Wednesday, February 10, 2021

 

Khóc Bạn (Về cái chết của một bác sĩ)

Hoàng Thế Định

 Dưới đây là một trích đoạn trong hồi ký của chúng tôi.

 *

“…Huế, những ngày tháng 3 năm 1975.
Căn cứ Giạ-Lê, Tổng Hành Dinh Sư-Đoàn 1 Bộ-Binh.

Tại đơn vị Tiểu-Đoàn 1 Quân-Y, bác-sĩ Bùi Hữu Út, tiểu đoàn trưởng đi họp ở Bộ Tham Mưu Sư-Đoàn, tôi tạm thay thế để điều động đơn vị dù chưa chính thức bổ nhiệm tiểu-đoàn-phó.

Điện thoại reo, hạ sĩ quan quân cảnh ở cổng Bộ Tư Lệnh báo là có một bác sĩ Thủy Quân Lục Chiến muốn vào gặp tôi, chưa rõ là ai, nhưng nghe bác sĩ quân y, tôi vui mừng mời vào. Trong khi chờ đợi, tôi thầm đoán có lẽ đây là vị bác sĩ TQLC đã từng dẫn toán quân y của anh đến cùng làm việc với toán của tôi trong mấy cuộc hành quân phối hợp Việt-Mỹ vào những năm 71, 72 tại 18th Surgery Hospital của quân đội Hoa-Kỳ tại Ái-Tử Quảng-Trị.

Đến khi gặp người bác sĩ trẻ và lạ, tôi hơi bỡ ngỡ, bác sĩ Giang tự giới thiệu khi bắt tay tôi. Trong khi mời uống nước, tôi tò mò hỏi Giang:

– Làm sao Giang lại biết tôi?

-Tôi nghe một số đàn anh bên Nhảy Dù nói anh là tay đàn guitare Classique điêu luyện và chơi cả Flamenco nữa, nên tôi tìm đến xin anh cho thưởng thức.

-Thế anh Giang thích bài nào? Tuy trong tình trạng chiến tranh nầy tôi vẫn rất sẵn sàng làm vui lòng bạn mộ điệu.

-Tôi nghe bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiêu nói anh chơi bản Romance hay lắm, tôi có nghe Đỗ Đình Phương độc tấu guitare bài nầy qua radio, nhưng lại không có đoạn introduction.

-Đúng vậy, tôi may mắn có đoạn introduction do Vincent Gomez soạn, bản in từ Paris và ông ta ghi đề bản nhạc là Jeux Interdits cùng với chữ “Romance d’Amour” trong dấu ngoặc đơn.

-Thế chắc anh học trường nhạc từ lâu?

-Không, thật ra tôi chẳng học trường nhạc nào cả, từ 11 tuổi, tôi tự học guitare theo sách Caruly và Léo Laurant, gia đình tôi đều chơi nhạc.

Giang ngồi chăm chú, vừa nghe vừa theo dõi từng ngón tay của tôi, dứt bản đàn, Giang còn yêu cầu tôi chơi lại đoạn introduction.

-Có dịp, tôi sẽ chép lại cho anh đoạn nhạc nầy, Giang cũng chơi guitare?

-Không, tôi không biết đàn, nhưng biết thưởng thức nhạc.

Trong câu chuyện khi hỏi về gia đình Giang cho biết anh còn mẹ và hai em ở Sài-Gòn, Giang còn thổ lộ với tôi rằng anh rất mong được phép về thăm nhà dù mình mới bổ dụng ra đơn vị không bao lâu.

Lần đầu gặp gỡ tôi đã cảm thấy mến Giang lạ lùng, dù trong bộ quân phục rằn ri, Giang vẫn toát ra một tính chất nho nhã, hiền lành và lãng mạn. Giang và tôi lại cùng một cảnh ngộ chỉ khác là vợ con tôi đang lánh nạn tại Đà-Nẵng xa vùng chiến tuyến đang ác liệt, người yêu của Giang thì ở mãi tận Sàigòn.

-Và bây giờ, mình chơi bản nầy tặng cậu nhé, bản Letter à Elize (Fur Eliz) của Beethoven, chắc Giang biết bài nầy?

-Vâng, vâng, xin anh! Tôi có nghe bản nầy nhưng với đàn Piano, và… tôi lại có kỹ niệm đẹp qua bài nầy.
Rõ ràng Giang đang lắng hồn trong ý nhạc của Beethoven viết khi chờ đợi Elize, cô học trò dương cầm mà ông yêu. Ngưng đàn, tôi khẽ hát: “Au dernier rayon du solei dort…”

Nhạc đã dừng nhưng Giang vẫn còn ngồi im thả hồn về đâu, mắt anh chớp chớp, tôi nghĩ là anh đang nhớ nhà, nhớ người yêu…

Thật ra, lúc đó, bên ngoài xa vẫn vang vọng tiếng hỏa tiển 122 ly của Việt-Cộng đang nả vào vòng đại căn cứ Sư-Đoàn 1.

Một lúc sau, Giang ngẩng lên nhìn tôi, thoáng ngượng ngùng, anh kéo chiếc ghế đang ngồi để phá tan không khí im lặng đó, chính tôi cũng tự trách mình đã để âm nhạc du lòng người bạn trẻ mềm yếu và buồn nhớ, dù chỉ là nhất thời.

Tôi lại cầm đàn và rãi hợp âm Mi trưởng thật dòn khởi đầu cho bản nhạc Flamenco “Los Sitios Di Zarogoza” với thể điệu hành khúc hùng tráng, bản nhạc dài 8 phút, chấm dứt thật mạnh và dứt khoát.
Giang đứng phắt dậy, hai tay ghì chặt bàn tay tôi:

-Anh Định! Phải thành thật mà nói là… tuyệt! Cảm ơn anh rất nhiều! Mong lần khác đến thăm anh và sẽ được nghe anh đàn nữa, bây giờ tôi phải đi, phải ra tận Quảng-Trị.

-Vâng, khi khác vậy. Giang đi nhé! À, có dịp gặp bác sĩ Trương Thanh Trừng, cũng TQLC, nhờ cậu nói là mình gởi lời thăm, Trừng là bạn học rất thân với mình.

*

Chiến cuộc ngày càng xấu đi cho QLVNCH, thật sự, có nhiều đơn vị uất ức vì chưa được đối đầu với địch mà lệnh trên buộc rút lui để rồi hai tỉnh phía bắc đèo hải-Vân gần như bị Việt-Cộng khống chế trong thời gian ngắn vào cuối tháng 3-1975. Đêm 25 tháng 3, đêm cuối cùng của Huế Tự-Do diễn ra ở bãi biển Thuận-An, một đêm hỗn loạn cả quân và dân, và không ngờ đêm đó Giang cũng ở Thuận-An mà tôi không được gặp.

*

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/re-education-or-hard-labor-sentences-04272015215003.html/traicaitao-vuotsong.gif/image

… Thời gian hơn 1 năm lao động khổ sai ở trại 1 Ái-Tử Quảng-Trị, tôi không biết có Giang ở trại 3.
Tổng trại tù Ái-Tử có 5 trại, trại 1 giam các sĩ quan từ cấp đại-úy đến trung-tá, trại 2 cho cấp sĩ quan chuẩn-úy và thiếu-úy, trại 3 và trại 4 giam các sĩ quan cấp trung úy và trại 5 dành cho hạ-sĩ-quan, binh-sĩ, Địa-Phương quân, Nghĩa quân cùng anh em Chiêu-Hồi (quân VC về với VNCH), mỗi tiểu trại cách nhau chừng vài cây số đường đồi núi.

Mỗi tiểu trại chứa trên 500 tù binh, ban giám thị mỗi trại giam gồm chừng 30-50 bộ đội, tất cả đều trực thuộc Đoàn 76. Họ cũng tổ chức ban y-tế cho tù binh thuộc từng tiểu trại, nhưng chỉ chọn các y tá sơ cấp hoặc nhân viên hành chánh quân y; còn tất cả bác sĩ và sĩ quan trợ y đều bị đưa đi lao động khổ sai. Đặc biệt ở trại 3 có vài dược sĩ và bác sĩ được đưa vào toán Đông-Y đi rừng hái lá, đào rễ, bới củ về làm thuốc; trong số đó có dược sĩ Lê Bá Thuận và bác sĩ Vũ Đức Giang.

Ban quản lý tổng trại giam Ái-Tử với cái tên Đoàn 76 và trạm xá là 2 cơ sở cạnh tiểu trại 3, chỉ các nhau 10 phút đi bộ qua mấy ngọn đồi, vùng nầy gồm toàn những đồi tranh và lau lách. Trạm xá Đoàn 76 gồm một số nhà tranh vách đất trên sườn đồi thoai thoải, phần lớn trạm xá dành cho bệnh nhân bộ đội với khoảng 20 bộ đội đãm trách và kiêm việc kiểm soát trạm xá nhỏ dành cho tù binh. Họ có một bác sĩ, vài y tá và một nửa căn nhà làm kho thuốc. Trạm xá của tù binh chỉ gồm vỏn vẹn một nhà nhỏ với 4 giường cho bệnh nhân tù binh từ các tiểu trại đưa đến, nếu là bệnh nặng, có 3 tù binh trong đó chỉ có một người là y tá sơ cấp và hai người thuộc hành chánh quân y được chọn coi sóc thuốc men và ăn ở cho bệnh nhân tù ngoài ra còn đảm trách những việc trồng trọt, chăn nuôi và sai vặc cho bộ đội nữa.

Tháng 5 năm 1976, một hôm bị bệnh, tôi được sung vào toán “lao động nhẹ”, “nhẹ” nghĩa là vượt 7 cây số đường núi đồi từ tiểu trại 1 đến trạm xá Đoàn 76 để cuốc cỏ tranh xung quanh các nhà nơi đây.

Sau giờ ăn trưa, được nghỉ ngơi nửa giờ, tôi nằm dài trên đất dưới mài hiên một nhà nào đó để mong được hưởng hơi mát từ đất, dưới ngọn nắng gay gắt, chói chang và gió Nam Lào hừng hực tôi thiếp đi trong mệt mõi. Tôi được đánh thức giậy bằng mấy cái đá nhẹ vào đùi, bừng mắt thấy một cán binh bộ đội sừng sững nhìn tôi.

-Anh là Định? Theo tôi vào làm việc!

Tôi bàng hoàng chẳng biết mình có làm điều gì sai phạm để phải bị “làm việc”, mọi tù binh đều rất sợ chữ “làm việc” vì có nghĩa là bị thẩm vấn, tra hỏi về vấn đề gì không tốt cho mình.

Theo người cán binh bộ đội vào nhà, không khí bên trong mát dịu làm tôi tỉnh táo, tôi thầm nghĩ:

-Mang thân phận tù là tận cùng rồi thì còn sợ cái quái gì nữa?

Một người bộ đội đứng tuổi với phong cách như là vị chỉ huy nhìn tôi không có vẻ gì ác cảm, giọng nhẹ nhàng làm tôi khá bở ngỡ, ông ta hỏi tôi:

-Anh là bác sĩ bên đối tượng? Anh phẩu được?

Bộ đội Cộng sản dùng từ “đối tượng” để chỉ tù binh và từ “phẩu” nghĩa là giải phẩu.

Tôi gật đầu:

-Thưa, tôi là bác sĩ giải phẩu.

-Có một anh bị tai nạn lao động, cần anh vào xem.

Thế là với bộ áo quần tù lem luốc, tôi được hướng dẫn đi rửa tay. Một y tá bộ đội giọng ra lệnh:

-Rửa tay thật kỹ vào! Không có bao tay (gloves) đâu.

Tôi đang rửa tay, anh y tá bộ đội quấn lên đầu tôi một mảnh vải thay thế mủ trùm đầu, rồi dùng một chiếc khăn vuông gấp chéo, quàng quang mặt tôi, gọi là mask. Lúc đó trông tôi chắc là giống mấy tay cowboys trong phim Western.

Một gian nhà tranh vách đất nhỏ được gọi là phòng mỗ với bên trong được bọc kín bằng một loại vải mùng, nền là những tấm ghi sắt sân bay ghép lại.

Tôi đã giải quyết cho một anh tù binh trẻ thuộc tiểu trại 2, tên Huấn, cấp bực chuẩn úy bị tai nạn lao động do cuốc phải đầu đạn M72. Bác sĩ bộ đội và toán giải phẩu của ông ta định cắt bỏ cánh tay trái của Huấn sau hơn 3 giờ không tìm được mạch máu bị cắt cũng như mãnh đạn. Để chứng tỏ có nhân chứng xác nhận là họ đã tận tình cứu chữa nhưng không cách gì khác hơn là phải hy sinh cánh tay người tù trẻ, họ hỏi ý kiến anh Quý, một tù binh phục vụ trạm xá, anh ta bối rối không dám quả quyết một vấn đề quan trọng như vậy và anh đã đề nghị họ gọi tôi.

20 phút sau khi giải quyết xong trường hợp của Huấn, tôi còn phải mỗ thêm cho một anh tù binh khác cùng bị tai nạn do quả M72 nổ, anh nầy bị mãnh đạn xuyên má bên trái, cắt ngang hai cái răng, mọi việc tốt đẹp, từ đó họ giữ tôi ở lại trạm xá, đây là điểm y tế gọi là cao nhất và là cuối cùng cho anh em bệnh nhân tù.

Càng ngày, vùng khai hoang càng nới rộng, số anh em tù bị đẩy đi lao động khổ sai càng gặp nhiều tai nạn; phần lớn là do bom, mìn, đạn dược vung vãi khắp những nơi mà trước đây là vùng giao tranh ác liệt.

Với một số ít dụng cụ y khoa sản xuất tại Trung Quốc, điều kiện thuốc men hạn chế, phòng ốc thiếu vệ sinh…,tôi phải giãi quyết mọi trường hợp mỗ lớn y như là một bệnh viện. Trên nguyên tắc, trạm xá tù chỉ điều trị cho tù binh mà thôi, nhưng khi dân chúng quanh vùng gặp những trường hợp cấp cứu, phía bộ đội lại giao cho chúng tôi giải quyết, có người đã được chúng tôi mỗ nối ruột non và tạo hậu môn nhân tạo – artificial anus. Ngay cả phía bệnh nhân bộ đội, có nhiều người đã yêu cầu tù binh chúng tôi giải phẩu cho họ, để giữ an toàn, chúng tôi đã tế nhị đòi hỏi họ viết tờ cam đoan với sự xác nhận từ bác sĩ bộ đội của họ là sẽ không làm khó dễ toán y tế tù nếu xẫy ra những điều bất như ý hoặc tai nạn khó lường trong giải phẩu.
Tôi còn yêu cầu họ đóng một bàn mỗ theo bản vẽ thiết kế của tôi, còn về thuốc men cho tù binh ở trạm xá cũng như các tiểu trại, tôi cũng xin được bổ túc thêm, nhất là dành cho cấp cứu tại chỗ.

Vì nhu cầu y tế ngày càng tăng, tôi đã đề nghị bác sĩ bộ đội cho chúng tôi thêm nhân sự, được chấp thuận, tôi viết danh sách gồm nhiều bác sĩ và sĩ quan trợ y ở khắp các tiểu trại, và họ đã chọn những người từ tiểu trại 4 trong đó có BS Trương Ngọc Hiền, thuộc TQLC và BS Nguyễn Văn Thông, Bộ Binh, cùng với 3 sĩ quan trợ y là các anh Lê Như Thành, Nguyễn Văn Tường, Lê Văn Đàn; những sĩ quan trợ y nầy trước đây là những trung đội trưởng trong đại đội quân y do tôi làm đại đội trưởng.

Bam giám thị trạm xá còn dựng một phòng bệnh khá vững chắc có sức chứa 40 bệnh nhân tù và có cả phòng ăn kế bên, số anh em tù từ các tiểu trại bị bệnh khá nặng đều được chuyển đến trạm xá chúng tôi.

Một ngày trời mưa tầm tả và bắt đầu se lạnh của tháng 10 năm 1976, tôi đang viết danh sách số thuốc yêu cầu cho bệnh nhân tù thì liếp cửa bật mở, BS Giang bước vào, người anh ước đẫm từ đầu đến chân, anh vừa cười vừa rũ nước trên chiếc nón vải nặng trĩu.

-Hay quá! Có anh ở đây!

Tôi rất mừng gặp bạn, nhưng sợ phạm phải tội liên lạc với người khác trại nên tôi vội bước ra ngoài nhìn qua lại xem có giám thị trạm xá thấy Giang vào đây không, không có ai qua lại, tôi yên chí cầm túi vải ướt đẫm nước của Giang vào nhà. Trong tất cả các trại giam thuộc Đoàn 76, trạm xá nầy là nơi độc nhất không có hàng rào kẽm gai vây quanh, nhưng chẳng tù binh nào dám trốn trại, vì khắp vùng đều nhan nhản bộ đội và dân quân tuần tra nghiêm nhặt.

Đưa khăn cho Giang lau mặt, tôi ái ngại nhìn bạn:

-Cậu đi đâu về mà ước đẫm thế nầy?

-Em đi rừng đào củ Hà Thủ Ô, còn rộng thì giờ, em vào đây nghe anh đàn.

Tôi kéo bếp than nóng để cạnh bạn và đưa trà nóng cho Giang, Tôi luôn có trà nóng nhờ bếp than dùng nấu syringues và kim chích. Sau khi hít một hơi thuốc Lào dài, tôi cầm cây đàn guitare. Tù binh chúng tôi chống lại với cái lạnh buốt tới xương của vùng rừng núi ẩm thấp của phía tây Quãng -Trị nầy bằng cách hút thuốc lào một loại thuốc rẽ tiền nhất. Sau 30 tháng 4 1975, trong giấy trình diện mà họ gọi là “đi học tập cải tạo” có phần bị chú ghi “trại viên nên mang theo dụng cụ thể thao, âm nhạc…”, điều đó làm cho mọi người nghĩ rằng thời gian “học tập” chắc sẽ chỉ vài ngày hoặc vài tuần. Sự thật thì không phải học tập mà là đi tù và đơn vị thời gian không phải là ngày, tuần, tháng mà là năm hay chục năm. Biết bạn thích những bản nhạc nào, tôi đàn ngay, Giang ngồi sưởi ấm vừa nhấm nháp trà vừa nghe nhạc, sau khi chấm dứt bản nhạc Panpancuillo của Francisco Tarréga, Giang ung dung đặt chén trà xuống bàn:

-Bản nầy nghe âm hưởng như nhạc Nhật Bản, phải không anh Định?

-Đúng vậy! Giang còn nhớ bản nhạc Tranonto không?

-Tiết tấu của bản đó hay thật, nhưng nghe buồn đến héo hắt, y như cái buồn của kẻ lưu đầy, của người mất nước.

Nghe lời bình phẩm của Giang qua giọng Bắc nhẹ nhàng đầy truyền cảm của anh, lòng tôi se thắt chợt nghĩ đến thân phận tù đày hiện tại của mình cũng như các chiến hữu thuộc mọi binh chủng VNCH và kể cả toàn dân miền Nam đang sống trong một nhà tù rộng lớn.

Tình cảm giữa Giang và tôi ngày thêm mật thiết, chúng tôi trở thành đôi tri kỷ; từ đó, mỗi lần soạn thêm bản nhạc nào hoặc có bài ca nào mới sáng tác, tôi lại nhờ mấy bạn tù thân thiết nhắn Giang sang thưởng thức.

Có lần, sau khi đã cẩn thận xem xung quanh không có ai, tôi khẽ hát cho Giang nghe đoạn nhạc mở đầu bài ca đang sáng tác:

Huế ơi! Huế ơi! Em đã tắt nụ cười,
Dưới cờ đỏ máu tươi,
Xơ xác thân hao gầy, đói cơm xót xa từng ngày…”

Giang gật gù thích chí, rồi trang nghiêm xuống giọng:

-Nầy anh Định! Anh đừng viết lời ca nầy ra trên giấy nhé!

Tôi thầm cảm ơn Giang đã lo lắng cho tôi, chúng tôi ngầm hiểu rằng nếu giám thị trại giam đọc được lời bài nhạc nầy, họ sẽ xữ tôi với nhiều tội danh, thế là tôi đã viết nhạc ra giấy còn lời thì ghi khắc trong trí.

Một đôi lần Giang rủ Dược sĩ Lê Bá Thuận cùng sang thăm tôi, tôi cố tránh không đàn những bản nhạc quá buồn gợi Giang buồn nhớ người thân.

Trong hoàn cảnh tù đầy buồn tủi, uất hận, vợ con tôi thường xuyên bới xách thức ăn, thuốc men, nhất là với tình yêu chồng, thương cha của vợ con tôi đã là một hỗ trợ lớn lao cho tinh thần tôi được thoa dịu, người thêm sức sống, lại thêm người bạn tri kỷ về âm nhạc, thật là một an ủi lớn cho tôi.

Thế rồi, năm 76 qua đi từ hồi nào, xuân 77 đến, anh em tù binh náo nức về cái Tết Đinh Tỵ sắp đến, mọi tù binh bàn tán xôn xao vì cứ mỗi dịp Tết Nguyên Đán, lại có một số người được phóng thích trước Tết. Anh em tù binh truyền miệng, thông báo cho nhau biết họ tên của những người khắp các tiểu trại giam được về với gia đình, trạm xá có BS Hiền và BS Thông cùng được nhận giấy tha, trại 1 cũng có hai bác sĩ được ra khỏi trại đó là BS Bùi Hữu Út, thiếu tá và BS Vĩnh Tráng, đại úy.

Ban giám thị mỗi tiểu trại rất rõ về sự xôn xao trong số tù binh còn lại, họ sợ bất cứ những bàn tán, bình luận, truyền miệng nhau trong đám tù binh, từ đó có thể dẫn tới những bất mãn rồi đi đến chống đối, mà họ gọi là “phản động”. Cá nhân uất ức có thể tự giãi quyết cho mình bằng cách trốn tù hoặc tự sát. Những sự việc như vậy sẽ gây tiếng vang khắp các tiểu trại và lan ra đến dân chúng, bất lợi cho họ; điển hình là trường hợp anh Q., một thiếu úy trẻ đã lớn tiếng chưởi bới, đả đảo Cộng Sản. Họ đã dàn cảnh để anh Q. đi đốn củi trong rừng sâu rồi bắn chết anh rồi phao tin là Q. trốn trại và bị dân quân địa phương bắn chết. Mấy ngày sau, dân chúng đi rừng phát giác xác chết của anh Q. với áo quần tù binh, họ mang về trao cho trại, thú rừng đã xâu xé gần hết cơ thể của người tù binh xấu số.

Họ muốn dằn mặt, đe dọa tù binh bằng phương cách dã man đó, mặt khác, họ lại xoa dịu tù nhân bằng cách tổ chức những buổi sinh hoạt vui chơi, ca hát, ăn uống… hoặc bày ra những lớp học chính trị, buộc tù binh phải phát biểu, phê bình kiểm điểm bản thân và chiến hữu.

Về sau, dược sĩ Lê Bá Thuận kể lại chi tiết về những ngày gần cuối đời của BS Giang sau đợt phóng thích tù binh nhân dịp Tết. Giang còn ở lại trong tù anh chán chường thất vọng đến rũ rượi.

Chiều 30 Tết, trong đội của Giang, mọi người đang ngồi gom lại trong một căn để sinh hoạt gần cuối lán, BS Giang cáo bệnh không ăn, anh nằm trùm chăn im lặng. Bạn bè vẫn nghĩ rằng Giang bệnh, để yên cho anh ngủ, khoảng một giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh trong chăn rồi ự, ự lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn nằm cạnh Giang chợt nghĩ có điều gì bất ổn cho Giang, anh vụt đứng giậy, chạy lại giật tấm chăn trên người bạn, mọi người cùng xúm lại, toàn thân Giang run lên, tay chân co quắp rồi từ từ duỗi ra bất động. Thuận lay mạnh vai bạn:

-Giang! Giang! Cậu làm sao vậy?

Im lặng hoàn toàn, Thuận hốt hoảng:

Ái! Ái ơi! Cậu xem Giang sao vậy nầy!

Nguyễn Đình Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. Ái giật chiếc ống nghe trên đầu nằm của Thắng, y tá trại 3, vừa nghe tim vừa tìm mạch trên cườm tay Giang. Không còn nhịp tim mạch.

Thường ngày Ái rất nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn, lúc đó anh thét lớn:

-Adrénaline ngay!

Trong khi chờ đợi y tá sửa soạn thuốc, BS Ái bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang còn mình thì dùng phương pháp bouche à bouche (mouth by mouth) mong cứu sống bạn.

BS Ái chích Adrénaline trực tiếp vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh, dù biết rằng nếu cứu được chỉ sẽ xẩy ra trong vài phút, nhưng BS Ái và DS Thuận vẫn cố cứu bạn suốt cả giờ.

Vô vọng, hai người quỳ gối bên xác bạn, BS Ái gục đầu giữa đôi vai, tay buông xuôi, rã rời, DS Thuận thì khóc như chưa bao giờ được khóc, bạn tù trong đội sững sờ, đứng im như những pho tượng. Một cảnh tang tóc thảm sầu.

Gần 6 giờ chiều, trời đã nhá nhem tối, bên phía trạm xá Đoàn 76, cách trại 3 chỉ một ngọn đồi, tôi chẳng biết chuyện gì cho tới khi BS Phan Xuân Tín, trưởng trạm xá bộ đội hấp tấp tìm tôi.

-Định, theo tao qua trại 3 có việc gấp! Mang theo túi cấp tứu!

Trên đường đi, người bác sĩ bộ đội vắn tắc với tôi về sự việc một trại viên vừa chết, dường như là tự tử, vừa thấy tôi, DS Thuận nước mắt ràn rụa, chụp lấy tay tôi, giọng lắp bắp:

-Anh Định! Giang đó…Vũ Đức Giang…chết rồi!

Như tiếng sét đánh ngang tai, tôi bổng thấy đầu óc thoạt trống rỗng, sửng sốt, rồi bao nhiêu hình ảnh Giang dồn dập chen chồng ập tới. Tôi theo chân DS Thuận đi về phía Giang, đứng yên nhìn người bạn trẻ im lìm trong chăn phủ kín. Cả lán im lặng một thứ tịch mịch đến rùng rợn, tôi cố trấn tỉnh đảo mắt xung quanh tìm BS Ái, rồi đến bên anh dọ hỏi, Ái lắc đầu thiểu não.

Ông Tín dục:

-Anh Định! Cố thử xem có làm được gì hơn không!

Tôi tin tài của BS Ái, biết chẳng còn gì cứu vãn được nữa, nhưng vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để nhìn bạn lần cuối. Tôi quan sát thấy đồng tử của người bạn xấu số đã hoàn toàn nở rộng. Thật hết rồi!

Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng hắc đặc biệt ở những người tự tử bằng Chloroquine. Chống tay đứng dậy, tôi cảm thấy mình yếu xuội hẵn đi. Tôi hỏi anh y tá của trại 3, anh nói nhỏ bên tai tôi:

-Mất đến mấy chục viên CP (Chloroquine-Primaquine).

Sau đó anh em trong lán mỗi người một tay lo phần cuối cùng cho người bạn tù, tôi đến xin BS Tín để được ở lại với Giang một lúc, ông ta gật đầu rồi bỏ ra ngoài.

Nhà kế bên là nơi dành cho toán thợ rèn, vào dịp Tết nên lúc đó không ai làm việc, chúng tôi vào chung sức dọn dẹp đồ đạc để có một khoảng trống cho chiếc quan tài vừa đóng vội. Các bạn tù thân nhất của Giang và tôi mang xác anh ấy sang để cạnh quan tài, hầu hết anh em trong lán đều còn trẻ, chưa biết thủ tục liệm xác. Tôi nhờ một số anh nấu một nồi nước ấm rồi tắm rửa cho Giang, đang lau khô thân thể bạn, anh đội trưởng của lán mang lại đưa cho tôi một bộ quần áo tù mới tinh, anh nói:

-Ban giám thị vừa đem xuống cho anh Giang.

Tôi tần ngần, một ý nghĩ thoáng vụt qua, tôi đứng dậy kéo DS Thuận ra xa mọi người:

-Cậu tìm trong hành lý của Giang có bộ đồ trận nào không, mình nhớ có lần Giang qua mình chơi với bộ đồ trận.

Thuận vội vả đi và trở lại trao cho tôi một bộ áo quần bộ binh VNCH của Giang với cả đôi vớ lính, Thuận hiểu ý tôi là không muốn Giang đã chết mà còn mang bất cứ cái gì thuộc về nhà tù theo với anh.

Vừa mặc cho Giang, tôi thầm nghĩ như đang nói với bạn:

“Nếu có bộ đồ TQLC mặc cho cậu thì hay hơn, thôi đành vậy nhá! Còn lá cờ vàng ba sọc đỏ thì…bây giờ thật khó quá… Dù thế nào, cậu vẫn mãi mãi trong lòng các bạn và chiến hữu”

Thật may mắn cho tôi, vừa đặt Giang vào quan tài thì BS Tín trở lại gọi tôi về lại trạm xá. Tôi còn dặn DS Thuận cố gắng có một bát cơm với một đôi đũa cắm lên cơm để cúng Giang, không có nhang và đèn cầy, nhưng bạn hữu trong lán mang đèn dầu tự tạo thắp xung quanh quan tài Giang sáng rực.

Đứng trước quan tài chưa đậy nắp, nhìn người bạn trẻ tri kỷ vừa là đồng nghiệp lần cuối cùng, tôi chắp tay ngang ngực rồi vái Giang hai cái, nhưng trong trí tôi vẫn nghĩ mình đang chào theo quân kỷ đối với một chiến hữu vừa nằm xuống.

Ra đến bên ngoài tôi ngõ ý với BS Tín nói với ban giám thị cho anh em trong đội thay phiên nhau ngồi với Giang suốt đêm. Ông Tín có vẻ xúc động và hứa sẽ nói lại với ban giám thị trại 3 và ông đã giữ lời.

Về sau, trong một nhà vệ sinh, tôi tình cờ đọc được tờ viết nháp “Bản Kiểm Điểm” của BS Tín gởi chính trị viên Đoàn 76, tên Hỷ, là bạn học cũ của ông Tín. Trong bản “Tự Kiểm” ông Tín nhận khuyết điểm vì đã cho tôi ở lại trại 3 khá lâu, đủ thì giờ để sắp xếp một buổi tẩm liệm mà họ gọi là trọng thể và vô tình tạo một sự tổ chức có quy củ trong hàng ngủ “Quân Đội Sài-Gòn” ngay trong trại tù, đó là điều họ rất lo sợ.

Tờ mờ sáng mồng một Tết Đinh Tỵ, giờ đưa đám BS Vũ Đức Giang. Ban quản lý trại giam chọn một số ít tù binh không cùng một đội với Giang gánh quan tài anh ra khỏi trại.

Nghĩa địa là một đồi cao với lau lách và cỏ tranh vây quanh; ở đó đã có sẵn hai nấm mồ, một là của trung úy V. thuộc trại 3, anh nầy đã bị giám thị tù đánh chết và phao tin là V. thắt cổ tự tử trong hầm biệt giam; mộ thứ nhì là của đại úy Đ.R. thuộc trại 1, chết vì một tai nạn do chính anh gây nên. Trong 3 ngôi mộ, chỉ có ngôi của Giang được bạn tù trong toán thợ rèn làm một bia mộ bằng một tấm kẽm đục thủng lỗ thành hàng chữ với họ, tên cũng như ngày tạ thế của BS Giang.

Mấy tháng sau, một buổi chiều đầu Thu, ban quản lý trạm xá gọi tôi hướng dẫn thân nhân của BS Giang từ Sàigòn ra thăm mộ. Họ căn dặn tôi không được tiết lộ mọi tin tức về cái chết của Giang. Một người bộ đội quản lý cầm súng đi kèm tôi.

Sau khi chỉ ngôi mộ của Giang, người bộ đội ra dấu bảo tôi đứng xa hai người phụ nữ, tôi tần ngần một lúc rồi đến chào mẹ và người yêu của Giang xong bước về hướng trạm xá, đứng ẩn trong đám cỏ tranh cao quá đầu người.

Cả hai người phụ nữ đều gầy, mẹ của Giang tóc đã xám bạc cả đầu với chiếc khăn nhung đen vấn theo lối đặc biệt của đàn bà miền Bắc, đôi vai khẳn khiu trong bộ áo quần màu trắng ngà lấm tấm bụi đất đỏ; đôi mắt đờ đẫn mờ đục trong khuôn mặt khắc khổ hằn rõ nét đớn đau vô bờ bến của người mẹ mất đứa con trai tài danh và hiền lành.

Cô gái hãy còn trẻ lắm, đôi mắt đỏ hoe, nước mắt nhạt nhòa trên má, chảy dài xuống cằm rồi lã chã xuống chiếc áo dài trắng, đôi cánh tay nhỏ quàng qua quai chiếc nón lá Huế, hai bàn tay siết vào nhau cố ghì lại những cơn nấc rung cả người.

Nắng chiều gần tắt, từng đám hoa tranh trắng nuốc hiện rõ trên nền trời pha sắc tím hồng phất phơ trong gió, khói nhang lam nhạt là đà bay vờn quanh hai người phụ nữ bên nấm mồ bác sĩ Giang uất nghẹn dâng tràn. Đôi bàn tay gầy gò của mẹ Giang lần mò trên đất sõi đỏ như đang vuốt ve thân thể của đứa con trai yêu dấu. Vị hôn thê của Giang tì cằm trên hai gối bó chặc trong vòng tay, nhìn chòng chọc nấm mồ với gió chiều vun vút qua hàng chữ đục thủng trên tấm bia bằng nhôm.

Trời đã ngã sang màu xám, bó nhang trên mộ đã tắt ngấm từ lâu, hai người phụ nữ rã rời chống tay đứng dậy, họ trầm ngâm một lúc trước mộ của Giang rồi chậm rãi quay lưng, ra đến khoảng đường đất đỏ, hai người còn mấy lần quây lại nhìn lại chốn đau thương vô cùng ấy.

Người bộ đội dẫn đường cho hai người ra lối cũ về trục lộ chính, tôi còn đứng lại bồi hồi nhìn quang cảnh đồi tranh với ba nấm mồ, riêng trên mộ của Giang, cô gái còn để lại chiếc nón lá nằm nghiên với chiếc khăn tay trắng đẫm nước mắt cột chéo vào giãi nón màu xanh lơ.

-Sao trên đời nầy còn có cảnh bi thương đến như thế?!

Đó là chứng tích buồn đã gây xúc động trong lòng mọi người qua lại chốn nầy, riêng tôi, cảnh chiếc nón lá của vị hôn thê đặt trên mộ người yêu còn gây ấn tượng mạnh hơn cả cảnh bi hùng với chiếc súng gắn lưỡi lê cắm lên vùng gió cát, treo đong đưa chiếc nón sắt đã hoen rĩ từ lâu theo cát bụi và thời gian của người lính đã giã từ vũ khí.

Florida, ngày 8 tháng 7 năm 1994
Hoàng Thế Định

 BÃI BIỂN THUÂN AN, SAU NÀY ĐƯỢC TQLC VNCH GỌI LÀ "PHÁP TRƯỜNG CÁT" vì 4 tiểu đoàn tác chiến, một tiểu đoàn pháo binh, một đại đội TS của LĐ 147 TQLC đã tan hàng do những quyết định sai lầm của cấp trên -- Tựaj do tôi đặt về bài viết sau đây của bs TQLC Phạm vũ Bằng.

====
CÂU CHUYỆN VỀ HAI BÁC SĨ QUÂN Y TQLC TỰ ĐI TÌM CÁI CHẾT:
1-Bác Sĩ Vũ Đức Giang, TĐ7 TQLC.
Một buổi trưa ngày 16/ 3/1975, nắng vàng rực rỡ, tôi lái xe từ Mỹ Thủy nơi có Bộ Chỉ Huy LĐ 258 TQLC đến Phong Điền nơi BCH TĐ 7 đóng để tìm “bạn vàng” BS Nguyễn Quang Khoa rủ đi uống rượu. Đến nơi thì mới biết BS Khoa đã được thuyên chuyển về LĐ 147 TQLC, người thay thế anh là BS Giang mới ra trường và làm Y Sĩ Trưởng TĐ 7 được hơn 1 tuần. BS Giang người tầm thước, nước da trắng với cặp kính cận thư sinh, tóc bồng bềnh trông rất nghệ sĩ. Gặp tôi Giang ngạc nhiên nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi:
- Anh Bằng, tôi thấy danh sách anh về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn, sao bây giờ anh còn ở đây?

Tôi cười :
-Sắp đánh lớn rồi, về SĐ làm” thợ vịn” cho các quan lớn Quân Y chán chết, tôi xin tình nguyện về LĐ để giúp anh em được nhiều hơn, vậy mà TĐT và ĐĐT Quân Y vẫn không vui, giờ thì làm “phó thường dân” tại ĐĐ Quân Y LĐ 258 gần đây.
Giang trầm ngâm một lúc rồi nhìn tôi:
-Anh làm vậy cũng đúng, chưa bao giờ quân đội cần BS như lúc này.
Câu trả lời của ông niên đệ này làm tôi chới với, tôi đang chờ đợi từ ông vài lời khuyên nhủ thường tình về BV để xin 2 chữ “bình an” thì lại được ông “giáo lý” một câu thật chí tình chí lý làm tôi tôi nể phục, bắt tay Giang tôi nói:
-Thôi mình vào trong nói chuyện.
Đến căn lều cứu thương, tôi thấy bên ngoài có những hố phòng thủ vững chắc, bước vào trong mấy anh quân y tá ban chỉ huy với quân phục chỉnh tề đứng ngiêm chào kính, trên bàn thuốc men, dụng cụ cấp cứu bầy biện ngăn nắp và có hệ thống, góc phòng có 1 giá súng với 5,6 khẩu M16 lớp thép sáng bóng dưới một lớp dầu mỏng, mấy cái balo, mũ sắt đặt thứ tự. Nhìn mọi thứ đâu ra đó tôi thầm nghĩ “một cấp chỉ huy tư cách không có thuộc cấp tồi”. Nơi Giang ngủ có một cái bàn nhỏ và vài cái ghế đóng bằng gỗ thùng đạn pháo binh, trên bàn có mấy cuốn sách y khoa và vài tập nhạc, góc phòng là 1 chiếc guitar bên cạnh một băng ca mở rộng làm chỗ ngủ. Nhìn cái băng ca rồi nhìn cặp mắt thâm quầng của Giang tôi buột miệng :
-Giang có ngủ được không?
-Không anh, cả tuần rồi, ban ngày thì vậy đến đêm gió núi thổi lạnh đến xương, tôi đang định ra Huế mua cái túi ngủ.
Tôi vội can:
-Đừng, nằm trong túi ngủ nếu đêm giặc tấn công thì không nhẩy xuống hố kịp, ban đêm gió núi thổi luồn qua vải bố băng ca nên lạnh, Giang sai đệ tử kiếm mấy tấm bìa carton trải trên mặt bố thì sẽ bớt lạnh.
Giang cám ơn tôi rồi sai đệ tử pha trà đãi nhưng tôi từ chối và rủ anh ra Phá Tam Giang uống café. Thấy anh có vẻ thích nhưng ngần ngại vì đi xa tiểu đoàn lỡ có việc gì thì về không kịp, tôi trấn an và cho biết trên xe có máy PRC 25, mình sẽ lên Ban 3 tiểu đoàn cho họ biết tần số, có gì họ sẽ gọi.Tôi lái xe, Giang ngồi cạnh phóng thẳng ra Phá Tam Giang tìm được một quán café sạch sẽ bên bờ phá. Để anh tài xế ngôi lại xe ôm máy PRC 25 và súng M16 canh chừng, chúng tôi vào quán, cô chủ quán mặc 1 chiếc áo dài cũ đơn sơ nhưng không dấu được vẻ đẹp thanh tú, kiều diễm của một kiều nữ Bích La Thôn lễ phép mời chúng tôi ngồi bên một cái bàn cũ kỹ rồi bằng một giọng Quảng Trị cô nhỏ nhẹ hỏi:
-Dạ, hai en uổng nược chi?
Giang rất thích thú nhìn và thưởng thức một nền văn hóa khác hẳn với văn hóa Saigon, anh mơ màng bên khói café ngắm nhìn cảnh thanh bình tĩnh lặng của trời mây sóng nước. Trên mặt phá vài chiếc ghe và gọ chậm chạp qua lại văng vẳng đâu đó vài câu hò não ruột của mấy o vùng sông Hương núi Ngự. Tôi nhờ cô chủ quán mang mấy chai bia cùng đồ nhắm cho anh tài xế rồi ngồi cạnh Giang tâm tình. Tôi được biết Giang đã có vị hôn thê, 2 người sẽ làm lễ cưới năm tới, và kỳ này khóa của anh có 5 BS về TQLC. Nghe anh kể lúc lễ mãn khóa quả cầu trên đỉnh cột cờ tại Vũ Đình Trường tự dưng bị gẫy làm tôi lo sợ nghĩ đến binh thư Tàu: “lúc ra quân mà cờ bị gẫy là điềm gở”. Không nói ra nhưng trong lòng tôi thật là bi phẫn vì trận chiến quyết liệt giữa ta và giặc sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào mà tại sao mấy anh lớn trong Quân Y TQLC lại đẩy mấy ông niên đệ này ra tiểu đoàn ngay thay vì để họ có chút thời gian học hỏi kinh nghiệm chiến trường tại Lữ Đoàn hay Sư Đoàn?
Giang là người có máu nghệ sĩ, anh rất thích âm nhạc thơ phú. Anh vui vẻ rút trong túi tờ giấy chép một bài ca dao xứ Huế, khoe rằng tối qua đi ăn với mấy anh sĩ quan TĐ 7 TQLC có người đọc cho anh bài ca dao này, anh thấy hay và lạ nhưng có mấy chỗ không hiểu nên muốn hỏi tôi:
Đường lên xứ Huế quanh quanh.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Thương em anh cũng muốn vô.
Sợ Truông Nhà Hồ sợ Phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn.
Truông Nhà Hồ nội tán phá tan.
Đường vô muôn dặm quan san.
Anh vô anh được bình an em mừng.
Tôi biết những điều Giang thắc mắc nên giải thích bài ca dao này có lẽ có từ thời Chúa Nguyễn Phúc Chu đầu thế kỷ 18 để ca tụng quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng có công dẹp giặc tại Truông Nhà Hồ và trị thủy tại Phá Tam Giang. Người Trung gọi khu rừng rậm hoang vắng là truông, ngày xưa Truông Nhà Hồ ở cạnh làng Hồ Xá ranh giới hai tỉnh Quảng Bình - Quảng Trị giặc cướp rất nhiều, quan nội tán đã dùng mưu dẹp chúng. Còn Phá Tam Giang lúc trước sâu và sóng gió rất nhiêu, quan nội tán phá đá ngầm và mở cửa sông cho nên phá mới hiền hòa như ngày nay. Giải thích xong tôi cười và đùa: đọc bài ca dao này tôi thấy một điều, 2 câu cuối nói lên sự chung thủy, thương và lo lắng cho chồng của các o xứ Huế, còn mấy đấng mày râu xứ này thì cũng hơi bạc tình vì đã yêu nhau thì sợ gì đám giặc cỏ Truông Nhà Hồ và sóng gió Phá Tam Giang. Đám con trai Saigon tụi mình thì khác xa vì “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua…Yêu nhau chẳng ngại đường xa, đá vằng cũng quyết, phong ba cũng liều…”
Chúng tôi nói về đủ mọi thứ chuyện, từ văn chương, âm nhạc đến thời sự, tôi nhận thấy Giang là một con người tư cách,ngay thẳng, nghệ sĩ nhưng cứng rắn, cương trực …
Chẳng mấy chốc mặt trời đã ngả hướng Tây, ráng chiều đổ xuống phản chiếu mây nước Phá Tam Giang thành mầu đỏ rực rỡ. Giang chăm chú ngây dại nhìn mây nước chuyển mầu, nét mặt sững sờ bật nói:
Sao lại đỏ như máu thế này?
Tôi giải thích: Có gì đâu, ánh hoàng hôn màu đỏ phản chiếu trên mây nước, ngày nào cũng như vậy.
Con người là một linh vật, phải chăng linh tính của Giang đã báo trước cho anh biết điều chẳng lành sẽ xẩy đến với anh tại đây 10 ngày sau đó?
Tôi đưa Giang về TĐ lúc trời tối, bịn rịn chia tay, tặng anh tấm bản đồ Huế- Đà Nẵng và một cái địa bàn sau khi đã chỉ cặn kẽ cách sử dụng. Hai thứ này từng là “bửu bối mưu sinh thoát hiểm” của tôi, và cũng không ngờ đây là lần đầu mà lại là lần cuối tôi gặp anh, những mảnh đời trong thời chiến chẳng khác gì “kiếp bèo dạt hoa trôi” hợp tan vô định!
Ngày 18/3/1975 LĐ 258 TQLC, có tôi là Y Sĩ ĐĐQY LĐ 258, di chuyển về đèo Phước Tượng với nhiệm vụ bảo vệ QL I Huế- Đà Nẵng để LĐ 147, SĐ I BB, và các đơn vị khác thuộc Lực Lượng Tiền Phương QĐ I tại Huế- Thừa Thiên rút về Đà Nẵng theo QLI.
Bộ Chỉ Huy LĐ 258 và TĐ 1 TQLC đóng tại Bắc Sông Truồi, TĐ 8 TQLC đóng tại Phú Lộc, Sư Đoàn 325 CSBV điên cuồng tung các trung đoàn đánh phá để cố cắt đứt QL I nhưng chúng đều bị chúng tôi đánh tan “ôm đầu máu” chạy trốn vào núi Trường Sơn.
Ngày 25/3/1975 là ngày các lực lượng Tiền Phương QĐ I rút bỏ Huế về Đà Nẵng. Muốn cho chắc ăn, ngoài lực lượng sẵn có là LĐ 258, Tướng Bùi Thế Lân đã ra lệnh thọc ĐĐ 2 TĐ 8 của Thiếu Úy Trần Như Hùng tiến tới thôn Trung Kiên, chân núi Vĩnh Phong phía Đông QL I và cánh B TĐ 16 TQLC xuống Phú Lộc chế ngự phía Tây QL I để chờ đón đạo quân Tiền Phương rút về Đà Nẵng trên QLI…
Trong lúc BCH TĐ 8 và cánh B TĐ 16 đang đóng tại Phú Lộc và sáng ngày 25/3/1975 tôi và LĐ 258 được lệnh rút về Đà Nẵng, cây Cầu Sông Truồi đã bị Công Binh QĐI phá hủy trong đêm gây trở ngại không ít cho việc tản thương, tôi lội qua Sông Truồi nước trong veo, đi qua Phú Lộc, chúng tôi không thấy một tên VC nào, vậy mà không hiểu lấy tin ở đâu (?) và của ai (?) mà các vị tướng chỉ huy QĐI lại nghĩ là Phú Lộc đã rơi vào tay giặc. Ngày 25/3/1975 các ông ra lệnh cho LĐ 258 rút lui về Đà Nẵng, còn LĐ 147 TQLC và các đơn vị khác thuộc lực lượng Tiền Phương QĐI phải rút bằng Hải Quân tại Thuận An phía Đông Phá Tam Giang. Thế là thảm kịch đã xẩy ra, xác quân ta nằm đầy bãi Thuận An, rất nhiều TQLC không chấp nhận bị VC bắt đã dùng lựu đạn tự sát tập thể, máu quân ta nhuộm đỏ sóng Thuận An, gần như toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐI bị tan rã.
Theo hồi ký của những sĩ quan TQLC sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận An” thì LĐ 147 TQLC được lệnh bỏ khí giới nặng, lương thực, mỗi TQLC 1 khẩu M16 và 1 băng đạn hỏa tốc rút về Thuận An. Ngày 25/3/1975, khi đến Thuận An tàu Hải Quân thì có ngoài khơi nhưng không vào đón, Tướng TL Tiền Phương đã bỏ về Đà Nẵng (!) và Tướng TL QĐI thì “im lặng vô tuyến”. Họ là 2 người duy nhất tại QĐI có thẩm quyền điều động Không Hải Lục Quân của QĐI để cứu LĐ 147 nhưng họ đã không làm gì, cho nên thảm kịch xẩy ra…
Theo các nhân chứng còn sống sót từ cái “Pháp Trường Cát Thuận An” như BS Rậu, BS Khoa, và các sĩ quan TQLC khác thì sáng ngày 25/3/1975 các TQLC của LĐ 147 xếp hàng ngay ngắn trên bãi biển Thuận An chờ tàu vào đón. Ngoài khơi có 1 Hạm Đội Hải Quân, nhưng không chiếc tàu nào vào. Chờ đến chiều thì quân truy kích CSBV đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cát cao chung quanh và dùng đủ loại súng lớn, nhỏ tác xạ vào TQLC đang phơi mình trên bãi cát trống trải. Quân ta hết nước, hết đạn nên bị thất thế đành nằm trên cát chờ chết…
Sáng ngày 26/3/1975 có một chiếc LCU duy nhất vào đón được BCH LĐ 147 gồm LĐT Đại Tá Nguyễn Thế Lương, LĐP Trung Tá Nguyễn Đăng Tống và thương binh. Theo các Quân Y tá LĐ 147 cho biết thì Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y tá TĐ 7 khiêng thương binh lên tàu sau đó anh điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất cả cùng trở xuống để tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 147 thì một hôm Hạ Sĩ Nhất Quân Y Nguyễn Văn Được - người sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có chuyện gì?
-Ổng ấy ngon quá! Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng thương binh lên tàu. Xong việc ổng điểm danh từng y tá TĐ 7 một rồi tất cả xuống tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại nói “BS trở lại thì 100/100 là chết” nhưng ổng trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ đang chiến đấu sẽ có thêm thương bình, anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi ổng xuống tàu đi dưới làn mưa đạn thượng liên của VC, em nhìn mà thấy ớn. Em nói thiệt tình đó ông thầy.
-Thì tao có nói mày không thiệt tình hồi nào đâu! Có điều chú mày bậy thật, Bác Sĩ TQLC không bao giờ đào ngũ trước hàng quân!
Về số phận của BS Giang, hãy đọc hồi ký của MX Cao Xuan Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng:
“Rạng sáng ngày 27/3/1975 tôi còn gặp cả một thằng bạn cũ cùng học với nhau hết bậc trung học ở trường Nguyễn Trãi, Vũ Đức Giang, khi chúng tôi đang bị trói chung bằng một sợi dây điện dài. Tôi ngạc nhiên kêu lên.
-“Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt ở đây?”
-“Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.”
-“Tao hỏi mày làm cái giống gì mà cũng bị bắt ở đây?”
-“Tao Thủy Quân Lục Chiến.”
-“Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày mà cũng dám giết người à? Mà sao ở Thủy Quân Lục Chiến tao không gặp mày?”
-“Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.”
-“Mày bác sĩ à?”
-“Ừ, tao về Tiểu Đoàn 7.”
-“Tội nghiệp thằng bé, mày sợ đời không có gió sương à?”
-“Gió sương gì? Cởi trần ngồi suốt đêm ngoài trời thế này mày bảo không bị gió sương à?”
Trời sáng rõ, mấy tên Việt Cộng gác chúng tôi cầm súng đi qua đi lại trước cổng.”
Giang bị tù tại trại tù Ái Tử-Quảng Trị. Theo hồi ký “Khóc Bạn” của BS Hoàng Thế Định, một người bạn đồng tù với Giang thì trong tù anh vẫn hiên ngang giữ tư cách của một Bác Sĩ Quân Y TQLC sa cơ, không cúi đầu luồn cúi quân thù nên anh bị chúng đầy ải bắt đi lao động khổ sai trong khi các đồng nghiệp của anh được làm trong bệnh xá trại tù. Mùa xuân năm 1977, đa số đồng ngiệp đã có danh sách được thả ngoại trừ Giang. Một kẻ sĩ có tư cách như BS Vũ Đức Giang khi sa cơ bị quân thù làm nhục thì chỉ lấy cái chết để rửa, đêm 30 tết năm 1977 noi gương các anh hùng tiền nhân, Giang đã mượn một liều thuốc độc mạnh tuẫn tiết…
Không bỏ thương binh và đồng đội để tìm đường thoát thân trong hoàn cảnh tuyệt vọng mà cấp chỉ huy Lữ Đoàn và Quân Đoàn đã bỏ đi; tự vẫn để bảo tồn danh dự . Đó là Bác Sĩ Vũ Đức Giang. Trong quân sử thế giới đã có bao nhiêu người làm được như vậy?
2-Bác Sĩ Đặng Tuấn Long, Tiểu Đoàn Quân Y TQLC.
Trái: BS Đặng T Long, Phải: BS Nguyễn Lê Minh.
Biết viết gì về Long đây? Anh đẹp trai, học giỏi con nhà giàu, anh ngang tàng, vui nhộn, giỏi thể thao và hát hay, nếu muốn, anh có thể là 1 BS dân sự mở phòng mạch hốt bạc nhưng anh tình nguyện vào quân đội và để cho “đời trai có chút sương gió” anh lại tình nguyện vào TQLC. Long đi lội TĐ tác chiến gần 2 năm đến đầu năm 1974 thì về TĐ Quân Y…
Một buổi sáng cuối năm 1973, Bác Sĩ Vương Gia Nhơn, Y Sĩ Trưởng TĐ 2 Trâu Điên, không biết ngoại giao ra sao mà “chôm” được chiếc xe Jeep của Tiểu Đoàn Trưởng láng coóng với hai cần câu đến Làng Cọp Biển trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” rủ tôi đi chơi. Tôi đề nghị Nhơn đến TĐ của Long - lúc ấy Long đang lội TĐ tác chiến - đang đóng tại bờ sông Thạch Hãn rủ anh cùng đi. Nhơn ngồi ghế trưởng xa cứ vài phút anh lại phải giơ tay chào lại các TQLC thấy xe VIP đứng nghiêm chào kính, tôi bực mình nói:
-Lần sau cậu lấy cái xe không cần câu đi cho nó thoải mái, chứ cứ chào như vậy cậu sái tay.
BS Nhơn, một tay chơi khét tiếng của các vũ trường Saigon, nổi danh với bước Tango 17, 3/4 mà không em cave nào không ái mộ, từ khi đeo phù hiệu TĐ 2 Trâu Điên thì anh lại càng đào hoa hơn. Mỗi kỳ tiếp tế sĩ quan hậu cứ phải điên đầu sắp xếp cho năm bẩy “em gái hậu phương” mang đồ tiếp tế cho anh mà không đụng độ nhau. Anh là một người hùng, sau 30/4/1975 đi tù nhưng vẫn hiên ngang giữ tư cách của một BS TQLC vì vậy anh đi mút chỉ, sau khi xong tù anh vượt biển và mất tích…
Xe đậu trước hầm trú ẩn của Long, bên cạnh bờ sông, anh đang ngồi ngoài hầm uống rượu một mình, chai đế đã vơi quá nửa, bao Bastos xanh chỉ còn vài điếu, thấy chúng tôi Long chạy đến:
-Các cậu coi chừng, TĐ báo động có thằng VC bắn sẻ bên kia sông…
Tôi nhìn qua sông, cả trăm bụi rậm um tùm, nhưng chúng tôi không phải chờ lâu, một tiếng rít qua tai, viên đạn trúng bao cát trên nóc hầm làm tung tóe cát. Thấy viên đạn trượt đích xa, chúng tôi không thèm ẩn núp, Long lẩm bẩm chứi thề:
-Tổ cha thằng nhà quê, đã bắn dở rồi mà cứ hay bắn, anh chỉ ngón tay tiếp, nó ở bên kia kìa…
Nhìn qua sông tôi không thấy gì nhưng TĐ của Long phản ứng thật nhanh. Một tiếng “đề pa” của khẩu 75 ly không giật, viên đạn nổ bên kia sông hất tung bụi cây, tên bắn sẻ và khẩu súng lên trời, vài tràng thượng liên địch nổ vu vơ, một phát 75 ly thứ hai nổ, khẩu thượng liên câm họng, xác hai tên xạ thủ bay bay… rồi tất cả rơi vào im lặng. Nhìn BS Nhơn tôi lắc đầu:
-Chúng nó chào cái xe có cần câu của cậu đó. Vậy là hết đi chơi! TĐ chắc đang báo động!
Sau khi bảo tài xế đậu xe vào chỗ khuất, chúng tôi vào hầm trú ẩn. Long sai đệ tử mang thêm hai cái ly và chai rượu mới, uống xong vài ly, tôi hỏi Long:
-TĐ tớ sắp về Saigon dưỡng quân, cậu có muốn gửi gì cho em bé hậu phương không?
Long cười cay đắng:
-Tớ bây giờ độc thân tại chỗ, em bé của tớ đi lấy chồng rồi.
Uống thêm ly rượu anh tiếp:
-Mới có mấy tháng trước, em tìm tớ còn nói yêu tớ trọn đời vậy mà tháng trước về phép thì em đã có chồng, em “thanh minh thanh nga” là vẫn yêu tớ, nhưng vì tớ là lính rằn ri không biết sống chết lúc nào mà em không muốn làm góa phụ.
Tôi biết mối tình lãng mạn của Long với một cô bé xinh đẹp sinh viên Luật Khoa tên là H.. có cô chị cũng là sinh viên luật “kỳ đà cản mũi”, vì bà mẹ có tính cổ lỗ sĩ không muốn cô em “lên xe hoa” trước cô chị nên Long phải mang bạn vàng là BS Nghiêm Hữu Hùng “hối lộ” cho cô chị. Từ đó Long và cô H. mới được tự do tình tự. Mối tình của họ thật là đẹp thế mà tự nhiên gãy đổ giữa đường chỉ vì Long theo tiếng gọi của non sông mặc áo rằn để bảo vệ cho cô và những người hậu phương…
Buổi nhậu chỉ chấm dứt khi “người hùng” Vương Gia Nhơn say gục trên bàn…
Đầu năm 1974, TĐ 9 TQLC làm Địa Phương Quân giữ tuyến Triệu Phong - Bích La Thôn - Đê Long Quang, tôi đang buồn vì lâu ngày ở chỗ khỉ ho cò gáy này, xa hẳn ánh sáng văn minh thành thị thì bất ngờ toán tiền đồn Đại Đội Chỉ Huy-TĐ 9 báo tin có 2 Bác Sĩ TQLC đến thăm. Đó là 2 “bạn vàng”, BS Đoàn Trọng Thiên và BS Đặng Tuấn Long. Tôi thật mừng và cảm động biết 2 bạn mình đi bộ hơn 10 km để đến thăm, nhất là khi biết Đặng Tuấn Long khi đến bờ sông Vĩnh Định đã không dùng cầu mà bơi qua sông. Mời bạn vào hầm, tôi nhìn Long lắc đầu:
-Bạn liều quá! Sông Vĩnh Định đầy ma VC, dưới đáy sông là xương cốt của 1 Trung Đoàn 808 VC (hậu thân của Tr. Đoàn 95) bị TĐ 2 giết mấy năm trước đó.
Long cười sảng khoái:
- VC sống tớ còn không sợ nữa là ma VC, chán quá, đi TQLC để đánh nhau mà bây giờ phải làm Địa Phương Quân giữ đất…
- Cậu chiụ khó chờ đi. Tụi VC đang xây con đường Trường Sơn Đông chạy qua gần Thượng Đức- Quảng Nam, thế nào nó cũng nhổ cái gai Thượng Đức, Tướng Trưởng sẽ mang Nhảy Dù về giữ, và để “dương đông kích tây” chúng nó sẽ thọc vài SĐ đánh tụi mình, lúc đó thì tha hồ cho cậu đánh… Mà thôi, nói chuyện đánh nhau nhức đầu, các cậu may, em bé hậu phương mới gửi cho tớ mấy chai rượu và đồ nhậu, hôm nay mình uống cho đã…
Tôi mở thùng quà, bên trong có 2 chai Martell và mấy gói đồ khô, gọi anh đệ tử đưa cho anh một chai và thùng đồ nhậu, bảo anh làm đồ nhậu rồi chia 2, nửa cho ban cứu thương, nửa cho tụi tôi, Long mở chai rươu rót vào 3 cái ca nhà binh rồi không đợi ai mời anh uống một ngụm lớn, khà một tiếng anh nói:
-Thơm, ngấm tới đâu sướng tới đó.
Hít một hơi Bastos xanh anh tiếp: kìa 2 cậu uống đi chứ.
Chúng tôi cụng ly, uống lai rai, tâm sự đủ mọi chuyện, chẳng mấy chốc mấy đĩa mồi thơm được dọn ra, Long và Thiên đều khen “em gái hậu phương” của tôi đảm đang, đi chợ giỏi, chừng nào thì “cưới”, tôi vội cải chính:
- Cưới gì, mình đi lính sống chết giờ nào không biết, lấy vợ chỉ làm khổ người ta. Mấy tháng trước TĐ về Saigon dưỡng quân, có một em học Văn Khoa thấy tớ là dân rằn ri tưởng không biết gì nên em mang bài thơ “Khóc Bằng Phi” của Vua Tự Đức ra khoe là bài thơ tình đầu tiên của văn học sử Việt Nam. Tớ nói em sai rồi, bài thơ tình đầu tiên hiện hữu trên văn học Việt Nam là bài thơ tình của Cụ Nguyễn Trãi gửi bà Thị Lộ gần 400 năm trước bài Khóc Bằng Phi. Cô bé không tin bắt phải chép ra. Tớ ra điều kiện là sẽ chép để em vào thư viện kiểm chứng, nếu đúng thì em phải trả tớ rượu và đồ nhậu vì lính xa nhà chỉ cần 2 thứ đó, em bằng lòng cho nên hôm nay các cậu mới có rượu uống.
Thiên trầm ngâm xoay xoay ca rượu:
-Các bậc đế vương và vĩ nhân khi đau khổ tột cùng mới làm thơ, và thơ của họ thường khác người. Như trong bài Khóc Bằng Phi vua Tự Đức đã có hai câu thơ để lại cho hậu thế: ”Đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hơi.”. Tớ chưa biết bài thơ tình của Cụ Nguyễn Trãi, cậu đọc đi.
- Bà Thị Lộ là vợ bé của Cụ Nguyễn Trãi, bà tằng tiụ với Vua Lê Thái Tông thua bà nhiều tuổi, nhà vua mê bà quá nên kéo bà về kinh đô Thăng Long, phong bà một hư chức Lễ Nghi Học Sĩ để dậy cung nữ trong cung nhưng sự thực để 2 người được tự do tình tự. Cụ Nguyễn Trãi lúc đó về hưu tại Côn Sơn - Hải Dương, nhớ vợ quá làm một bài thơ, vì bài thơ làm đã quá 500 năm, các tác giả viết lại có những câu hơi khác nhưng đại ý thì cũng như nhau:
- Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
( Tạm dịch: mạo muội thử hỏi khách lầu son.),
- Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng,
- Ngoài ấy ví dầu còn áo lẻ
(Ngoài ấy: ngoài kinh đô, ví dầu:
nếu như có, áo lẻ:áo mặc trong?)
-Cả lòng mượn lấy đắp cho cùng.
(Cả lòng: rộng lượng, rộng lòng)
Long cười:
-Bà Thị Lộ là gốc bán chiếu gon, tức là mari-sến thì biết quái gì về lễ nghi mà dậy cung nữ, chắc là bà dậy chuyện phòng the, cái truyền thuyết đối đáp trong bài thơ” Cô Bán Chiếu Gon” có lẽ do Cụ Nguyễn Trãi làm cho bà, còn bài thơ này thì đã trên 500 năm trước tuy hay nhưng khó hiểu quá.
Chẳng bao lâu, rượu và thịt cũng cạn, Long nốc ngụm cuối cùng rồi nói:
-Lâu lắm mới có ngày vui như vậy. Nói xong anh nổi hứng với cây đàn Guitar, so lại giây, giữa cảnh đồng quê hoang vắng tiếng đàn thánh thót nổi lên, giọng ca cao và buồn:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai. Sông xa từng lớp lớp mưa dài. Mắt em, ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh… Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều luân lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây. Buồn viễn xứ khôn khuây…
Hát xong, Long rủ Thiên về:
-Bọn tớ phải đến Hương Lộ Buồn Hiu nhìn cảnh hoàng hôn tại đó, xem nó buồn như thế nào.
Tôi không cản, tiễn hai bạn tới cổng trại chỉ hướng:
-Năm 1953 quân Pháp từ các làng ven biển phía Bắc Phá Tam Giang như Vân Trình-Mỹ Thủy-Gia Đẳng tiến quân theo Hương Lộ 555 được nửa chừng thì bị Trung Đoàn 95 VC chận đánh không tiến được,cho nên tớ nghĩ “Street Without Joy” của Bernard Fall là giải đất một cạnh là nửa Hương Lộ 555 phía biển, cạnh kia là vùng bờ biển Bắc Phá Tam Giang gồm các làng Vân Trình-Mỹ Thủy-Gia Đẳng. Các cậu đi qua bãi cát này sẽ gặp Hương Lộ 555, rẽ trái hướng ra biển đến làng Mỹ Thủy thì các cậu đã đến nơi. Đến Mỹ Thủy trời đã tối các cậu nên ngủ tại ĐĐ Quân Y LĐ 258, có BS Nguyễn Lê Minh ở đó.Thôi hẹn gặp lại.
Tôi chẳng bao giờ gặp lại Long. Sau 30/4/1975 tôi đi tù tại Trảng Lớn- Tây Ninh, BS Đặng Tuấn Long đi tù tại trại tù Kà Tum vốn là mật khu VC gần biên giới Tây Ninh- Miên. Theo anh Phạm Trung Kiên một người bạn cùng tù kể lại thì trong tù Long vẫn hiên ngang giữ khí phách của một Bác Sĩ Quân Y TQLC, không sợ bọn quản giáo, sẵn sàng “kê tủ đứng vào họng chúng” vì vậy Long bị chúng trù dập, hết đánh đập lại đến chuồng cọp. Long biết rằng cái đau nhất đối với bọn quản giáo VC là để tù trốn thoát nên anh đã âm thầm sửa soạn vượt ngục, ôn lại những bài học “mưu sinh thoát hiểm” của TQLC, anh cũng biết rằng vượt ngục tại Kà Tum thì 9 phần chết 1 phần sống nhưng anh không sờn lòng. Tháng 5/1978 Bác Sĩ Đặng Tuấn Long đã vượt ngục một mình và từ đó đến nay không còn ai biết tin tức của anh.
CÂU CHUYỆN TAN HÀNG CỦA QĐI VÀ SỰ MẤT TÍCH CỦA MỘT BS TQLC .
Sau khi bị mất gần sạch Quân Đoàn I Tiền Phương, chúng tôi rất hoang mang vì sự im lặng khó hiểu của cấp chỉ huy QĐI. Tối ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng mở 1 cuộc họp các Tư Lệnh Sư Đoàn và Quân Binh Chủng của QĐI, vì lý do tình cờ tôi đã có mặt trong buổi họp này. Tại đây trước sự kinh ngạc của mọi người tham dự, Tướng Trưởng tuyên bố “mình rút đêm nay” mà chẳng cho lệnh lạc hay kế hoạch gì hết.
Chỉ huy QĐI có 3 vì Tướng: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh, Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc-Tư Lệnh Phó, Trung Tướng Lâm Quang Thi- Tư Lệnh Phó kiêm Tư Lệnh Tiền Phương. Thiếu Tướng Lạc đả bỏ về Saigon hôm 26/3/1975 rồi vì lý do “kẹt máy bay” không trở lại (trích CTTB, Hồ Văn Kỳ Thoại trang 273), Trung Tướng Thi, sau buổi họp đêm 28/3/1975 dùng trực Thăng bay ra chiến hạm HQ5 lúc 10.40 pm, còn Trung Tướng Trưởng bay về Non Nước nơi có Bộ Chỉ Huy SĐ TQLC để rồi sáng hôm sau, ngày 29/3/1975, ông là người đầu tiên lội ra chiến hạm HQ404. Trước khi đi ông đã nói với Đại Tá Nguyễn ThànhTrí Tư Lệnh Phó SĐ TQLC: “coi như đây là một cuộc tự thoát”.
Tính cho đến sáng ngày 29/3/1975 toàn thể 3 vị tướng chỉ huy QĐI đã bỏ tất cả những gì còn lại của QKI để ra đi. QĐI như rắn mất đầu và hỗn loạn đã xẩy ra…
Tướng Lân Tư Lệnh SĐ TQLC và Tướng Thoại Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải bị lạc trong dẫy núi Sơn Trà, nơi có một trung đội Đặc Công VC đang đi tìm hai ông, may mắn được “tự thoát” vì tình cờ có 1 thuyền nhỏ của HQ đi qua, nghe thấy tiếng gọi của Tướng Thoại nên vào cứu.
Tướng Khánh Tư Lệnh SĐI Không Quân bị lạc tại một bãi biển hoang vắng “tự thoát” bằng cách chiếu đèn pha trực thăng làm hiệu nên được HQ802 vào cứu.
Tướng Hinh Tư Lệnh SĐ 3 BB cùng gần 1000 binh sĩ được “tự thoát” vì có 1 chiến hạm tình cờ nhìn thấy vào đón…
Đó là những người may mắn. Trên 90/100 quân số QĐI không “tự thoát” được, họ bị giết bởi đạn thù hay đạn bạn, bị chết đuối trên biển, họ tự tử tập thể bằng lựu đạn hay mìn Claymore, số còn lại bị VC bắt làm tù binh. Tướng Điềm Tư Lệnh SĐI BB trên đường “tự thoát” bị tử trận tại Chu Lai, 8000 trong số 12.000 TQLC đã không “tự thoát” được. Ngày 29/3/1975 trên bãi biển Non Nước là một địa ngục trần gian không khác gì cái “Pháp Trường Cát Thuận An” 3 ngày trước… Trong số 4000 TQLC đã “tự thoát” được thì ngoại trừ gần 2000 TQLC của Lữ Đoàn 468 may mắn được tầu HQ đón,còn đa số chỉ còn quần xà lỏn bơi ra tầu HQ cách bờ trên dưới 1 km, đây là con số cao nhất so với các đơn vị bạn tại QKI.
Ngày 29/3/1975 Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369 TQLC, Trung Tá Đỗ Hữu Tùng Lữ Đoàn Phó LĐ 369 TQLC và Bác Sĩ Cao Mạnh Thăng Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 369 là 3 người trong số 8000 TQLC được ghi nhận mất tích tại Đà Nẵng. Khi về đến Cam Ranh rồi Vũng Tầu và cho đến tận bây giờ vẫn không ai tìm thấy hay nghe tin tức gì về 3 người này…
Trên đây là những hy sinh của Quân Y TQLC, còn nhiều hy sinh khác mà tôi không biết đến nên không kể ra. Chúng tôi đã cùng anh em TQLC “12 tháng anh đi” tăng phái cho cả 4 vùng chiến thuật, đánh những trận ác liệt nhất với các đơn vị hàng đầu của địch, và rồi...cũng chết như những người khác!
Dù rằng đã bị bỏ rơi và tan hàng tại QKI ngày 29/3/1975, nhưng khi về đến Vũng Tầu chúng tôi đã tái tổ chức và tiếp tục chiến đấu bảo vệ đất nước cho đến ngày 30/4/1975.
Tuy rằng phải chịu trăm cay ngàn đắng và tổn thương nhiều nhất so với Quân Y các đơn vị bạn nhưng trong suốt chiều dài của cuộc chiến, các Bác Sĩ Quân Y TQLC không có ai đào ngũ trước hàng quân.
Viết cho ngày Đại Tang thứ 40 của Binh Chủng TQLC
BS TQLC Phạm Vũ Bằng.