TRUNG CỘNG ĐÃ DỒN HẾT TIỀN CƯỢC VÀO HÀ NỘI
- "Không thể lấy bàn tay che mặt trời” và “không có lửa, sao có khói”.
- “Nếu buộc phải ngửi cứt thì nên ngửi cứt Tây, không nên ngửi cứt Tàu” -- Ông HCM đã trả lời trong một phỏng vấn của một nhà báo phương Tây. Đúng là ghét của nào trời cho của nấy.
Tôi đăng lại bài này để các bạn hiểu thêm về SỰ GIÚP ĐỠ TOÀN DIỆN của TC nhằm giúp CSVN nhuộm đỏ Đông Dương (từ 1949-1975) mà hậu quả là VN ngày càng lệ thuộc vào TC.
===========
Lời mở đầu: Trước đây, trên đài BBC đã có bài nói về sự tham dự của quân TC trong trận Điện biên phủ 1954 -- do các viên chức TC phổ biến.
Bài dưới đây dịch từ quyển Looking Back on the Vietnam War của William Head, ấn bản 1993 (từ trang 106-114). Tác giả W. Head đã dựa vào các tài liệu mà một phần lấy từ báo chí chính thức của TC. Theo tôi nghĩ bài viết này đã nêu được nguyên nhân chánh dẫn đến thái độ trịch thượng và đàn anh của TC trong thời gian qua.
Ba dấu chấm trong ngoặc (…) tượng trưng cho những đoạn nói về chính trị giữa hai phe trong cuộc chiến VN, tôi xin lược bỏ vì nghĩ rằng điều này không làm thay đổi ý tưởng của tác giả W. Head. Sau đây là phần chuyển ngữ.
======
I/ TRUNG CỘNG ĐÃ DỒN HẾT TIỀN CƯỢC VÀO HÀ NỘI
“Trong những năm đầu của thập niên 1960, Bắc VN đã là một trong những đồng minh về chính trị và quân sự thân thiết nhứt của Bắc kinh (BK). Khi cuộc khẩu chiến giữa TC và Liên Xô (LX) leo thang, và khi LX dưới thời Krushchev nhích từng bước tiến tới sự không can dự vào cuộc xung đột đang leo thang ở Đông dương thì Hà Nội (HN) ngày càng ngã theo BK. Vào khoảng đầu năm 1964, HN đã thực sự đứng hẳn về TC khi phong trào CS quốc tế đã tách làm hai nhánh. Khi Krushchev mất chức và Mạc tư Khoa theo đuổi một chánh sách can thiệp mạnh hơn dưới thời Kosygin và Brezhnev, thì dù cho HN đã cố gắng giữ khoảng cách bằng nhau đối với hai đàn anh nhưng quan hệ HN-BK vẫn luôn luôn thắm thiết. Theo lời ông Hoàng văn Hoan (từng là phó chủ tịch quốc hội VN), cho tới năm 1968, HN luôn thỉnh thị ý kiến BK trước khi quyết định một việc gì quan trọng (4). Tóm lại Mỹ đã lâm chiến với một trong những đồng minh thân thiết nhứt của TC. Ảnh minh họa:
. .
Trọng lượng của quyền lợi của TC tại bắc VN đã được phản ảnh qua quy mô của hỗ trợ của TC đối với HN trong cuộc chiến. Theo BK, giữa 1950 và 1978, TC đã cung cấp chiến cụ tương đương với hơn 20 TỈ ĐÔ LA cho bắc VN. Số lượng này gồm vũ khí, đạn dược, và quân trang quân dụng đủ trang bị cho 2 triệu binh sĩ. Chỉ trong năm 1962 thôi, nhằm nâng cấp khả năng chiến đấu cho lực lượng CS tại nam VN để đối phó với những cố gắng chống du kích của Mỹ và VNCH, TC đã cung cấp 90.000 súng máy và súng trường. Theo những tiết lộ sau cuộc chiến, TC đã cung cấp sự hỗ trợ SỐNG CÒN cho bộ máy hậu cần (tiếp vận) của bắc VN gồm việc cung cấp hơn 30.000 xe tải, 2 triệu tấn xăng dầu, và sửa chữa 900 km đường xe lửa. TC cũng cung cấp cho HN một số lượng lớn đường ray, đầu máy và toa xe lửa; đã trang bị toàn bộ cho vài trăm nhà máy cho bắc VN; và đã cung cấp hơn 300 triệu mét vuông vãi và 5 triệu tấn gạo; cộng với một số lượng lớn lao những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của dân chúng bắc VN. (Thời gian đi tù ở miền Bắc từ 1977-81, tôi nhận thấy các nông cụ trong các trại tù đều sản xuất tại TQ; lương khô 701, quần áo, mền, kể cả quần đùi cho tù; áo khoác dài mùa đông 2 lớp cho CA cũng của TC.- Tài). TC cũng cho HN ngoại tệ mạnh tương đương vài trăm triệu đô (6).
. . .
Có thêm những sự kiện quan trọng nói lên sự hỗ trợ mạnh mẽ của TC cho HN trong giai đoạn giữa thập niên 1960 (12).
Thứ nhứt, vào MÙA XUÂN 1966, gần 50.000 lính TC đã có mặt tại bắc VN để điều khiển súng phòng không, điều hành công tác hậu cần và sửa chữa các tổn thất do bom gây ra. Theo thống kế chính thức của TC, giữa tháng mười 1965 và tháng ba 1968 (khi quân TC đã rút đi) có tổng cộng hơn 320.000 quân TC đã phục vụ tại bắc VN với năm cao nhứt lên tới 170.000 người (13). Không quân của bắc VN đã xử dụng các sân bay ở nam TC. Một hệ thống ra-đa bao gồm các trạm ở nam TC đã được lập để bảo vệ không phận bắc VN cũng như theo dõi và cung cấp các hoạt động của không quân Mỹ cho KQ của bắc VN.
Ảnh minh họa:
Thứ hai, các đơn vị giải phóng quân của TC được đưa vào bắc VN vẫn mặc quân phục chính quy, giữ nguyên phù hiệu của đơn vị và đã xử dụng cách liên lạc thông tin không có độ an ninh cao. Họ cố tình cho người Mỹ biết ý định và quyết tâm của họ trong cuộc chiến VN.
Thứ ba, trong một số trường hợp, máy bay TC đã giao chiến với máy bay Mỹ khi họ lỡ xâm nhập vào không phận TC để truy kích đối phương: BK cho biết đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ và gây hư hại cho 2 chiếc khác. Dù cho thông tin này cũng như thông tin về số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên bắc VN bởi máy bay bắc VN – nhưng do phi công TC lái – không được một nguồn tin độc lập kiểm chứng, nhưng điều này có thể đã xảy ra.
Theo những báo cáo sau này của TC, thương vong của quân TC, phục vụ tại bắc VN, do bom Mỹ gây ra khoảng 20.000 người gồm chết và bị thương.
Thứ tư, quân TC đã xây một khu phức hợp lớn lao, với hầm hào kiên cố tại Yên Bái (khoảng 140 km tây bắc HN), nằm trên đường xe lửa từ Côn Minh đến HN dọc theo sông Hồng. Khu phức hợp này với những súng cao xạ đặt trong hang cũng như trên đường ray cộng với một phi đạo lớn, hình như được thiết kế để làm một thủ đô dự phòng trong trường hợp HN bị thất thủ bởi một cuộc tấn công của quân Mỹ và VNCH, hoặc để làm một căn cứ cho quân TC trong trường hợp quân TC can thiệp ồ ạt và công khai vào cuộc chiến VN.
. . .
Vào cuối năm 1967, vùng đệm/cấm bay, đối với phi công Mỹ, dọc theo biên giới Trung-Việt đã thu hẹp còn 5 km. Để đáp lại sự bành trướng này của KQ Mỹ, số sư đoàn phòng không của TC ở bắc VN đã tăng từ hai lên ba (24). “
CHÚ THÍCH :
4 . Hoàng văn Hoan, “Sự phản bội tình hữu nghị Việt-Trung của Lê Duẫn“, sách bằng tiếng Hoa, (BK : nhà xuất bản Nhân dân , 1982).
6 . Hoàng văn Hoan, “Không được phép bóp méo sự thật về tình hữu nghị Việt-Trung trong thời chiến”, (BK : Nhân dân nhật báo, ngày 27/11/1979): trang 1, 5.
12 . Allen Whiting, The Chinese Calculus of Deterrence, 1975: trang 170-95.
13. Nhân dân Nhật báo, BK, ngày 21/11/1979: trang 4.
24 . Theo thư của Allen Whiting gửi cho tác giả, ngày 9/4/1991.
II/ THÔNG TIN THÊM VỀ QUAN HỆ VIỆT TRUNG
A/ Quân viện của TC cho CSVN, chỉ so sánh giữa năm 1964 với 65.
- Súng nhỏ (gun): tăng 2.8 lần, từ 80,500 lên 220,767 khẩu.
- Súng đại bác (piece of artillery/có lẽ kể cả cối 61 ly, 82 ly, 120 ly và súng không giật 57 và 75 ly -- người dịch): tăng khoảng 3 lần, từ 1.205 lên 4.439 khẩu.
- Đạn súng nhỏ (gun bullet): tăng gần 5 lần, từ 25.2 triệu lên 114 triệu viên.
- Đạn đại bác (artillery shell): tăng gần 6 lần, từ 335.000 đến 1.8 triệu viên.
Giữa năm 1966-67, nguồn quân viện này giảm nhẹ so với năm 1965 trước khi đạt cao điểm vào 1968. Từ 1969-70, giảm mạnh khi Bắc Kinh rút lực lượng hỗ trợ khỏi miền Bắc VN. Nhưng tới năm 1972 lại có sự tăng gia quân viện cho bắc VN, hậu quả của quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
B/ Một chi tiết khác.
Năm 1967, để giúp đỡ cho 1.890 quân chính quy CSBV tại Thượng Lào, ngoài súng đạn và quân dụng, TC đã giúp: 5.670 bộ quân phục (ba bộ mỗi năm cho một người), 5.670 đôi giày (3 đôi mỗi năm cho mỗi người), 567 tấn gạo (0.8 kí mỗi ngày cho mỗi người), 20.7 tấn muối , 55.2 tấn thịt (meat), 20.7 tấn cá, 20.7 tấn mè và đậu phộng, 20.7 tấn đậu, 20.7 tấn mỡ, 6.9 tấn xì-dầu, 20.7 tấn đường trắng, 8.000 bàn chải răng, 11.100 ống kem chải răng, 24.700 cục xà bông thường, 10.600 cục xà bông thơm, và 109.000 gói thuốc lá. Tổng cộng có 687 món khác nhau bao gồm banh bóng bàn, bóng chuyền (volley ball), kèn harmonia, bộ bài tây, kim gút, mực viết máy (fountain pen ink), kim máy may (sewing needle), và hạt giống rau cải (vegetable seed); xem chú thích 28.
C/ Dựa theo báo cáo về "cuộc sống khó khăn của lính CSVN" của các ký giả TC khi họ thăm các đv CS tại vùng núi của Nam VN vào năm 1965, tháng 11/65 Mao ra lịnh "phải gửi mùng, quần áo, thịt hộp (canned food), thịt xấy (dried meat), thuốc, quần áo kỵ nước (có lẽ bằng ni-lông -- người dịch), võng, và các thứ khác với số lượng lớn" cho những đv này. Chu ân Lai nói rõ, các thứ này phải "dễ dùng, dễ mang và dễ giấu". Ông yêu cầu các thùng quân trang quân dụng này ko nặng quá 30 kí vì các phụ nữ VN ko thể mang trọng lượng như vậy trên đầu hay vai", xem chú thích số 30.
Dịch từ: China & the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, nxb The University of North Carolina Press.
III/ CẬP NHẬT THỨ NHỨT.
Để giám sát việc chuyển vận quân viện cho VNDCCH, Bắc Kinh trong năm 1965 lập một nhóm lãnh đạo đặc biệt với đại tướng La Thụy Khanh (Luo Ruiqing), tổng tham mưu trưởng Giải Phóng Quân TQ từ 1959-65, làm giám đốc:
Quân viện cung cấp bởi TC, LX, và các nước XHCN khác được chở bằng xe lửa đến các TP gần biên giới VN, như Bằng Tường (Ping Xiang) tỉnh Quảng Tây, nơi mà chúng được chở sang VNDCCH bằng xe lửa hay xe tải. Chẳng bao lâu những quân viện này đã quá khả năng vận chuyển của VN, và các ga xe lửa và nhà kho TQ đầy ấp quân viện này. Bắt đầu năm 1967, TQ đã dùng hơn 500 xe tải để giúp chở những hàng này vào VNDCCH.
Để đẩy mạnh việc vận chuyển quân viện đến Nam VN, TQ đã lập một đoàn tàu biển bí mật để chở hàng hóa tới vài đảo ngoài khơi miền trung VN để chuyển tiếp tới miền nam. Một cảng bí mật được lập tại đảo Hải Nam để phục vụ đoàn tàu biển này. Bắc Kinh cũng mở một đường biển rất tốn kém tới KPC để chuyển vũ khí, đạn, thực phẩm, và thuốc men cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc tại Nam VN. Giữa 1965 và 1967, vũ khí TQ trang bị cho 50.000 quân đã tới cảng Sihanoukville. Một số vũ khí này trang bị cho quân đội KPC.
Biểu đồ (chart) dưới đây cho thấy tầm mức của quân viện từ 1964-1975 của Bắc Kinh cho VNDCCH: Quân viện của TQ cho Bắc VN tăng nhanh trong năm 1965.
NHẬN XÉT: Trước đây, các tỉnh ven biển miền Trung VN thỉnh thoảng thấy những bao gạo 50 kí, bọc ni lông kín nước, của TC tấp vào bờ . Thời gian đi tù ở miền bắc từ 1977-81, tôi thấy trong các HTX nông nghiệp, các nông cụ đều làm tại TC. Quần áo của tù cũng như của CA cai tù gồm cả quần đùi, áo khoát đi mưa và áo khoát mùa đông, v.v... của CA đều làm tại TC.
Riêng quân trang của bộ đội chính qui Bắc Việt từ đầu tới chân đều do TC sản xuất.
Lúc được chuyển trại bằng tàu từ nam ra bắc, chúng tôi được phát lương khô 701 của quân đội TC, xem hình, làm từ các loại bột như đậu xanh, v.v... nghiền nát và trộn với đường và đóng thành bánh, rất bổ dưỡng. Có thể ăn liền hay nấu thành chè rất dễ dàng.
Dịch từ : China and Vietnam war , 1950-1975.
(còn tiếp)
IV/ CẬP NHỰT THỨ HAI
"NHƯ CÁ TRONG NƯỚC: theo công thức của Mao, quân đội cách mạng của CSVN với đồng phục xanh lá cây và nón cối đang 'bơi lội trong dân'. Ở đây, tại sân vận động Đà Nẳng, 100.000 khán giả đã được tập họp cho buổi diễn hành lớn cho chiến thắng."
Dịch từ tuần báo Paris-Match số đặc biệt về 30.4.75.
Nhận xét: ngoài các biểu ngữ bằng tiếng Việt, đã xuất hiện biểu ngữ bằng tiếng Hoa; có lẽ nhằm báo cáo thành tích với đàn anh TC. Không rõ ngày chụp nhưng phải sau ngày 30.3.75, ngày Đà Nẳng lọt vào tay quân CSBV.
Ngày 11 tháng 4 2024.
No comments:
Post a Comment