỘT VÍ DỤ VỀ MỘT ĐƯỜNG THÔNG THỦY TRÊN MỘT BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH. NẾU BẠN ĐỨNG TRÊN MỘT ĐƯỜNG THÔNG THỦY, MẶT ĐẤT SẼ LÊN CAO Ở BA HƯỚNG VÀ ĐI XUỐNG Ở MỘT HƯỚNG. 




 Đại tá Honeycutt đã ko để ý gì lắm về cuộc chạm súng nhỏ này. Dù ông ko có cách nào để biết chắc chắn, ông đã giả định rằng quân CSBV mà đ.đ. Bravo đã đụng là một đv trinh sát (trail watcher). Honeycutt đã phỏng chừng (figure) rằng lính csbv, khi thấy trực thăng, đã quyết định chạy xuống núi và dọ thám bãi đáp. Tuy nhiên, họ đã đụng đầu với trung đội dẫn đầu của đ.đ. Bravo. Đó chỉ là một lý thuyết, nhưng ông ko có lý do nào để giả định điều khác. Dù gì đi nữa, ông vẫn muốn BCH của ông có mặt trên Động Ấp Bia vào giờ đầu của buổi chiều và gọi máy ra lịnh cho đại úy Littnan tiếp tục tiến lên núi. 

Đại đội của đại úy Littnan đã tiến một giờ rưởi sau bình minh, với trung đội 1 của trung úy Boccia đi đầu, kế đó là trung đội 4, và BCH đ.đ., và cuối cùng là trung đội 2. Binh nhì Terry Gann là người đi đầu của trung đội 1, và Boccia đi thứ ba. //Nói thêm: Theo kỹ thuật viễn thám Mỹ, mỗi toán dò đường (pathfinder) thường là sáu người, người đi đầu là point man (tạm gọi khinh binh 1), người kế là slack man (tạm gọi khinh binh 2), kế đó là trưởng toán, người mang máy đi kế, người đi cuối cùng là toán phó, có nhiệm vụ xóa mọi dấu vết (thường có cấp bậc chỉ thua toán trưởng). Dù ko phải là viễn thám nhưng trung đội của Boccia khi đc lịnh dẫn đầu đại đội cũng sắp xếp như vậy--người dịch)//. Lúc 0747, khinh binh Gann đã đi xuống một yên ngựa và đang bắt đầu đi lên bằng cách bò từ từ. Con đường mòn trước mặt đầy các mảnh vở--cây cối đứt gẫy (splintered), tre gẫy, lá cọ (palm frond), và giây leo (tangled vine) - và mùi khó thở của thuốc súng (gagging smell of cordite) vẫn còn vương vấn trong không khí. 

Gann bò từ từ qua các mảnh vở này. Có một số các lổ lớn ở tán lá (canopy), và các tia nắng chiếu qua các lổ này. Gann đã bò khoảng 50 m, nhưng cuối cùng đã ngừng vì một bụi tre lớn, vì trúng bom đã nằm vắt ngang con đường. Y đẩy một số mảnh vụn sang một bên và đã thấy rằng cây tre khi ngả đã lộ ra một đường hầm xuống giữa tâm của đường mòn. Y nhìn cửa hầm và nhìn lại Boccia: "Ông muốn tôi làm gì?"

Boccia tiến lên cạnh khinh binh 2. "Hảy kiểm tra nó."

Gann bò và lát sau gọi vọng về, "Tôi thấy vài xác ở đây."

Boccia kêu sáu binh sĩ tiến về trước và canh giữa hai bên của đường mòn, và bò theo khinh binh Gann.

Có ba xác CSBV nằm cách cửa hầm khoảng 5 mét và gần đó có một xác. Tất cả đều trẻ, mặc đồng phục, ko có quân hàm, với tóc ngắn, kiểu tân binh. Nằm gần họ là hai AK47, một B40 và sáu đạn B40.

Boccia quan sát kỹ lưỡng các xác này.  Y giả định rằng họ ko ở trong rừng lâu vì ko có vết tre cắt. Họ đều bị bắn vào lưng bởi đại bác 20 ly, có lẽ trong khi cố gắng chạy lên núi thì bị máy bay Skyraider tấn công bằng đại bác 20 ly. 

Trong túi áo của một người, có vẻ là một sĩ quan, Boccia thấy một ảnh của người này và vợ y và một túi tài liệu. Trong ba-lô của một kẻ khác, Boccia thấy một túi những thứ chưa gửi. Dĩ nhiên đây là thư gửi về gia đình, và Boccia cảm thấy buồn mang mác khi biết rằng gia đình của người này sẽ ko bao giờ nhận thư. Lúc đầu Boccia có ý nghĩ sẽ giữ các thư này và ngày nào đó sẽ gửi đi, nhưng cuối cùng y cột chung với các tài liệu trên đây và gửi về bch của TĐ.

Sau khi nghỉ một lát, Boccia cho chuyên viên bậc 4 Phil Nelson đi khinh binh 1 và binh nhứt Nate Hyde khinh binh 2. Gann là một khinh binh giỏi nhưng Nelson và Hyde là hai kẻ dò đường (tracker) kinh nghiệm nhứt của trung đội. Cả hai đều lớn lên ở khu vực nông thôn, Nelson ở bang Virginia và Hyde ở Louisiana, và trong thời gian qua đã có khả năng lạ lùng (uncanny) là thấy vật trong rừng mà người khác ko làm được.

Lúc 0913, Nelson bắt đầu trèo lên dốc núi 25 độ. Một khoảng ngắn từ khu đã bị ném bom trước đó, y đã khám phá một số vết máu, tất cả đều hướng lên núi. Một lát sau, y lại thấy một đống băng cứu thương nằm giữa đường mòn này, rồi dấu chân người, và cuối cùng, xa hơn một chút, một đống băng cứu thương khác. 

Nelson và Hyde ngừng lại để xem xét, và Boccia bò lên.

"Trung úy, hảy nhìn xem," Hyde nói. "Chúng đã chỉ đường cho chúng ta."

"Có điều gì đó ở đây, trung úy, " Nelson nói thêm.

Họ đã nói đúng, Boccia suy nghĩ. Boccia đã nhiều lần biết rằng, ngay cả khi kéo nhiều xác chết và bị thương, Bắc quân ko để lại dấu vết gì kể cả một nhánh cây gẫy.

Lúc đó hiệu thính viên gọi y. Đó là đại úy Littnan trên máy. "Tại sao anh ko thể đi nhanh hơn?

- Tôi đã cố gắng đi nhanh.

- Nhưng tôi thấy anh đi rất chậm.

- Tôi đi chậm vì có gì đó ở đây.

- TĐT ở sau lưng tôi. Ông ta muốn biết tại sao anh đi chậm. 

- Tôi đã cố gắng hết sức.

- Tôi hiểu. Nếu anh ko chắc chắn điều gì phía trước thì cứ từ từ tiến lên. Nhưng tôi cho anh biết TĐT đang theo dỏi.

- Tôi hiểu.

Nelson lần nữa di chuyển rất chậm (at a creep) và lần nữa nhích từng tấc trên đường mòn chật hẹp vì đầy mảnh vở cây rừng. Y đã vượt 100 m trong một giờ. Tới rìa của một đồi nhỏ (knoll), y ra dấu cho trung đội đứng lại và ra dấu kêu Boccia. Có một KHOẢNG TRỐNG NHỎ trên đỉnh của đồi nhỏ này, và ngay giữa nó, là một ba-lô đầy cơm vắt (rice ball), một súng AK47 mới tinh còn trong túi da, một chồng kẹp đạn, và hai lựu đạn TC. 

Boccia suy nghĩ rất nhiều: Bắc quân làm như vậy để làm gì?

Trong khi đó, tại bch TĐ, Honeycutt và đại úy Charles Addison, ban 2, đang quì gối cạnh các máy truyền tin và đọc các tài liệu - mà trước đó đã lấy từ xác một cán binh.

Honeycutt cho gọi Vinh, một cựu hồi chánh viên nay làm thám báo (Kit Carson Scout) của tđ. Khi y đến, ông đưa tài liệu và nhờ y đọc.

Honeycutt ko thích Vinh hay chánh sách dùng cựu cán binh CSBV làm thám báo. Theo ông, kẻ đã phản bội đất nước của y cũng sẽ phản bội nước khác. Tuy nhiên, vì muốn biết tài liệu nói gì trước khi gửi về lữ đoàn, ông đã gọi Vinh.

Vinh bắt đầu đọc rất chậm. Khi được khoảng nửa trang giấy đầu tiên, mắt y mở to với kích động. Ở trang hai, y đọc to bằng tiếng Việt, và tới trang ba, y đã nói lảm nhảm trong kích động (babble excitely) với Honeycutt và Addison.

"Chuck, y nói cái gì?"

Addison dùng rất ít tiếng Việt mà ông biết để hỏi Vinh, nhưng tên cựu HCV này có vẻ ko đáp ứng. Mặt y xám lên (ashe) vì sợ, y ko trả lời Addison và tiếp tục lảm nhảm bằng tiếng việt, trong lúc lắc đầu liên tục. 

"Chuck, thằng này nói gì?"

"Tôi ko biết."

"Bảo nó bình tỉnh lại."

Addison lại hỏi Vinh và khuyên y lấy lại bình tỉnh và cuối cùng Vinh nói, nửa Mỹ nửa Việt.

Addison nhanh chóng thông dịch. "Y nói rằng những kẻ mà chúng ta giết là lính của trung đoàn 29 csbv - có biệt danh là Niềm Tự Hào của HCM. Có thể họ là một trong những trung đoàn giỏi nhứt của quân csbv. Vinh cũng nói rằng 'họ là dũng sĩ diệt Mỹ' và chúng ta nên rút ra khỏi khu này vì cả trung đoàn đang ở chung quanh đây. Y nói 'Nhiều, nhiều cán binh khắp nơi. Hàng trăm cán binh.' "

"Nói với thằng chó đẻ này rằng tôi rất vui khi biết họ chung quanh đây. Nói với y rằng tại sao chúng ta đến đây-- là để giết bọn csbv-- và nếu chúng ở quanh đây, chúng đã cho chúng ta một cơ hội tốt." Honeycutt nói. 

Khi Addison dịch lại câu nói của Honeycutt, Vinh nhìn Đt một cách nghi ngờ, chỉ vào tài liệu, và lại bắt đầu nói lảm nhảm.  

Ở trên đường mòn, đại úy Littnan cho đ.đ. ngừng 15 phút ăn trưa, và lại chờ thêm 15 phút vì một cơn mưa đột ngột. Tuy nhiên, lúc 1220, đ.đ. lại di chuyển, lần này Hyde làm khinh binh. Khi y dẫn đ.đ. từ từ lên núi, địa thế bắt đầu thay đổi từ từ. Rừng tre từng bám sát hai bên đường mòn từ từ biến dạng. Những cây gỗ teak khổng lồ, nhiều cây cao hơn 100 feet hay 30 m , bắt đầu xuất hiện khắp nơi. Những cây này có thân to lớn, thô tháp (gnarled), có thân và ngọn đan với nhau trên đường mòn, tạo nên một mái vòm (vaulted ceiling). Tầm nhìn trước đây chỉ nhìn trên dưới một mét nhưng nay, ở nhiều chỗ, từ đường mòn, Hyde có thể nhìn xa hơn 50 m. 

Hyde tiếp tục bò, tốc độ như sên. Bực bội vì quá chậm, đại úy Littnan gọi Boccia và bảo trung đội ngừng lại. Theo sau bởi trung úy Denholm, Littnan chạy nhanh lên đường mòn tới khi gặp Boccia.

"Frank, anh phải nhanh lên, " Littnan nói. "Chúng ta phải nhanh hơn."

"Thưa sếp, như tôi đã nói, tôi biết tôi đã kéo dài thời gian. Nhưng ông đã thấy đường mòn. Ông đã thấy những gì chúng tôi vừa thấy. Tôi cảm thấy rằng sẽ ko thoải mái nếu tiến nhanh hơn."

"Tôi ko cần biết anh cảm thấy gì, Frank," Littnan nói, ko dấu sự giận dữ. "Anh phải tiến nhanh hơn vì TĐT sau lưng tôi, và ổng nói chúng ta phải ở núi này lúc 1530. Anh nghe tôi nói ko?

"Vâng, thưa sếp."

"Vậy tiến lên."

Nghe lịnh của Littnan, hiệu thính viên của Boccia, đang ngồi dựa gốc cây, vụt đứng dậy và lấy máy truyền tin. Tuy nhiên, trong khi đeo máy vào người, một dây đeo bị đứt và máy rới xuống đất. Vì thấy anh lính truyền tin ko sửa được dây đeo, đại úy Litnann nói với Boccia, "Frank, tôi ko thể chờ anh," và quay sang trung úy Denholm, "Trung đội của anh thế trung đội của boccia."

Boccia cho lính tạt ngang hông đường mòn để lính của Denholm vượt qua trong im lặng. 

Denholm cho binh nhứt Bill Stevens làm khinh binh 1 và chuyên viên bậc 4 Aaron Rosenstreich làm khinh binh 2, kế đó là chuyên viên bậc 4 John Mccarrell và kế đó là y. Dù tới phiên Stevens làm khinh binh, Denholm rất ngần ngại khi để stevens làm như vậy. Anh lính trẻ này thường xuyên sợ sệt và lo âu và có lúc đã phản ứng vụng về lúc chạm địch. Hơn nữa, Denholm đã nhận thư của mẹ của anh chàng này vài ngày trước, trong đó có câu "Xin đừng để con tôi bị thương. Làm ơn, làm ơn, chăm sóc nó. Nó là tất cả của tôi."

Denholm biết rằng ông ko thể để tình cảm xen vào công việc chỉ huy trung đội, nhưng ông cũng ko thể ko tác động bởi là thư này. Tuy nhiên, vì công bằng, ông ko có chọn lựa nào khác là để Stevens làm khinh binh khi tới phiên nó. 

Đó là một quyết định mà Denholm đã hối tiếc gần như tức thời. Stevens tiến một cách ngập ngừng, và sau khi bò được 10 m đã ngừng. Y nhìn ngược lại Denholm, vẻ mặt sợ hãi, nhưng Denholm ra dấu cho y tiến lên. Stevens bò thêm khoảng 5 hay 10 m rồi quì xuống. Lần này y ko nhìn ra sau.

Denholm vội bò tới y. "Cái gì vậy?"

"Tôi sợ lắm, "Stevens nói lắp bắp (mumble).

"Lấy lại bình tình, "Denholm nói, vừa đặt tay lên vai Stevens. "Chúng ta ko vội vả. Không có gì phải sợ." Denholm xô nhẹ y về phía trước. "Đi. Chúng ta tiếp tục di chuyển."

Denholm trở về phía sau và Stevens bắt đầu bò về phía trước. Tuy nhiên, mới chỉ vài m, một tên bắn sẻ ở đâu đó nổ súng vào trung đội. Ba hay bốn viên cắt ngang ngọn cây, và mọi người nhào xuống hai bên đường mòn.

Chỉ sau vài giây, Rosenstreich và mccarrell đã trở lại đường mòn và bắn vào cây rừng 2 bên. Họ thấy tên bắn sẻ từ gốc cây ven đường, chạy nhanh lên núi. 

Denholm gọi máy cho Litnann và nghe lịnh: "Tiếp tục di chuyển!"

Stevens, lại lần nữa ngần ngại (balk) khi được lịnh tiến lên. "Tôi ko thể," y nói, tay y rung, hơi thở giật từng cơn. 

"Anh phải tiến lên," Denholm quát to. "Hảy tiến lên!"

Nét mặt Stevens nhăn nhó và có vẻ sắp khóc , nhưng cuối cùng nó quay chung quanh và bắt đầu tiến lên. Tên bắn sẻ nổ súng nhưng ko trúng.

Stevens nhảy khỏi đường mòn và núp sau một khúc cây, trong khi Rosenstreich và Mccarrell nổ súng vào hàng cây. Tên bắn sẻ ngừng bắn lập tức.

Denholm bò tới và thúc dục Stevens. "Hảy tiến lên, Billy."

"Tôi ko thể tiến thêm. Tôi sợ quá. . . Tôi ko thể. . . "Stevens nói.

Rosenstreich nói với Denholm. "Để tôi làm khinh binh."

"OK, Rosey,"Denholm nói. Y nhìn Stevens rất lâu và cuối cùng nói với giận dữ, "Đi ra đằng sau."

Stevens vụt chạy về sau (scamper) như con chó bị quất roi, và Denholm đặt tay lên vai Rosenstreich. "Cẩn thận, Rosey."

"Đừng lo cho tôi, trung úy, tôi biết tôi phải làm gì."

"Tôi biết."

. . .

Rosenstreich bắt đầu tiến lên lúc 1300: khi thì bò khi thì đi bộ và trong 30 phút được 100 m. Gần một cây teak lớn, y ngừng và dấu cho trung đội ngừng. Y chui vào bên cạnh đường mòn, dùng tay sờ soạng một nhúm tre và giây leo cho tới khi đụng cái gì đó, y ra dấu cho Mccarrell và Denholm bò tới.

"Hảy nhìn, rosenstreich nói," trong lúc cầm một dây điện có vỏ dầy, "nếu có dây điện thoại ở đây, trên kia phải có địch. Phải lần theo dây này mà tìm chúng."

Denholm quan sát kỹ sợi dây và thấy dây gắn với một cây nhỏ bằng một miếng cách điện. Y thấy dây chạy về phía đông bắc tới đỉnh của Động Ấp Bia và thẳng về về phía tây xuống một khe (draw) lớn ở bên phải của đường mòn và hướng tới Lào. Denholm gọi Litnann và Litnann nói sẽ lên xem.

Trong khi Litnann đi theo đường mòn để xem dây điện thoại, ĐT Honeycutt đang chờ đại úy Fredericks, sq tình báo của lữ đoàn, với bản dịch đầy đủ của tài liệu đã kể ở trên. 

"Đại úy, anh thấy điều gì?" Honeycutt hỏi.

"Thưa ĐT," Fredericks nói, "có nhiều cộng quân ở nơi nào đó trong khu vực này -- to chuyện rồi!"

"Tôi đã nghĩ tới điều đó. Nhưng chúng ở đâu?

"Tôi ko biết. Tài liệu ko nói. Chúng chỉ nói đv hoạt động ở khu này là trung đoàn 29 csbv."

"Vinh đã nói điều đó."

"Theo tôi ước tính, chúng khoảng 1.200 đến 1.800 tên, tăng cường bởi vũ khí nặng. Chúng rời Hà Nội gần đây và có lịnh rõ ràng là tấn công một vài đv Mỹ trong vùng núi này. Sau đó, chúng có thể xâm nhập xuống đồng bằng và tấn công Huế. Tài liệu ko nói NƠI và KHI NÀO chúng sẽ tấn công, nhưng điều rõ ràng là chúng sẽ đánh lớn."

"Tốt," Honeycutt trả lời. "Đấy là điều tôi cũng đang trông chờ-- một trận đánh lớn!"

Trong khi đ.đ. Bravo đi thám sát về hướng đông nam tới đỉnh của Động Ấp Bia, đ.đ. Alpha cũng đi theo cùng ngọn núi nhưng hướng ngược lại, theo hướng tây bắc tới biên giới Lào và Sông Trung Phạm. Khi ngọn núi hạ thấp cao độ khi tới thung lũng Sông Trung Phạm, đ.đ. Alpha chia thành từng trung đội và bắt đầu tiến tới biên giới theo ba mủi. Dẫn đầu là trung đội 1 của trung úy Frank McGreevy. Họ bắt đầu đi xuống thung lũng của sông này lúc 0800, và ngay từ bắt đầu tiến quân khó khăn. Vì sợ phục kích, vị trung úy 24 tuổi này đã tránh những đường mòn và cho trung đội băng đồng, với khinh binh mở đường bằng dao rựa. Vì vậy, họ phải tốn khoảng 4 giờ để đi từ núi xuống thung lũng của sông này. Tới đây trung úy cho trung đội đổi về hướng nam và bắt đầu lại băng đồng xuống giữa thung lũng này. 

Trung đội di chuyển khoảng 3 giờ vô sự, cho tới khoảng 1400, khi khinh binh, trong lúc chặt một cụm dây leo và lách qua một bụi tre dầy (stand of bamboo), đã lọt ngay giữa một con đường lớn của bắc quân. 

McGreevy và khinh binh 1 và 2 quan sát con đường. Lính Mỹ gọi nó là "siêu xa lộ" và dù ở VN 11 tháng nhưng McGreevy chưa thấy một con đường như vậy. Mặt đường nện rất cứng và rộng đủ cho xe tải chạy. Phía trên, cây rừng đan vào nhau tạo thành mái che, khiến ko thể thấy từ trên không. 

McGreevy cảm thấy một cơn lạnh chạy dọc xương sống và nghĩ: "Chúng ta đang trên đất của chúng. Phải có nhiều người mới làm con đường như vậy. Phải có nhiều người!"

Đi theo con đường, họ thấy nó chạy thẳng hướng tây tới Sông Trung Phạm và hướng đông tới phía rìa phía đông của Động Ấp Bia. McGreevy đặt mỗi tiểu đội ở một bên của siêu xa lộ này và dẫn một tiểu đội theo con đường đi về hướng tây tới sông này. Con đường đi thẳng vào một cụm các túp lều và ở phía sau các lều là một hầm trú ẩn hay bunker có nhiều gà con, quần áo và đạn dược. Lửa còn cháy trong bếp chứng tỏ ai đó đã ở đây và vội vả rút lui. 

(Còn tiếp)

Dịch từ trang 75-85 của Hamburger Hill