MỘT CUỘC HÀNH QUÂN ĐIỂN HÌNH CỦA QUÂN MỸ TẠI VIỆT NAM.
Chương 8 - Hành quân Apache Snow tháng 5/1969 tại thung lũng A Shau, phía tây tỉnh Thừa Thiên
- Dù các lãnh đạo của nước Mỹ bỏ rơi VNCH, nhưng chúng ta ko quên ơn những chiến sĩ Mỹ đã hy sinh cho đất nước này.
LỜI NÓI ĐẦU: Sau khi TĐ 3/187 của trung tá Honeycutt chiếm được núi Động Ngải, họ đã xây dựng căn cứ hỏa lực (CCHL) Airborne và ngày 8/5 cả TĐ được trực thăng vận về căn cứ Evans ở bắc Huế. Đại đội Alpha của TĐ 2/501, cũng thuộc sđ đã thay họ canh giữ CCHL này và chỉ sau đó bốn ngày, căn cứ đã bị đặc công csbv tấn công, đã kể trong bài trước. Riêng TĐ của trung tá Honeycutt, ngày 10/5, nghĩa là hai ngày trước khi CCHL này bị tấn công, đã cùng bốn TĐ khác, trong đó của hai TĐ của VNCH, tham dự cuộc HQ Apache Snow, được mô tả trong phần chuyển ngữ dưới đây từ quyển Hamburger Hill.
===
"Lúc 0710 công tác bắn dọn bãi của pháo binh đã chấm dứt (có năm bãi đáp cho năm TĐ). Vài phút sau, một cặp Cobra đã xuất hiện trên mỗi bãi đáp hay LZ (landing zone) và bắt đầu bắn dọn bãi lần cuối. Trong khi chiếc thứ nhứt hover hay bay đứng một chỗ bên hông của bãi đáp để làm nhiệm vụ bảo vệ, chiếc thứ hai nhào xuống phóng từng đợt hỏa tiển loại nổ cao hay HE (high explosive) xuống bãi đáp và khu rừng chung quanh, và sau đó liên tục tưới đạn minigun 7.62 ly xuống khu vực. (Nói thêm: quân đội Việt-Mỹ đã từng dùng súng trường Garand M-1 bắn đạn 7.62 ly và đại liên 50 bắn đạn 12,7 ly. Sở dĩ có số lẻ như vậy vì đường kính lần lượt của đạn 7.62 ly và 12,7 ly bằng 30/100 và 50/100 của một inch trong khi một inch bằng 25,4 ly -- người dịch). Khi chiếc thứ nhứt bắn hết đạn, chiếc thứ hai nhào xuống làm tiếp công việc.
Khi đó, các đoàn trực thăng chỡ quân chỉ còn cách bãi đáp vài giây. Khi mỗi đoàn này tới gần bãi đáp, chiếc Cobra dẫn đầu của đoàn nhẹ nhàng tách rời đoàn và liên tục tưới đạn minigun 7.62 ly, kế đó lại bắn tiếp đạn phóng lựu 40 ly và cuối cùng là một hay hai đợt rocket chống biển người (flechette rocket). Mỗi rocket chống biển người loại Hydra 70 chứa 1179 mũi tên nhỏ, mỗi mủi tên nặng 3.9 gram. Cùng lúc đó, bốn chiếc Cobra đang bảo vệ cạnh sườn của đoàn máy bay này bay tới bên hông bãi đáp tưới thêm đạn minigun xuống bãi, sau đó là hỏa tiển chống biển người và đạn phóng lựu 40 ly.
Việc bắn dọn bãi này KÉO DÀI LIÊN TỤC TRONG 74 PHÚT. Đúng 0710, mọi Cobra ngừng bắn và rời bãi và hover (bay đứng một chỗ) bên cạnh bãi đáp, sẵn sàng nổ súng khi cần.
Trong đội hình chữ V, các máy bay chỡ quân loại UH-1 nảy giờ đang hover gần đó để chờ Cobra dọn bãi, nay bắt đầu vào. Tất cả năm bãi đáp đều quá nhỏ cho 16 chiếc trong mỗi đoàn xuống một lần nên máy bay chỉ xuống mỗi lần 1 hay 2 chiếc. Vì bãi đáp đầy hố bom hay hố đại bác và cây cối đổ vỡ nên máy bay bay đứng một chỗ cách mặt đất 1.5 m tới 3 m để xạ thủ bắn đạn 7.62 ly lần chót. Sau đó, các binh sĩ, với ba lô nặng gần 30 kí, nhảy xuống đất và nhanh chóng bung rộng để lập chu vi phòng thủ. Khi có người xuống thêm, chu vi phòng thủ càng mở rộng.
Thật là lạ, hầu như việc đổ quân ko gặp trở ngại. Chỉ có TĐ 4/1 của VNCH đã bị bắn sẻ khi an ninh bãi đáp ở đỉnh Núi Trần Lây, và một đ.đ. của TĐ 2/1 VNCH mất một Chinook khi họ bắt đầu xây CCHL Tiger ở núi Ka Lou. Nhưng 3 TĐ Mỹ đổ quân thì ko gặp địch, và đến 9 g sáng họ đã bảo vệ an toàn bãi đáp và đang chuẩn bị tiến tới mục tiêu hay đã tiến tới mục tiêu. Nhiệm vụ cơ bản của 5 TĐ này đều giống nhau, đều hành quân lục soát kỹ lưỡng về hướng tây tới biên giới Lào-Việt và về hướng đông tới thung lũng A Shau.
Tuy nhiên có 3 TĐ có nhiệm vụ hơi khác. Ở xa về phía bắc, TĐ 2/1 của VNCH phải cắt tỉnh lộ 548, có từ đời Pháp, và ngăn chận mọi địch quân rút lui từ thung lũng, và ở phía nam, TĐ 1/506 của sđ 101 Dù phải ngăn chận xa lộ 923 đi từ biên giới Lào tại giao điểm với tỉnh lộ 548. Ở giữa, tđ 3/187 của trung tá Honeycutt có nhiệm vụ lục soát Động Ấp Bia, mà phòng tình báo của lữ đoàn và sđ 101 nghĩ rằng đã được dùng làm trạm trung chuyển (way station) hàng hóa giữa căn cứ 611 gần đó và mạng lưới dầy đặc các đường mòn ở thung lũng.
Trung tá Honeycutt rất ngạc nhiên về đợt đổ quân vô sự này vì chỉ 2 tuần trước, trong đợt đổ quân đầu tiên đã rớt 3 máy bay và một số khác hư hại. Ông đã nghĩ rằng sẽ gặp hỏa lực địch hôm nay và rất ngạc nhiên khi cuộc đổ quân quá dễ dàng.
Thật đúng như vậy. Lúc 0801, đ.đ. Delta của đại úy Luther Sanders, xuống đầu tiên, kế đó là đ.đ. Alpha và Charlie. Trong khi Charlie đang an ninh chu vi bãi đáp thì Delta và Alpha đã bắt đầu hành quân lục soát hai hướng dối diện dọc theo sống núi lớn (large ridge) mà trên đó có bãi đáp: Alpha đi phía tây bắc về biên giới, và Delta đi hướng đông nam về đỉnh của Động Ấp Bia. Honeycutt và bộ tham mưu xuống bãi đáp lúc 0930, ông ra lịnh cho đ.đ. Charlie của đại úy Dean Johnson ko làm an ninh bãi đáp nữa mà bắt đầu hành quân lục soát dọc theo một đường thông thủy (draw) lớn chạy theo hướng tây bắc, hướng về biên giới. Rồi với bộ tham mưu và trung đội cối 81 ly, trung tá Honeycutt đi lên sống núi, hướng về tây bắc, theo sau Delta.
...
Honeycutt đã bắt tay với đ.đ. Delta của đ.u. Sanders lúc 12 g ở khoảng 1000 m cách đỉnh của Động Ấp Bia. Ở đấy mọi người chuẩn bị một bãi đáp và bch TĐ. Ngày kế trung tá đã dự định lập một bch thường trực hơn trên đỉnh của Động Ấp Bia, nhưng giờ đây ông cần một bch đủ gần để chỉ huy hai đ.đ. Alpha và Charlie đang phối hợp lục soát hướng về biên giới Lào-Việt.
Trên sống núi chật hẹp này, quân sĩ của Honeycutt đã nhanh chóng chuẩn bị một vị trí có hình thuông (oblong). Ở đầu tây bắc của vị trí này, lính công binh với cưa máy đã chặt cả chục cây cao trên 30 mét và những cây thấp hơn và một bãi đáp chỉ đủ một chiếc trực thăng đáp xuống. Ở giữa của vị trí này, các lính công binh đã tạo một lổ hổng trong rừng cây để khẫu cối 81 ly có thể bắn, kế đó ở đầu đông nam của vị trí họ đã dùng dao rựa để cắt bỏ một bụi tre dầy (thick stand of bamboo) để làm chỗ cho bch TĐ. Trong khi những lính công binh làm việc dưới nhiệt độ 100 độ F hay 37.7 độ C, chín mươi tư người lính của đ.đ. Delta đã bao quanh vị trí này với những hố chiến đấu, mìn chiếu sáng và mìn claymore, và đã bắt đầu mở những lục soát nhỏ ở những hẽm núi (ravine) và đường thông thủy (draw) chung quanh để bảo đảm rằng ko có địch quân.
Những biến cố đã xảy ra nhanh chóng khắp vùng bắc A Shau. Dù cả hai đ.đ. Alpha và Charlie chỉ di chuyển vài trăm mét từ bãi đáp đầu tiên, họ đã khám phá những lều và công sự phòng thủ của địch dọc theo đường tiến quân của họ. Một số lều này lớn - đủ chứa cả một trung đội, với những khu vườn chăm sóc cẩn thận ở phía sau và các công sự sâu và rộng. Đại đội Charlie còn thấy lửa cháy dở dang (smoldering) trong một lều chứng tỏ địch quân đã rời khu vực vài phút trước khi đ.đ. tới.
Trong khi đó, các phi công của các máy bay quan sát OH-6 Loach, trong khi bay sát ngọn cây để họ có thể nhìn qua những lổ trống trong rừng cây dầy đặc, cũng đã trông thấy nhiều lều và công sự phòng thủ khắp nơi chung quanh Động Ấp Bia. (NÓI THÊM: dù là trực thăng quan sát nhưng chiếc OH-6 có thể trang bị một minigun M134 sáu-nòng bắn đạn 7.62 ly hay một phóng lựu M129 bắn lựu đạn 40 ly. Trong số 1.422 chiếc OH-6 dùng trong chiến tranh VN, đã có 964 chiếc rơi vì hỏa lực địch-- người dịch).
MỘT TOÁN SĂN VÀ DIỆT GỒM HAI CHIẾC OH-6 LOACH VÀ HAI CHIẾC AH-1 COBRA
Vài phút sau, một quan sát cơ (FAC plane) khác, trong khi bay lòng vòng trên một khu ở đông của Động Ấp Bia, bị bắn bằng phòng không 12.7 ly. Sau khi suýt bị bắn rơi, phi công này đã gọi cầu cứu. Hai oanh tạc cơ đã đến, và sau khi vị trí được đánh dấu bởi chiếc quan sát cơ này, đã ném bốn quả 500 cân Anh. Một quả bom đã rơi đúng vị trí, và phi công quan sát thấy các phần của súng phòng không đã văng cao hơn 9 mét lên trời.
Khi ông nghe hai sự kiện này và so sánh với những dấu hiệu ngày càng gia tăng của địch mà Alpha và Bravo đã khám phá, trung tá Honeycutt đã ko có chọn lựa nào ngoài kết luận rằng TĐ của ông đã nằm (set down) ngay trung tâm của một loại căn cứ nào đó của địch. Ông chỉ có thể phỏng đoán căn cứ lớn cỡ nào hay bao nhiêu lính địch đóng quân tại đó, nhưng ông đã biết rằng địch có thể tấn công họ bất cứ lúc nào chúng muốn.
Và đó là điều ông lo nhứt. Nếu quân CSBV đã quyết định chiến đấu tại khu vực này, ông sẽ phải cần thêm viện quân, và họ sẽ phải đổ quân vào những bãi đáp nóng. Và ông nghĩ rằng tốt hơn hết là đổ thêm viện quân vào lúc này trong lúc bãi đáp chưa nóng hơn là lúc diển ra trận chiến.
Từ lâu đại đội Bravo bị giữ làm trừ bị của lữ đoàn 3 tại CCHL Blaze, nên trung tá Honeycutt đã gọi ĐT Joseph Conny, TL lữ đoàn 3, xin trả lại đ.đ. cho TĐ. Không do dự, Conny đã đồng ý đã nhả đ.đ. Bravo, và lúc 1400 toàn đ.đ. này được trực thăng vận vào A Shau.
Đ.đ. Bravo đã ko gặp may mắn như các đ.đ. khác của TĐ. Mười lăm của 16 chiếc chỡ đ.đ. này đáp xuống bãi đáp ko gặp khó khăn, nhưng chiếc cuối, chỡ trung úy Charles Denholm và BCH đ.đ., bị trúng đạn, khiến phi công đáp khẩn cấp xuống thung lũng. Một trực thăng khác đến vài phút sau đó để bốc họ, nhưng cũng gặp rắc rối. Khi chiếc này bốc lên cao, hướng về phía tây tới Động Ấp Bia, nó bị bắn bởi một số súng phòng không, đặt từ cửa của các hang động ở phía tây của A Shau. Hai hay ba đạn loại proximity của địch đã nổ gần đuôi của chiếc này khiến nó đã xoáy tròn (reel) trong vài giây trước khi phi công làm chủ được máy bay. //Nói thêm: ngòi nổ proximity của đạn này sẽ tự động nổ khi khoảng cách tới mục tiêu nhỏ hơn trị số định trước, nghĩa là ko cần chạm mục tiêu. Ngòi nổ đã gia tăng sức tàn phá từ 5 đến 10 lần so với những ngòi nổ khác trong đó có ngòi nổ chạm nổ (contact fuze) hay ngòi nổ canh giờ (timed fuze)--người dịch.//
Khi trung úy Denholm và bch của đ.đ. cuối cùng đã xuống đất và gặp lại phần còn lại của đ.đ. Bravo và bắt đầu đi bộ 800 mét tới bch của TĐ. Một giờ sau, họ gặp Honeycutt: ông này lấy viết chì mỡ và bản đồ bọc plastic và vẽ con đường mà ông muốn Bravo đi từ bch TĐ hiện tại tới đỉnh của Động Ấp Bia.
"Tôi chưa chắc anh làm được việc này tối nay," Honeycutt, "nhưng vào lúc nào đó trong buổi sáng tôi muốn chuyển bch lên đó."
"Không có chi."
"Cẩn thận."
"Đừng lo, thưa trung tá."
Đại úy Littnan đã ko lo ngại (unconcerned) về nhiệm vụ an ninh núi nầy. Vị sĩ quan 29 tuổi này đã ở VN một năm với trung đội cối 81 ly và nắm đ.đ. này được ba tháng, và suốt thời gian này ông đã thực hiện hàng chục nhiệm vụ như vậy mà ko trở ngại. Dù y biết rằng mọi người ở A Shau đều phải cẩn thận, y chưa cảm thấy điềm báo trước về một nguy hiểm nào đó. Đối với Littnan, y và lính của y đã bắt đầu cái mà lính bộ binh gọi là "chỉ là chuyến đi bộ dưới ánh mặt trời."
Cảm giác của Littnan đã được chia sẻ bởi phần lớn người trong đ.đ. Khi tin về nhiệm vụ này truyền xuống đ.đ., mọi người đã bắt đầu nói đùa và chúc mừng lẫn nhau về sự may mắn đột ngột này.
Phần lớn trước đó đã nghĩ rằng trong một hay hai tuần tới với ba-lô nặng 60 lb hay 27 kg, họ sẽ leo lên leo xuống các dốc núi của vùng bắc A Shau, dễ bị phục kích và chết bất ngờ ở từng khúc quanh của đường mòn, nhưng sắp tới đây họ lại có nhiệm vụ bảo vệ bch TĐ. Đây là nhiệm vụ mà họ đã gọi một cách mĩa mai là "canh gác dinh tổng thống" (palace guard).
"Sau chiến đấu ác liệt tại Động Ngải," trung úy Frank Boccia, chỉ huy trung đội 1, sau này đã nói, "công việc an ninh ngọn núi cho bch TĐ giống như đi phép hai tuần mỗi năm. Như mọi người khác, tôi đã thực sự nhìn thấy một tuần lễ êm đẹp ở đó."
Bất kể (regardless) sự lạc quan của họ, những người này vẫn có một ngàn mét để vượt qua trước khi tới đỉnh của núi này, là một ngàn mét mà họ phải leo trên một đường mòn hẹp, dốc và đầy nghẹt cây cối, tre, và dây leo gẫy đổ - hậu quả của những vụ bắn phá trước đây của máy bay và trực thăng.
Họ bắt đầu lúc 1620, trung đội 2 của trung úy Marshall Edward, đi đầu, kế đó là trung đội 1, và bch đ.đ., và cuối cùng là trung đội 4. Edward cho tiểu đội 2 đi đầu và chuyên viên bậc 4 Ron Storm làm khinh binh 1 và chuyên viên bậc 4 James Rocker làm khinh binh 2. Storm đã bắt đầu đi chậm chạp và cẩn thận trên đường mòn, cân nhắc (deliberate) trong mỗi bước đi, y quan sát cẩn thận hai bên đường mòn, sẵn sàng đáp ứng mọi chuyển động nhỏ nhứt. Y để khẫu M16 ở vị thế tự động, hướng súng về trước, sẵn sàng bắn hết băng đạn 20 viên trong một giây. Rocker theo sau, cách y 10 mét, im lặng như một con mèo, bước chầm chậm trên những tảng đá và những khúc cây, di chuyển nhẹ nhàng dưới những giây leo và những cành thấp.
Đường mòn lúc này giống như một đường hầm với những lá cọ (palm frond) mọc de ra đường như những bàn tay lớn. Dây leo bám đầy các cây. Vì tàn lá dầy nên ánh sáng yếu (wan) và xám, không khí ẩm lạnh (dank) và có mùi khó chịu.
Storm tiến được 100 mét, và thêm 200 mét. Chẳng bao lâu họ ra khỏi cao địa nơi đặt bch TĐ và gặp một yên ngựa nhỏ và thấp, kế đó một vùng đất bằng phẳng. Ba trăm mét sau đó, Storm tới rìa một yên ngựa thứ hai. Tuy nhiên, cái này sâu hơn cái đầu tiên. Có Rocker bảo vệ y, y xuống được 20 m, rồi ra dấu cho Rocker để phần còn lại của đ.đ. tiến lên.
Storm di chuyển qua khỏi đáy của yên ngựa, và bắt đầu đi lên. Phần lớn của tiểu đội 2 đã qua khỏi yên ngựa và đi lên núi khi một B-40 phụt ra (whoosh) từ một điểm trên đường mòn ở phía trước họ và đã nổ đinh tai nhức óc khi đụng một cây ở bên trái Storm. Sức nổ đã đẩy y khỏi đường mòn, và nằm sóng sượt (sprawl) trên dốc núi bên phải. Y bị choáng (pass out) trong vài giây, rồi kế đó là âm thanh quen thuộc của hỏa lực AK-47. Storm nhìn lên sống núi để xem sự hỗn loạn trên đường mòn. Ba người bị bắn gục, và một người đang liên tiếp la hét, "Tôi bị thương!". Một số người đang bò về phía trước để cứu người bị thương trong khi những người khác bắn vào hàng cây hai bên đường.
Cùng lúc đó, một xạ thủ địch đã thấy Storm và nổ súng. Storm ngả ngửa xuống đất để tránh đạn, và một giây sau một quả B40 đã trúng cây trên đầu y, làm vỏ và lá cây rớt đầy trên đầu y. Y quét mắt phía trên sống núi trong một giây để cố gắng tìm kiếm vị trí của khẩu B40 và thay vào đó thấy 3 hay 4 xạ thủ địch điều khiển một vị trí ở bên trái của sống núi khoảng 25 mét. Y gọi những người còn đứng bên dưới tiến lên, và khinh binh số 2 James Rocker và các binh nhứt Anthony Tolle, Alan Bork, và James Prefundo chạy nhanh đến. Kế đó Storm dẫn toán này tiến thêm khoảng 30 mét, cho tới khi ở phía đối diện và phía sau của vị trí địch.
Storm nhìn nhanh và đã nghĩ rằng y đã thấy 4 hay 5 lính địch ở phía kia. Họ ở sau một cây lớn và được che dấu một phần bởi những nhánh và lá cọ thấp. Lúc đầu, y nghĩ rằng có thể bắn họ, nhưng họ bảo vệ quá kỹ nên điều đó rất khó. Thay vào đó, y đề nghị toán của y nên dùng lựu đạn, và họ đồng ý. Từ một dấu hiệu của Storm, năm người này đã rút chốt lựu đạn và ném một lượt, và tìm chỗ nấp khi phía trái của đường mòn đã rung chuyển bởi một tiếng nổ lớn.
Tụi nó bị rồi, Storm nghĩ như vậy khi y nhìn lên lổ lớn tạo ra ở phía trên vị trí của địch. Để chắc ăn, tất cả lại ném lựu đạn vào vị trí đó lần nữa, và phía trái của đường mòn đã rung lên lần nữa.
Chẳng bao lâu cả toán bị tấn công mạnh bởi một vị trí ở xa hơn trên đường mòn. Khi một quả B40 nổ trên đầu họ, Storm ra lịnh cho toán trở lại tiểu đội và thấy y tá đang săn sóc ba người bị thương ở bên lề đường trong khi phần còn lại của tiểu đội bắn dữ dội (wildly) về vị trí địch ở phía trước.
"Họ đang kêu máy bay," Storm nghe ai đó la lên. "Chúng ta phải ra khỏi đây."
Storm và phần còn lại của tiểu đội theo đ.đ. vượt qua yên ngựa để về phía sau. Ở đây, trung đội 2 của trung úy Marshall Edward nhanh chóng tạo một chu vi phòng thủ hai bên đường mòn.
Lời yêu cầu oanh kích đã được đồng ý bởi Honeycutt. Khoảng 5 phút sau, một quan sát cơ xuất hiện, kế đó là hai A-1 Skyraider. Thay vì đánh dấu vị trí của mình bằng lựu đạn khói, đại úy Littnan chỉ dẫn phi công của quan sát cơ cho Skyraider đánh theo sống núi và bắt đầu từ bờ nam của yên ngựa , và đánh từ từ lên cao.
Một trong hai chiếc Skyraider, theo ý của Littnan, bay nhưng ko ném bom, và khi đc đồng ý, chiếc thứ hai, bay sát ngọn cây và bay theo sống núi, vừa nhả đạn đại bác 20 ly. Chiếc đầu tiên, chỉ vài giây sau chiếc thứ hai, đã tiếp tục bắn đại bác, và chiếc thứ hai trở lại với hai quả 500 cân Anh loại nổ phá và sát thương (high drag bom).
Máy bay ném bom và bắn phá khoảng 15 phút. Chúng rời mục tiêu lúc 1900, đã biến phần trên của yên ngựa đổ nát và bốc khói. Bom đã đánh gục một số cây cao 30 mét, tạo những lổ to (gaping hole) trên tán lá dầy đặc, và đốn ngả những bụi tre dầy ở 20 mét của hai bên đường mòn.
Honeycutt đã muốn gửi một toán đi lên đường mòn để kiểm tra thiệt hại, nhưng đã bỏ ý định này vì trời sắp tới. Thay vào đó, ông ra lịnh cho đại úy Littnan lập một vị trí phòng thủ đêm hay NDP ở bờ bắc của yên ngựa này và tiếp tục hành quân lục soát hướng về Động Ấp Bia.
Sau khi đào hố chiến đấu và đặt các tiền đồn, 107 người của đ.đ. Bravo đã trải một đêm ko an bình. Trong suy nghĩ, phần lớn họ đã cố gắng quân bình niềm lạc quan mà họ đã có trước khi bắt đầu đi vào đường mòn với cú sốc của trận đánh tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này. Đây là một sự việc riêng biệt hay một linh cảm (presage) về một điều rất xấu sắp xảy ra? Đây là một câu hỏi mà nhiều người đã tự hỏi đêm nay./.
Chuyển ngữ từ trang 63-73 của quyển Hamburger Hill của Samuel Zaffira.
San Jose ngày 9 Dec 2020
Tài Trần