Dù mọi người hết lòng nhưng ko cứu được người lính trẻ này.
(Một chuyện chứa chan tình người trong thời chiến ở Irak, nói lên tấm lòng và cách làm việc của những ng lính QY Mỹ.- Tài)
. . .
"Gần giữa khuya khi chúng tôi tới hiện trường , bay vòng vòng trong khi phi công quan sát cái gì bên dưới. Xe Humvee rọi đèn pha để tạo bãi đáp trên con đường vắng. Các binh sĩ hướng mũi súng vào bóng tối, sẵn sàng đối phó với mọi tấn công. Chúng tôi đáp xuống trong đám mây bụi nóng. Ng bị thương đang nằm trên băng-ca và đã được cởi hết áo. Bốn hay năm đồng đội mang băng-ca tới trực thăng và vội vàng đẩy anh vào bên trong. Anh ta không còn nhịp đập/mạch. Mitchel bắt đầu làm hồi sức tim phổi (CPR). Máy bay cất cánh về Baghdad.
Anh này có lẽ 20 tuổi. Gầy và cao lêu nghêu (lanky), với vai có chỗ u/phồng (knobby). Đèn xanh trong phòng lái lướt vội qua ngực của anh, tay phải thì buông thòng (flop off) xuống dưới băng ca. Mitchell chuyển động như pít-tông trên anh ta. "Tỉnh lại đi, bạn ơi," ông nói. "TỈNH LẠI ĐI, BẠN ƠI." Mồ hôi từ ông đổ xuống từng giọt dài (long bead). Dù cho cửa mở, máy bay ở độ cao 200 bộ, nhiệt độ vẫn trên 100 độ Farenheit (37,78 độ C). Sức nóng, sức nặng của áo giáp, và nhịp độ điên cuồng của CPR làm cạn kiệt ông. Ông mệt đừ, không còn hiệu quả. Sau 10 phút, trưởng toán cấp cứu Erik Burns thế Mitchell. Rồi tôi thế Burns.
Người quân y phải dùng mọi nguồn lực có sẵn , và đêm nay tôi là một ng quân y. Tôi đã nhét 15 băng ép (compression). Ngực ng lính có vẻ sẵn sàng vỡ ra (crack). Tôi dồn hết sức nặng vào đó, ngay trên tim, xương sườn của anh oằn (buckle) dưới tay tôi. Mitchell sụp xuống (slump) bên cạnh tôi. Chúng tôi đang cứu thằng bé này, tôi nghĩ. Tôi phải làm điều này. Chúng tôi bay về Baghdad, trên những cánh đồng phẳng . . .
Chúng tôi đáp xuống một bãi đáp bên ngoài BV Ibn Sina tại Baghdad. 2 y tá phóng mình (duck across) qua bãi đáp, bộ đồ mổ (scrub) của họ đập phần phật (flap) bởi cánh quạt trực thăng. Họ đưa anh lính này tới phòng chấn thương. BS và y tá bu quanh (swarm) anh. Vài ng tiếp tục CPR, vài ng luồn ống vào cổ họng, đo mức oxy trong máu, kiểm tra con ngươi/đồng tử (pupil) bằng đèn pin. Mitchell đứng gần đó, nón sắt kẹp nách đang giải thích (download) những gì anh biết cho một y tá. Cái đầu hói của ông sáng bóng với mồ hôi. Tiếng bíp của máy kiểm tra (monitor), tiếng thở hắt ra (gasp) của các máy thở, tiếng xé rách của băng cứu thương.
"Máu đang trào ra khỏi tai anh ta!", một BS nói.
"Nè! Tôi bắt được nhịp!", ng khác reo lên. Đã 5 phút tính từ lúc chúng tôi tới.
Mitchell nghiến răng (grit) và vung tay. "Vâng" .
"Tôi đã nói," ông nói, dậm chân. "Không ai chết trên trực thăng của tôi."
Rồi không khí trong phòng thay đổi. Các BS đã chợt hiểu đựơc điều gì. Chỉ có một nhịp đập duy nhứt mà thôi. Người lính đã ko phản ứng với kích thích (stimuli), cho thấy ko còn sự sống. Có một câu hỏi là phải làm gì bây giờ . Nhưng Mitchell phải đi, nhanh chóng báo cáo, và chúng tôi bay về căn cứ để chờ cấp cứu cho thương binh.
Khi đáp xuống đất, chúng tôi biết được số phận của anh. BS đã phát hiện một mảnh kim loại nằm sâu trong óc. Họ quyết định có mổ cũng vô ích . BV duy nhứt có thể chữa được vết thương não loại này thì quá xa, trên một nơi khác ở Iraq. BS chích thuốc giảm đau, để giúp anh ko bị đau, (nếu anh còn cảm thấy), và chờ tim anh ngừng đập. Đối với Mitchell, tia sáng của hân hoan của anh đã phụt tắt. Với cái nhìn trống rỗng (blanky), ông ta bỏ đi, ko nói gì. Không phải luôn luôn mọi việc kết thúc như thế. Nhưng có những ngày toán cấp cứu tiền phương phải đối mặt với điều này, những ngày mà họ ko bao giờ quên như hôm nay."
. . .
Tạm dịch từ: NGS Dec 2006.
No comments:
Post a Comment