BÃI BIỂN THUÂN AN, SAU NÀY ĐƯỢC TQLC VNCH GỌI LÀ "PHÁP TRƯỜNG CÁT" vì 4 tiểu đoàn tác chiến, một tiểu đoàn pháo binh, một đại đội TS của LĐ 147 TQLC đã tan hàng do những quyết định sai lầm của cấp trên -- Tựaj do tôi đặt về bài viết sau đây của bs TQLC Phạm vũ Bằng.
====
CÂU CHUYỆN VỀ HAI BÁC SĨ QUÂN Y TQLC TỰ ĐI TÌM CÁI CHẾT:
1-Bác Sĩ Vũ Đức Giang, TĐ7 TQLC.
Một buổi trưa ngày 16/ 3/1975, nắng vàng rực rỡ, tôi lái xe từ Mỹ Thủy nơi có Bộ Chỉ Huy LĐ 258 TQLC đến Phong Điền nơi BCH TĐ 7 đóng để tìm “bạn vàng” BS Nguyễn Quang Khoa rủ đi uống rượu. Đến nơi thì mới biết BS Khoa đã được thuyên chuyển về LĐ 147 TQLC, người thay thế anh là BS Giang mới ra trường và làm Y Sĩ Trưởng TĐ 7 được hơn 1 tuần. BS Giang người tầm thước, nước da trắng với cặp kính cận thư sinh, tóc bồng bềnh trông rất nghệ sĩ. Gặp tôi Giang ngạc nhiên nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi:
- Anh Bằng, tôi thấy danh sách anh về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn, sao bây giờ anh còn ở đây?
Tôi cười :
-Sắp đánh lớn rồi, về SĐ làm” thợ vịn” cho các quan lớn Quân Y chán chết, tôi xin tình nguyện về LĐ để giúp anh em được nhiều hơn, vậy mà TĐT và ĐĐT Quân Y vẫn không vui, giờ thì làm “phó thường dân” tại ĐĐ Quân Y LĐ 258 gần đây.
Giang trầm ngâm một lúc rồi nhìn tôi:
-Anh làm vậy cũng đúng, chưa bao giờ quân đội cần BS như lúc này.
Câu trả lời của ông niên đệ này làm tôi chới với, tôi đang chờ đợi từ ông vài lời khuyên nhủ thường tình về BV để xin 2 chữ “bình an” thì lại được ông “giáo lý” một câu thật chí tình chí lý làm tôi tôi nể phục, bắt tay Giang tôi nói:
-Thôi mình vào trong nói chuyện.
Đến căn lều cứu thương, tôi thấy bên ngoài có những hố phòng thủ vững chắc, bước vào trong mấy anh quân y tá ban chỉ huy với quân phục chỉnh tề đứng ngiêm chào kính, trên bàn thuốc men, dụng cụ cấp cứu bầy biện ngăn nắp và có hệ thống, góc phòng có 1 giá súng với 5,6 khẩu M16 lớp thép sáng bóng dưới một lớp dầu mỏng, mấy cái balo, mũ sắt đặt thứ tự. Nhìn mọi thứ đâu ra đó tôi thầm nghĩ “một cấp chỉ huy tư cách không có thuộc cấp tồi”. Nơi Giang ngủ có một cái bàn nhỏ và vài cái ghế đóng bằng gỗ thùng đạn pháo binh, trên bàn có mấy cuốn sách y khoa và vài tập nhạc, góc phòng là 1 chiếc guitar bên cạnh một băng ca mở rộng làm chỗ ngủ. Nhìn cái băng ca rồi nhìn cặp mắt thâm quầng của Giang tôi buột miệng :
-Giang có ngủ được không?
-Không anh, cả tuần rồi, ban ngày thì vậy đến đêm gió núi thổi lạnh đến xương, tôi đang định ra Huế mua cái túi ngủ.
Tôi vội can:
-Đừng, nằm trong túi ngủ nếu đêm giặc tấn công thì không nhẩy xuống hố kịp, ban đêm gió núi thổi luồn qua vải bố băng ca nên lạnh, Giang sai đệ tử kiếm mấy tấm bìa carton trải trên mặt bố thì sẽ bớt lạnh.
Giang cám ơn tôi rồi sai đệ tử pha trà đãi nhưng tôi từ chối và rủ anh ra Phá Tam Giang uống café. Thấy anh có vẻ thích nhưng ngần ngại vì đi xa tiểu đoàn lỡ có việc gì thì về không kịp, tôi trấn an và cho biết trên xe có máy PRC 25, mình sẽ lên Ban 3 tiểu đoàn cho họ biết tần số, có gì họ sẽ gọi.Tôi lái xe, Giang ngồi cạnh phóng thẳng ra Phá Tam Giang tìm được một quán café sạch sẽ bên bờ phá. Để anh tài xế ngôi lại xe ôm máy PRC 25 và súng M16 canh chừng, chúng tôi vào quán, cô chủ quán mặc 1 chiếc áo dài cũ đơn sơ nhưng không dấu được vẻ đẹp thanh tú, kiều diễm của một kiều nữ Bích La Thôn lễ phép mời chúng tôi ngồi bên một cái bàn cũ kỹ rồi bằng một giọng Quảng Trị cô nhỏ nhẹ hỏi:
-Dạ, hai en uổng nược chi?
Giang rất thích thú nhìn và thưởng thức một nền văn hóa khác hẳn với văn hóa Saigon, anh mơ màng bên khói café ngắm nhìn cảnh thanh bình tĩnh lặng của trời mây sóng nước. Trên mặt phá vài chiếc ghe và gọ chậm chạp qua lại văng vẳng đâu đó vài câu hò não ruột của mấy o vùng sông Hương núi Ngự. Tôi nhờ cô chủ quán mang mấy chai bia cùng đồ nhắm cho anh tài xế rồi ngồi cạnh Giang tâm tình. Tôi được biết Giang đã có vị hôn thê, 2 người sẽ làm lễ cưới năm tới, và kỳ này khóa của anh có 5 BS về TQLC. Nghe anh kể lúc lễ mãn khóa quả cầu trên đỉnh cột cờ tại Vũ Đình Trường tự dưng bị gẫy làm tôi lo sợ nghĩ đến binh thư Tàu: “lúc ra quân mà cờ bị gẫy là điềm gở”. Không nói ra nhưng trong lòng tôi thật là bi phẫn vì trận chiến quyết liệt giữa ta và giặc sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào mà tại sao mấy anh lớn trong Quân Y TQLC lại đẩy mấy ông niên đệ này ra tiểu đoàn ngay thay vì để họ có chút thời gian học hỏi kinh nghiệm chiến trường tại Lữ Đoàn hay Sư Đoàn?
Giang là người có máu nghệ sĩ, anh rất thích âm nhạc thơ phú. Anh vui vẻ rút trong túi tờ giấy chép một bài ca dao xứ Huế, khoe rằng tối qua đi ăn với mấy anh sĩ quan TĐ 7 TQLC có người đọc cho anh bài ca dao này, anh thấy hay và lạ nhưng có mấy chỗ không hiểu nên muốn hỏi tôi:
Đường lên xứ Huế quanh quanh.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Thương em anh cũng muốn vô.
Sợ Truông Nhà Hồ sợ Phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn.
Truông Nhà Hồ nội tán phá tan.
Đường vô muôn dặm quan san.
Anh vô anh được bình an em mừng.
Tôi biết những điều Giang thắc mắc nên giải thích bài ca dao này có lẽ có từ thời Chúa Nguyễn Phúc Chu đầu thế kỷ 18 để ca tụng quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng có công dẹp giặc tại Truông Nhà Hồ và trị thủy tại Phá Tam Giang. Người Trung gọi khu rừng rậm hoang vắng là truông, ngày xưa Truông Nhà Hồ ở cạnh làng Hồ Xá ranh giới hai tỉnh Quảng Bình - Quảng Trị giặc cướp rất nhiều, quan nội tán đã dùng mưu dẹp chúng. Còn Phá Tam Giang lúc trước sâu và sóng gió rất nhiêu, quan nội tán phá đá ngầm và mở cửa sông cho nên phá mới hiền hòa như ngày nay. Giải thích xong tôi cười và đùa: đọc bài ca dao này tôi thấy một điều, 2 câu cuối nói lên sự chung thủy, thương và lo lắng cho chồng của các o xứ Huế, còn mấy đấng mày râu xứ này thì cũng hơi bạc tình vì đã yêu nhau thì sợ gì đám giặc cỏ Truông Nhà Hồ và sóng gió Phá Tam Giang. Đám con trai Saigon tụi mình thì khác xa vì “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua…Yêu nhau chẳng ngại đường xa, đá vằng cũng quyết, phong ba cũng liều…”
Chúng tôi nói về đủ mọi thứ chuyện, từ văn chương, âm nhạc đến thời sự, tôi nhận thấy Giang là một con người tư cách,ngay thẳng, nghệ sĩ nhưng cứng rắn, cương trực …
Chẳng mấy chốc mặt trời đã ngả hướng Tây, ráng chiều đổ xuống phản chiếu mây nước Phá Tam Giang thành mầu đỏ rực rỡ. Giang chăm chú ngây dại nhìn mây nước chuyển mầu, nét mặt sững sờ bật nói:
Sao lại đỏ như máu thế này?
Tôi giải thích: Có gì đâu, ánh hoàng hôn màu đỏ phản chiếu trên mây nước, ngày nào cũng như vậy.
Con người là một linh vật, phải chăng linh tính của Giang đã báo trước cho anh biết điều chẳng lành sẽ xẩy đến với anh tại đây 10 ngày sau đó?
Tôi đưa Giang về TĐ lúc trời tối, bịn rịn chia tay, tặng anh tấm bản đồ Huế- Đà Nẵng và một cái địa bàn sau khi đã chỉ cặn kẽ cách sử dụng. Hai thứ này từng là “bửu bối mưu sinh thoát hiểm” của tôi, và cũng không ngờ đây là lần đầu mà lại là lần cuối tôi gặp anh, những mảnh đời trong thời chiến chẳng khác gì “kiếp bèo dạt hoa trôi” hợp tan vô định!
Ngày 18/3/1975 LĐ 258 TQLC, có tôi là Y Sĩ ĐĐQY LĐ 258, di chuyển về đèo Phước Tượng với nhiệm vụ bảo vệ QL I Huế- Đà Nẵng để LĐ 147, SĐ I BB, và các đơn vị khác thuộc Lực Lượng Tiền Phương QĐ I tại Huế- Thừa Thiên rút về Đà Nẵng theo QLI.
Bộ Chỉ Huy LĐ 258 và TĐ 1 TQLC đóng tại Bắc Sông Truồi, TĐ 8 TQLC đóng tại Phú Lộc, Sư Đoàn 325 CSBV điên cuồng tung các trung đoàn đánh phá để cố cắt đứt QL I nhưng chúng đều bị chúng tôi đánh tan “ôm đầu máu” chạy trốn vào núi Trường Sơn.
Ngày 25/3/1975 là ngày các lực lượng Tiền Phương QĐ I rút bỏ Huế về Đà Nẵng. Muốn cho chắc ăn, ngoài lực lượng sẵn có là LĐ 258, Tướng Bùi Thế Lân đã ra lệnh thọc ĐĐ 2 TĐ 8 của Thiếu Úy Trần Như Hùng tiến tới thôn Trung Kiên, chân núi Vĩnh Phong phía Đông QL I và cánh B TĐ 16 TQLC xuống Phú Lộc chế ngự phía Tây QL I để chờ đón đạo quân Tiền Phương rút về Đà Nẵng trên QLI…
Trong lúc BCH TĐ 8 và cánh B TĐ 16 đang đóng tại Phú Lộc và sáng ngày 25/3/1975 tôi và LĐ 258 được lệnh rút về Đà Nẵng, cây Cầu Sông Truồi đã bị Công Binh QĐI phá hủy trong đêm gây trở ngại không ít cho việc tản thương, tôi lội qua Sông Truồi nước trong veo, đi qua Phú Lộc, chúng tôi không thấy một tên VC nào, vậy mà không hiểu lấy tin ở đâu (?) và của ai (?) mà các vị tướng chỉ huy QĐI lại nghĩ là Phú Lộc đã rơi vào tay giặc. Ngày 25/3/1975 các ông ra lệnh cho LĐ 258 rút lui về Đà Nẵng, còn LĐ 147 TQLC và các đơn vị khác thuộc lực lượng Tiền Phương QĐI phải rút bằng Hải Quân tại Thuận An phía Đông Phá Tam Giang. Thế là thảm kịch đã xẩy ra, xác quân ta nằm đầy bãi Thuận An, rất nhiều TQLC không chấp nhận bị VC bắt đã dùng lựu đạn tự sát tập thể, máu quân ta nhuộm đỏ sóng Thuận An, gần như toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐI bị tan rã.
Theo hồi ký của những sĩ quan TQLC sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận An” thì LĐ 147 TQLC được lệnh bỏ khí giới nặng, lương thực, mỗi TQLC 1 khẩu M16 và 1 băng đạn hỏa tốc rút về Thuận An. Ngày 25/3/1975, khi đến Thuận An tàu Hải Quân thì có ngoài khơi nhưng không vào đón, Tướng TL Tiền Phương đã bỏ về Đà Nẵng (!) và Tướng TL QĐI thì “im lặng vô tuyến”. Họ là 2 người duy nhất tại QĐI có thẩm quyền điều động Không Hải Lục Quân của QĐI để cứu LĐ 147 nhưng họ đã không làm gì, cho nên thảm kịch xẩy ra…
Theo các nhân chứng còn sống sót từ cái “Pháp Trường Cát Thuận An” như BS Rậu, BS Khoa, và các sĩ quan TQLC khác thì sáng ngày 25/3/1975 các TQLC của LĐ 147 xếp hàng ngay ngắn trên bãi biển Thuận An chờ tàu vào đón. Ngoài khơi có 1 Hạm Đội Hải Quân, nhưng không chiếc tàu nào vào. Chờ đến chiều thì quân truy kích CSBV đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cát cao chung quanh và dùng đủ loại súng lớn, nhỏ tác xạ vào TQLC đang phơi mình trên bãi cát trống trải. Quân ta hết nước, hết đạn nên bị thất thế đành nằm trên cát chờ chết…
Sáng ngày 26/3/1975 có một chiếc LCU duy nhất vào đón được BCH LĐ 147 gồm LĐT Đại Tá Nguyễn Thế Lương, LĐP Trung Tá Nguyễn Đăng Tống và thương binh. Theo các Quân Y tá LĐ 147 cho biết thì Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y tá TĐ 7 khiêng thương binh lên tàu sau đó anh điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất cả cùng trở xuống để tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 147 thì một hôm Hạ Sĩ Nhất Quân Y Nguyễn Văn Được - người sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có chuyện gì?
-Ổng ấy ngon quá! Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng thương binh lên tàu. Xong việc ổng điểm danh từng y tá TĐ 7 một rồi tất cả xuống tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại nói “BS trở lại thì 100/100 là chết” nhưng ổng trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ đang chiến đấu sẽ có thêm thương bình, anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi ổng xuống tàu đi dưới làn mưa đạn thượng liên của VC, em nhìn mà thấy ớn. Em nói thiệt tình đó ông thầy.
-Thì tao có nói mày không thiệt tình hồi nào đâu! Có điều chú mày bậy thật, Bác Sĩ TQLC không bao giờ đào ngũ trước hàng quân!
Về số phận của BS Giang, hãy đọc hồi ký của MX Cao Xuan Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng:
“Rạng sáng ngày 27/3/1975 tôi còn gặp cả một thằng bạn cũ cùng học với nhau hết bậc trung học ở trường Nguyễn Trãi, Vũ Đức Giang, khi chúng tôi đang bị trói chung bằng một sợi dây điện dài. Tôi ngạc nhiên kêu lên.
-“Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt ở đây?”
-“Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.”
-“Tao hỏi mày làm cái giống gì mà cũng bị bắt ở đây?”
-“Tao Thủy Quân Lục Chiến.”
-“Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày mà cũng dám giết người à? Mà sao ở Thủy Quân Lục Chiến tao không gặp mày?”
-“Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.”
-“Mày bác sĩ à?”
-“Ừ, tao về Tiểu Đoàn 7.”
-“Tội nghiệp thằng bé, mày sợ đời không có gió sương à?”
-“Gió sương gì? Cởi trần ngồi suốt đêm ngoài trời thế này mày bảo không bị gió sương à?”
Trời sáng rõ, mấy tên Việt Cộng gác chúng tôi cầm súng đi qua đi lại trước cổng.”
Giang bị tù tại trại tù Ái Tử-Quảng Trị. Theo hồi ký “Khóc Bạn” của BS Hoàng Thế Định, một người bạn đồng tù với Giang thì trong tù anh vẫn hiên ngang giữ tư cách của một Bác Sĩ Quân Y TQLC sa cơ, không cúi đầu luồn cúi quân thù nên anh bị chúng đầy ải bắt đi lao động khổ sai trong khi các đồng nghiệp của anh được làm trong bệnh xá trại tù. Mùa xuân năm 1977, đa số đồng ngiệp đã có danh sách được thả ngoại trừ Giang. Một kẻ sĩ có tư cách như BS Vũ Đức Giang khi sa cơ bị quân thù làm nhục thì chỉ lấy cái chết để rửa, đêm 30 tết năm 1977 noi gương các anh hùng tiền nhân, Giang đã mượn một liều thuốc độc mạnh tuẫn tiết…
Không bỏ thương binh và đồng đội để tìm đường thoát thân trong hoàn cảnh tuyệt vọng mà cấp chỉ huy Lữ Đoàn và Quân Đoàn đã bỏ đi; tự vẫn để bảo tồn danh dự . Đó là Bác Sĩ Vũ Đức Giang. Trong quân sử thế giới đã có bao nhiêu người làm được như vậy?
2-Bác Sĩ Đặng Tuấn Long, Tiểu Đoàn Quân Y TQLC.
Trái: BS Đặng T Long, Phải: BS Nguyễn Lê Minh.
Biết viết gì về Long đây? Anh đẹp trai, học giỏi con nhà giàu, anh ngang tàng, vui nhộn, giỏi thể thao và hát hay, nếu muốn, anh có thể là 1 BS dân sự mở phòng mạch hốt bạc nhưng anh tình nguyện vào quân đội và để cho “đời trai có chút sương gió” anh lại tình nguyện vào TQLC. Long đi lội TĐ tác chiến gần 2 năm đến đầu năm 1974 thì về TĐ Quân Y…
Một buổi sáng cuối năm 1973, Bác Sĩ Vương Gia Nhơn, Y Sĩ Trưởng TĐ 2 Trâu Điên, không biết ngoại giao ra sao mà “chôm” được chiếc xe Jeep của Tiểu Đoàn Trưởng láng coóng với hai cần câu đến Làng Cọp Biển trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” rủ tôi đi chơi. Tôi đề nghị Nhơn đến TĐ của Long - lúc ấy Long đang lội TĐ tác chiến - đang đóng tại bờ sông Thạch Hãn rủ anh cùng đi. Nhơn ngồi ghế trưởng xa cứ vài phút anh lại phải giơ tay chào lại các TQLC thấy xe VIP đứng nghiêm chào kính, tôi bực mình nói:
-Lần sau cậu lấy cái xe không cần câu đi cho nó thoải mái, chứ cứ chào như vậy cậu sái tay.
BS Nhơn, một tay chơi khét tiếng của các vũ trường Saigon, nổi danh với bước Tango 17, 3/4 mà không em cave nào không ái mộ, từ khi đeo phù hiệu TĐ 2 Trâu Điên thì anh lại càng đào hoa hơn. Mỗi kỳ tiếp tế sĩ quan hậu cứ phải điên đầu sắp xếp cho năm bẩy “em gái hậu phương” mang đồ tiếp tế cho anh mà không đụng độ nhau. Anh là một người hùng, sau 30/4/1975 đi tù nhưng vẫn hiên ngang giữ tư cách của một BS TQLC vì vậy anh đi mút chỉ, sau khi xong tù anh vượt biển và mất tích…
Xe đậu trước hầm trú ẩn của Long, bên cạnh bờ sông, anh đang ngồi ngoài hầm uống rượu một mình, chai đế đã vơi quá nửa, bao Bastos xanh chỉ còn vài điếu, thấy chúng tôi Long chạy đến:
-Các cậu coi chừng, TĐ báo động có thằng VC bắn sẻ bên kia sông…
Tôi nhìn qua sông, cả trăm bụi rậm um tùm, nhưng chúng tôi không phải chờ lâu, một tiếng rít qua tai, viên đạn trúng bao cát trên nóc hầm làm tung tóe cát. Thấy viên đạn trượt đích xa, chúng tôi không thèm ẩn núp, Long lẩm bẩm chứi thề:
-Tổ cha thằng nhà quê, đã bắn dở rồi mà cứ hay bắn, anh chỉ ngón tay tiếp, nó ở bên kia kìa…
Nhìn qua sông tôi không thấy gì nhưng TĐ của Long phản ứng thật nhanh. Một tiếng “đề pa” của khẩu 75 ly không giật, viên đạn nổ bên kia sông hất tung bụi cây, tên bắn sẻ và khẩu súng lên trời, vài tràng thượng liên địch nổ vu vơ, một phát 75 ly thứ hai nổ, khẩu thượng liên câm họng, xác hai tên xạ thủ bay bay… rồi tất cả rơi vào im lặng. Nhìn BS Nhơn tôi lắc đầu:
-Chúng nó chào cái xe có cần câu của cậu đó. Vậy là hết đi chơi! TĐ chắc đang báo động!
Sau khi bảo tài xế đậu xe vào chỗ khuất, chúng tôi vào hầm trú ẩn. Long sai đệ tử mang thêm hai cái ly và chai rượu mới, uống xong vài ly, tôi hỏi Long:
-TĐ tớ sắp về Saigon dưỡng quân, cậu có muốn gửi gì cho em bé hậu phương không?
Long cười cay đắng:
-Tớ bây giờ độc thân tại chỗ, em bé của tớ đi lấy chồng rồi.
Uống thêm ly rượu anh tiếp:
-Mới có mấy tháng trước, em tìm tớ còn nói yêu tớ trọn đời vậy mà tháng trước về phép thì em đã có chồng, em “thanh minh thanh nga” là vẫn yêu tớ, nhưng vì tớ là lính rằn ri không biết sống chết lúc nào mà em không muốn làm góa phụ.
Tôi biết mối tình lãng mạn của Long với một cô bé xinh đẹp sinh viên Luật Khoa tên là H.. có cô chị cũng là sinh viên luật “kỳ đà cản mũi”, vì bà mẹ có tính cổ lỗ sĩ không muốn cô em “lên xe hoa” trước cô chị nên Long phải mang bạn vàng là BS Nghiêm Hữu Hùng “hối lộ” cho cô chị. Từ đó Long và cô H. mới được tự do tình tự. Mối tình của họ thật là đẹp thế mà tự nhiên gãy đổ giữa đường chỉ vì Long theo tiếng gọi của non sông mặc áo rằn để bảo vệ cho cô và những người hậu phương…
Buổi nhậu chỉ chấm dứt khi “người hùng” Vương Gia Nhơn say gục trên bàn…
Đầu năm 1974, TĐ 9 TQLC làm Địa Phương Quân giữ tuyến Triệu Phong - Bích La Thôn - Đê Long Quang, tôi đang buồn vì lâu ngày ở chỗ khỉ ho cò gáy này, xa hẳn ánh sáng văn minh thành thị thì bất ngờ toán tiền đồn Đại Đội Chỉ Huy-TĐ 9 báo tin có 2 Bác Sĩ TQLC đến thăm. Đó là 2 “bạn vàng”, BS Đoàn Trọng Thiên và BS Đặng Tuấn Long. Tôi thật mừng và cảm động biết 2 bạn mình đi bộ hơn 10 km để đến thăm, nhất là khi biết Đặng Tuấn Long khi đến bờ sông Vĩnh Định đã không dùng cầu mà bơi qua sông. Mời bạn vào hầm, tôi nhìn Long lắc đầu:
-Bạn liều quá! Sông Vĩnh Định đầy ma VC, dưới đáy sông là xương cốt của 1 Trung Đoàn 808 VC (hậu thân của Tr. Đoàn 95) bị TĐ 2 giết mấy năm trước đó.
Long cười sảng khoái:
- VC sống tớ còn không sợ nữa là ma VC, chán quá, đi TQLC để đánh nhau mà bây giờ phải làm Địa Phương Quân giữ đất…
- Cậu chiụ khó chờ đi. Tụi VC đang xây con đường Trường Sơn Đông chạy qua gần Thượng Đức- Quảng Nam, thế nào nó cũng nhổ cái gai Thượng Đức, Tướng Trưởng sẽ mang Nhảy Dù về giữ, và để “dương đông kích tây” chúng nó sẽ thọc vài SĐ đánh tụi mình, lúc đó thì tha hồ cho cậu đánh… Mà thôi, nói chuyện đánh nhau nhức đầu, các cậu may, em bé hậu phương mới gửi cho tớ mấy chai rượu và đồ nhậu, hôm nay mình uống cho đã…
Tôi mở thùng quà, bên trong có 2 chai Martell và mấy gói đồ khô, gọi anh đệ tử đưa cho anh một chai và thùng đồ nhậu, bảo anh làm đồ nhậu rồi chia 2, nửa cho ban cứu thương, nửa cho tụi tôi, Long mở chai rươu rót vào 3 cái ca nhà binh rồi không đợi ai mời anh uống một ngụm lớn, khà một tiếng anh nói:
-Thơm, ngấm tới đâu sướng tới đó.
Hít một hơi Bastos xanh anh tiếp: kìa 2 cậu uống đi chứ.
Chúng tôi cụng ly, uống lai rai, tâm sự đủ mọi chuyện, chẳng mấy chốc mấy đĩa mồi thơm được dọn ra, Long và Thiên đều khen “em gái hậu phương” của tôi đảm đang, đi chợ giỏi, chừng nào thì “cưới”, tôi vội cải chính:
- Cưới gì, mình đi lính sống chết giờ nào không biết, lấy vợ chỉ làm khổ người ta. Mấy tháng trước TĐ về Saigon dưỡng quân, có một em học Văn Khoa thấy tớ là dân rằn ri tưởng không biết gì nên em mang bài thơ “Khóc Bằng Phi” của Vua Tự Đức ra khoe là bài thơ tình đầu tiên của văn học sử Việt Nam. Tớ nói em sai rồi, bài thơ tình đầu tiên hiện hữu trên văn học Việt Nam là bài thơ tình của Cụ Nguyễn Trãi gửi bà Thị Lộ gần 400 năm trước bài Khóc Bằng Phi. Cô bé không tin bắt phải chép ra. Tớ ra điều kiện là sẽ chép để em vào thư viện kiểm chứng, nếu đúng thì em phải trả tớ rượu và đồ nhậu vì lính xa nhà chỉ cần 2 thứ đó, em bằng lòng cho nên hôm nay các cậu mới có rượu uống.
Thiên trầm ngâm xoay xoay ca rượu:
-Các bậc đế vương và vĩ nhân khi đau khổ tột cùng mới làm thơ, và thơ của họ thường khác người. Như trong bài Khóc Bằng Phi vua Tự Đức đã có hai câu thơ để lại cho hậu thế: ”Đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hơi.”. Tớ chưa biết bài thơ tình của Cụ Nguyễn Trãi, cậu đọc đi.
- Bà Thị Lộ là vợ bé của Cụ Nguyễn Trãi, bà tằng tiụ với Vua Lê Thái Tông thua bà nhiều tuổi, nhà vua mê bà quá nên kéo bà về kinh đô Thăng Long, phong bà một hư chức Lễ Nghi Học Sĩ để dậy cung nữ trong cung nhưng sự thực để 2 người được tự do tình tự. Cụ Nguyễn Trãi lúc đó về hưu tại Côn Sơn - Hải Dương, nhớ vợ quá làm một bài thơ, vì bài thơ làm đã quá 500 năm, các tác giả viết lại có những câu hơi khác nhưng đại ý thì cũng như nhau:
- Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
( Tạm dịch: mạo muội thử hỏi khách lầu son.),
- Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng,
- Ngoài ấy ví dầu còn áo lẻ
(Ngoài ấy: ngoài kinh đô, ví dầu:
nếu như có, áo lẻ:áo mặc trong?)
-Cả lòng mượn lấy đắp cho cùng.
(Cả lòng: rộng lượng, rộng lòng)
Long cười:
-Bà Thị Lộ là gốc bán chiếu gon, tức là mari-sến thì biết quái gì về lễ nghi mà dậy cung nữ, chắc là bà dậy chuyện phòng the, cái truyền thuyết đối đáp trong bài thơ” Cô Bán Chiếu Gon” có lẽ do Cụ Nguyễn Trãi làm cho bà, còn bài thơ này thì đã trên 500 năm trước tuy hay nhưng khó hiểu quá.
Chẳng bao lâu, rượu và thịt cũng cạn, Long nốc ngụm cuối cùng rồi nói:
-Lâu lắm mới có ngày vui như vậy. Nói xong anh nổi hứng với cây đàn Guitar, so lại giây, giữa cảnh đồng quê hoang vắng tiếng đàn thánh thót nổi lên, giọng ca cao và buồn:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai. Sông xa từng lớp lớp mưa dài. Mắt em, ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh… Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều luân lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây. Buồn viễn xứ khôn khuây…
Hát xong, Long rủ Thiên về:
-Bọn tớ phải đến Hương Lộ Buồn Hiu nhìn cảnh hoàng hôn tại đó, xem nó buồn như thế nào.
Tôi không cản, tiễn hai bạn tới cổng trại chỉ hướng:
-Năm 1953 quân Pháp từ các làng ven biển phía Bắc Phá Tam Giang như Vân Trình-Mỹ Thủy-Gia Đẳng tiến quân theo Hương Lộ 555 được nửa chừng thì bị Trung Đoàn 95 VC chận đánh không tiến được,cho nên tớ nghĩ “Street Without Joy” của Bernard Fall là giải đất một cạnh là nửa Hương Lộ 555 phía biển, cạnh kia là vùng bờ biển Bắc Phá Tam Giang gồm các làng Vân Trình-Mỹ Thủy-Gia Đẳng. Các cậu đi qua bãi cát này sẽ gặp Hương Lộ 555, rẽ trái hướng ra biển đến làng Mỹ Thủy thì các cậu đã đến nơi. Đến Mỹ Thủy trời đã tối các cậu nên ngủ tại ĐĐ Quân Y LĐ 258, có BS Nguyễn Lê Minh ở đó.Thôi hẹn gặp lại.
Tôi chẳng bao giờ gặp lại Long. Sau 30/4/1975 tôi đi tù tại Trảng Lớn- Tây Ninh, BS Đặng Tuấn Long đi tù tại trại tù Kà Tum vốn là mật khu VC gần biên giới Tây Ninh- Miên. Theo anh Phạm Trung Kiên một người bạn cùng tù kể lại thì trong tù Long vẫn hiên ngang giữ khí phách của một Bác Sĩ Quân Y TQLC, không sợ bọn quản giáo, sẵn sàng “kê tủ đứng vào họng chúng” vì vậy Long bị chúng trù dập, hết đánh đập lại đến chuồng cọp. Long biết rằng cái đau nhất đối với bọn quản giáo VC là để tù trốn thoát nên anh đã âm thầm sửa soạn vượt ngục, ôn lại những bài học “mưu sinh thoát hiểm” của TQLC, anh cũng biết rằng vượt ngục tại Kà Tum thì 9 phần chết 1 phần sống nhưng anh không sờn lòng. Tháng 5/1978 Bác Sĩ Đặng Tuấn Long đã vượt ngục một mình và từ đó đến nay không còn ai biết tin tức của anh.
CÂU CHUYỆN TAN HÀNG CỦA QĐI VÀ SỰ MẤT TÍCH CỦA MỘT BS TQLC .
Sau khi bị mất gần sạch Quân Đoàn I Tiền Phương, chúng tôi rất hoang mang vì sự im lặng khó hiểu của cấp chỉ huy QĐI. Tối ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng mở 1 cuộc họp các Tư Lệnh Sư Đoàn và Quân Binh Chủng của QĐI, vì lý do tình cờ tôi đã có mặt trong buổi họp này. Tại đây trước sự kinh ngạc của mọi người tham dự, Tướng Trưởng tuyên bố “mình rút đêm nay” mà chẳng cho lệnh lạc hay kế hoạch gì hết.
Chỉ huy QĐI có 3 vì Tướng: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh, Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc-Tư Lệnh Phó, Trung Tướng Lâm Quang Thi- Tư Lệnh Phó kiêm Tư Lệnh Tiền Phương. Thiếu Tướng Lạc đả bỏ về Saigon hôm 26/3/1975 rồi vì lý do “kẹt máy bay” không trở lại (trích CTTB, Hồ Văn Kỳ Thoại trang 273), Trung Tướng Thi, sau buổi họp đêm 28/3/1975 dùng trực Thăng bay ra chiến hạm HQ5 lúc 10.40 pm, còn Trung Tướng Trưởng bay về Non Nước nơi có Bộ Chỉ Huy SĐ TQLC để rồi sáng hôm sau, ngày 29/3/1975, ông là người đầu tiên lội ra chiến hạm HQ404. Trước khi đi ông đã nói với Đại Tá Nguyễn ThànhTrí Tư Lệnh Phó SĐ TQLC: “coi như đây là một cuộc tự thoát”.
Tính cho đến sáng ngày 29/3/1975 toàn thể 3 vị tướng chỉ huy QĐI đã bỏ tất cả những gì còn lại của QKI để ra đi. QĐI như rắn mất đầu và hỗn loạn đã xẩy ra…
Tướng Lân Tư Lệnh SĐ TQLC và Tướng Thoại Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải bị lạc trong dẫy núi Sơn Trà, nơi có một trung đội Đặc Công VC đang đi tìm hai ông, may mắn được “tự thoát” vì tình cờ có 1 thuyền nhỏ của HQ đi qua, nghe thấy tiếng gọi của Tướng Thoại nên vào cứu.
Tướng Khánh Tư Lệnh SĐI Không Quân bị lạc tại một bãi biển hoang vắng “tự thoát” bằng cách chiếu đèn pha trực thăng làm hiệu nên được HQ802 vào cứu.
Tướng Hinh Tư Lệnh SĐ 3 BB cùng gần 1000 binh sĩ được “tự thoát” vì có 1 chiến hạm tình cờ nhìn thấy vào đón…
Đó là những người may mắn. Trên 90/100 quân số QĐI không “tự thoát” được, họ bị giết bởi đạn thù hay đạn bạn, bị chết đuối trên biển, họ tự tử tập thể bằng lựu đạn hay mìn Claymore, số còn lại bị VC bắt làm tù binh. Tướng Điềm Tư Lệnh SĐI BB trên đường “tự thoát” bị tử trận tại Chu Lai, 8000 trong số 12.000 TQLC đã không “tự thoát” được. Ngày 29/3/1975 trên bãi biển Non Nước là một địa ngục trần gian không khác gì cái “Pháp Trường Cát Thuận An” 3 ngày trước… Trong số 4000 TQLC đã “tự thoát” được thì ngoại trừ gần 2000 TQLC của Lữ Đoàn 468 may mắn được tầu HQ đón,còn đa số chỉ còn quần xà lỏn bơi ra tầu HQ cách bờ trên dưới 1 km, đây là con số cao nhất so với các đơn vị bạn tại QKI.
Ngày 29/3/1975 Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369 TQLC, Trung Tá Đỗ Hữu Tùng Lữ Đoàn Phó LĐ 369 TQLC và Bác Sĩ Cao Mạnh Thăng Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 369 là 3 người trong số 8000 TQLC được ghi nhận mất tích tại Đà Nẵng. Khi về đến Cam Ranh rồi Vũng Tầu và cho đến tận bây giờ vẫn không ai tìm thấy hay nghe tin tức gì về 3 người này…
Trên đây là những hy sinh của Quân Y TQLC, còn nhiều hy sinh khác mà tôi không biết đến nên không kể ra. Chúng tôi đã cùng anh em TQLC “12 tháng anh đi” tăng phái cho cả 4 vùng chiến thuật, đánh những trận ác liệt nhất với các đơn vị hàng đầu của địch, và rồi...cũng chết như những người khác!
Dù rằng đã bị bỏ rơi và tan hàng tại QKI ngày 29/3/1975, nhưng khi về đến Vũng Tầu chúng tôi đã tái tổ chức và tiếp tục chiến đấu bảo vệ đất nước cho đến ngày 30/4/1975.
Tuy rằng phải chịu trăm cay ngàn đắng và tổn thương nhiều nhất so với Quân Y các đơn vị bạn nhưng trong suốt chiều dài của cuộc chiến, các Bác Sĩ Quân Y TQLC không có ai đào ngũ trước hàng quân.
Viết cho ngày Đại Tang thứ 40 của Binh Chủng TQLC
BS TQLC Phạm Vũ Bằng.
No comments:
Post a Comment