HAPPY VALLEY HAY TÁM NGƯỜI LÍNH TQLC MỸ LIỀU MẠNG TÌM XÁC ĐỒNG ĐỘI
Tài Trần: Cách đây khoảng một tháng, một YouTuber có đọc bài "Câu chuyện bốc viễn thám - Đỉnh cao Happy Valley". Mấy hôm nay, vào mạng tìm hiểu, tôi được biết Happy Valley (Thung lũng Sung sướng) là tên do TQLC Mỹ đặt cho một khu vực ở phía tây Đà Nẳng, thuộc quận Đại Lộc (Quảng Nam), cũng là nơi diển ra các cuộc hành quân của TQLC Mỹ trong những năm từ 1968 trở về sau. Sau đây là câu chuyện về 8 người lính TQLC Mỹ tình nguyện đi tìm xác đồng đội bị bỏ lại sau một trận đánh cấp đại đội tại khu vực này.
======
Bài của Jack Wells
Tháng Tư 2019
Trong tháng Hai 1968, tám TQLC Mỹ đã tình nguyện cho một nhiệm vụ cảm tử.
Sau khi tiểu đoàn (TĐ) bị thiệt hại 32 người chết và bị thương trong 30 giờ đầu của cuộc hành quân, trung tá tiểu đoàn trưởng Bill Davis đã ra lịnh cho đại đội C và D của tiểu đoàn 1 trung đoàn 7 TQLC bỏ Đồi 270 và 310 để trở lại căn cứ ở đồng bằng phía đông. Được biết cuộc hành quân mang tên Pursuit này đã phát động trong giữa tháng Hai 1968 bởi sđ 1 TQLC Mỹ để tìm các kho vũ khí trong vùng núi phia tây của Đà Nẳng.
Một lát sau đó trong buổi sáng của ngày 16 tháng 2, quyền đại đội trưởng của đại đội C, trung úy (1st Lt) Dana F. Maccormack, đang rút quân từ đồi 270, đã báo với Davis: "Quân CSBV xuất hiện! Chúng tôi lại có thêm một người chết mà trực thăng ko xuống được (do not have room for). Chúng tôi lại gặp rất nhiều khó khăn khi phải mang xác này." Davis, từ BCH trên Đồi 10, nói MacCormack rút đại đội khỏi núi ngay lập tức để tránh thêm thương vong. Và điều đó có nghĩa để xác này lại.
Từ lâu tình báo Mỹ đã biết hàng ngàn quân csbv đã đi bộ dọc đường mòn HCM ở đông Lào và di chuyển xuống Thung lũng Ashau trước khi tiến về vùng đất cao, gồm Đồi 270 và 310, vùng đất này nhìn xuống một khu vực được người Mỹ đặt tên Happy Valley (Thung lũng Sung Sướng) và các vị trí TQLC ở phía đông.
Các đv của trung đoàn 31 và trung đoàn pháo 368B CSBV thường xuất phát từ Thung lũng này trước khi chuyển tới "Vành đai Hỏa tiển" (Rocket Belt), một vòng cung chạy từ bắc xuống nam chung quanh bờ tây của Đà Nẳng để họ có thể bắn hỏa tiển 122 ly và 140 ly của Liên Xô vào căn cứ không quân Đà Nẳng, Căn cứ Ngũ Hành Sơn và những kho đạn và nhiên liệu quan trọng. Rìa bên trong của vành đai này cách các địa điểm quân sự trên đây chừng 5 dặm; rìa bên ngoài của vành đai này khoảng 7.5 dặm. Nếu hỏa tiển của CSBV đặt ở bên ngoài vành đai thì chúng ko thể bắn tới các căn cứ trên.
Mỗi TĐ của trung đoàn 7 TQLC trách nhiệm một đoạn của vành đai này, để bảo đảm rằng CSBV ko thể chuyển hỏa tiển xuyên vòng đai để bắn Đà Nẳng. BCH tiểu đoàn 1 đặt tại Đồi 10, nằm bên trong vành đai. Khu vực trách nhiệm của họ rộng 72-dặm vuông bao gồm các Đồi 270 và 310 ở phía tây, cách Đồi 10 chừng 3 dặm (các số 270 và 310 là độ cao bằng mét).
Ngày 13 tháng Hai, một ngày trước khi phát động hành quân Pursuit, Davis gặp đại tá Paul Graham, trưởng phòng 3 sđ. Vài ngày trước đó, một tiếng nổ phụ lớn đã được ghi nhận ở khu vực yên ngựa nối Đồi 270 và 310. Điều này cho thấy có kho đạn của CSBV, và Graham chuyển lịnh của tư lịnh sđ Thiếu tướng Donn J. Robetson, rằng "tiểu đoàn phải tiến hành lục soát khu vực này" -- một trong khu vực núi rừng hiểm trở nhứt trong khu vực trách nhiệm của TĐ.
Hành quân Pursuit bắt đầu lúc 11 g sáng ngày 14/2 khi đại đội C rời đầu phía tây của Đồi 10 trong khi đại đội D xuất phát từ Đồi 41, khoảng 2 dặm ở đông nam của Đồi 10. Đi theo họ là trung sĩ Robert Bayer phóng viên chiến trường của sđ và hạ sĩ nhứt R.J. Del Vecchio chụp hình. (Theo tổ chức của quân Mỹ, đặc biệt là Lục quân, corporal (Cpl) là hạ sĩ, trên Pfc (binh nhứt) nhưng dưới sergeant (Sgt) trung sĩ. ở TQLC, corporal là hạ sĩ nhứt, dưới trung sĩ, nhưng trên lance corporal (hạ sĩ).-- Người dịch).
Hai đại đội đã bắt tay với nhau khi tiến gần Đồi 270 và 310. Cây rừng rậm rạp ở chân Đồi 270 khiến TQLC phải leo núi chậm chạp bằng cách đi hàng một vừa chặt cây bằng dao. Lúc 6:30 chiều, đại đội D đã chiếm Mục tiêu 1, một yên ngựa giữa Đồi 270 và 310. Đại đội C chiếm Mục tiêu 2 ở đỉnh của 270.
Trong hồi ký, trung úy (2nd Lt) Mark Whitter, chỉ huy trung đội 2 của đại đội C, viết: "Chúng tôi tới đỉnh của 270 và thấy một hầm trú ẩn (bunker) và một hệ thống dây truyền tin mà địch đang dùng. Chúng tôi cũng tìm thấy một nhật ký. Từ hầm này người ta có thể thấy toàn cảnh Đà Nẳng và nhật ký ghi chép những đv đã rời đồi ngày nào và đi đâu... Giòng cuối cùng ghi "nhiều TQLC Mỹ rời Đồi 10 để tới vị trí này." Địch đã rời hầm này này trong vội vả và máy truyền tin còn hoạt động.
Ngày hôm sau, 15/2, đại đội C đã phá hủy hầm này. Khoảng thời gian đó, địch đã phục kích làm bị thương 4 TQLC của đại đội D ở yên ngựa. Đại đội C, với trung đội của Whitter đi đầu, nhanh chóng di chuyển xuống phía nam của đồi 270 để tăng cường cho tiểu đội bị phục kích này.
Đột nhiên, toán tiền tiêu (point squad) của Whitter, khi tới yên ngựa, đã bị quân CSBV, núp trong các hầm trú ẩn và hố cá nhân (spider hole), ngụy trang rất kỹ tấn công. Ba TQLC chết ngay lập tức, và vài người bị thương.
Binh nhứt (Pfc) khinh binh Michael Kelly, mới về đại đội 2 tháng, bị đạn trúng vào lựu đạn đeo ở thắt lưng, khiến chân gần đứt lìa (severe).
Hạ sĩ nhứt (lance cpl) Russell Nauge, tổ trưởng đại liên của trung đội, chạy nhanh xuống núi vừa bắn khẩu M-60. Trong khi cố gắng kéo kẻ bị thương về phía sau, ông bị thương 4 lần và chết sau đó trong ngày.
Các trực thăng cứu thương bay vào cấp cứu, nhưng phía Đồi 310 trên yên ngựa đầy cây cối rậm rạp khiến trực thăng phải thả dây xuống để kéo người lên, trong khi họ bị bắn bởi B-40, súng AK-47 và đại liên 12.7 ly. Cuối cùng, sau NĂM GIỜ chiến đấu và cố gắng tải thương, đại đội C đã đưa hết thương binh, trừ Kelly. Vào cuối ngày, hai đại đội này chết 5 người và bị thương 27.
Ngày kế, 16 THÁNG 2, khoảng 7:30 sáng, sau khi Davis ra lịnh cho hai đại đội này trở về căn cứ xuất phát, BCH tiểu đoàn và đại đội D chuẩn bị đi xuống thung lũng thì chỉ huy đại đội C gọi. Y báo rằng đv của y vẫn còn ở yên ngựa, bị bắn từ các hầm trú ẩn ngụy trang rất kỹ đặt ở dốc phía bắc của Đồi 310. Có sáu lính CSBV bắn họ -- chúng gần đến nổi lính của MacCormack có thể thấy đồng phục và nón cối của chúng.
Một đài quan sát của TQLC trên Đồi 502 ở phia tây, cho Davis biết một lực lượng lớn CSBV đang tiến về đại đội C. Đại tá này liền báo MacCormack, chẳng bao lâu y báo rằng y có thể thấy địch đang tiến tới và nói thêm rằng lính của y rất chật vật khi mang xác của Kelly.
Trong khi đại đội C tiếp tục xuống núi, MacCormack lần nửa gọi Davis: "Chúng tôi vừa bị thương thêm 5 người khi xuống Đồi 270, khiến chúng tôi đi chậm, do vậy tôi đã phải để xác Kelly ở một hố bom trên yên ngựa. Chúng tôi có thể trở lại và lấy xác sau đó.
Đầu buổi chiều, hết lương thực và nước uống, đạn dược sắp cạn, những lính TQLC mệt mỏi (weary) vì chiến đấu của đại đội C đã tới Đồi 10 và gặp đại đội trưởng, đại úy Karl Ripplemeyer, vừa đi phép trở về. Trong khi đó, Đại đội D về căn cứ ở Đồi 41.
Tiểu đoàn trưởng Davis gọi đại tá Ross Miner, nói rằng TQLC đã về căn cứ nhưng bỏ lại một người chết. Vài giờ sau đó, đại tá Miner nói Davis rằng B-52 sắp tấn công Đồi 270 và 310 và bảo ông gửi một toán thu hồi xác của Kelly trước khi B-52 tới. Tuy nhiên, Davis ko muốn hy sinh thêm người tại vùng rừng núi này trước khi B-52 tới và đã tranh cãi về việc lấy xác này, nhưng Miner ko thay đổi (rescind) ý định.
Davis thảo luận về lịnh của Miner với Ripplemeyer, cũng như trưởng ban 3 tiểu đoàn và sĩ quan về không yểm của tiểu đoàn. Davis đã quyết định dùng các người tình nguyện của đại đội C để lấy xác vì họ biết vị trí của xác Kelly.
. . .
Toán tình nguyện lấy xác của Kelly chỉ có vài giờ để chuẩn bị. Họ gồm 8 người, gồm hạ sĩ và binh nhứt, dưới sự chỉ huy của trung sĩ John D. McCreless, 20 tuổi.
Trang bị của họ rất nhẹ -- ko nón sắt, ko áo giáp, ko băng đạn và trừ một người, tất cả đều xin đổi súng M-16 bằng súng M-14 tin cậy hơn. "Chúng tôi sẽ ko chạm súng, di chuyển âm thầm trong bóng tối, lấy xác và trở về. Nếu chúng tôi đụng lực lượng lớn của địch, chúng tôi mạnh ai nấy rút, tìm đường trở về." -- Hiệu thính viên Grandos nói.
Trước khi toán khởi hành, một trung sĩ nhứt đã nói với trung sĩ McCreless: "Dù tình hình xấu thế nào, anh cố gắng mang về cái chân của Kelly (do lựu đạn nổ ở thắt lưng nên một chân đã bị đứt rời)." Tám người lính TQLC ko hoạt động đơn độc vì các máy bay thám thính và ném bom sẵn sàng can thiệp lập tức khi có yêu cầu của họ.
Lúc 2 g sáng ngày 17 tháng Hai, toán cảm tử của McCreless rời Đồi 10. Hơn một giờ sau, gần ngôi làng bỏ hoang Phước Ninh (5)--bản đồ quân sự phân biệt những làng trùng tên bằng cách đánh số--TQLC đã nhận thấy quân CSBV tiến tới vị trí của họ. Hạ sĩ Chamberlain đã nổ súng và giết một tên, giờ đây toán đã lâm nguy (compromise). MCCreless đối diện khó khăn: hủy bỏ nhiệm vụ hay tiếp tục. Y báo về BCH tiểu đoàn và được lịnh tiếp tục. Không ai muốn thấy một quan tài ko xác gửi về cho gia đình kelly, và những người trong toán đã biết những nguy hiểm khi họ tình nguyện.
Khi tiếp tục di chuyển tới chân của Đồi 270, TQLC thấy một toán tuần tiểu địch, và McCreless ngừng một giờ gần một làng bỏ hoang khác, Phước Ninh (7), một biện pháp phòng ngừa trong đêm tối để chắc chắn rằng ko có hoạt động khác của CSBV trong khu vực trước khi tiếp tục tiến quân.
Lúc rạng đông, khoảng 5 g sáng, toán đã vượt qua các ruộng lúa trống trải và bắt đầu đi vào rừng rậm ở sườn của đồi này. Ba giờ sau đó, họ đã ở một khu bằng phẳng bên trên hố bom, nơi xác của Kelly, che bởi poncho. Ở đó họ chờ thám thính cơ L-19 gọi máy bay tới ném bom.
Một phi công gọi MCCreless cho biết bom lửa napalm thả từ máy bay Phantom II sẽ rơi hướng về hố bom có xác của Kelly. Y yêu cầu các thành viên trong toán tìm chỗ nấp, hít sâu ba lần, thở ra và tiếp tục nín thở. Bom lửa rơi khoảng 100 yard ( = 91.44 m) trước toán. Granados vẫn còn nhớ sức nóng hừng hực và bụi đất bay ngang mặt y. Y cảm thấy bị nhấc khỏi mặt đất.
Sau khi lửa giảm bớt, Grandos thấy lính CSBV nhảy khỏi hầm trú ẩn và hố cá nhân. McCreless, lo sợ rằng địch quân sẽ tấn công toán quân của y nên la lên: "Lấy cái chân, và rút ngay!"
Giây phút sau đó, hạ sĩ Ranes và binh nhứt Adamson chạy nhanh tới hố bom. Họ nhanh chóng nhặt cái chân đã đứt rời của Kelly và cột vào ba-lô của Chamberlain. Và tám TQLC chạy nhanh về đường cũ, giữa bom napalm đang cháy âm ỉ (smolder) và đạn địch bắn vào cây và bui rậm quanh họ. Các F-4 Phantom đã nhanh chóng câm họng hỏa lực địch.
Sau khi tới vùng đất bằng phẳng (flatland), toán đã gặp trung đội 1 của đại đội C, được gửi tới để giúp nếu có ai bị thương hay chết. Trung đội này đã hộ tống toán về căn cứ, và lúc 2 g chiều, tất cả đã đến Đồi 10.
Quá đổi vui mừng, tiểu đoàn trưởng David tập hợp họ để nói chuyện và mời họ bia lạnh và xì-gà để mừng thành tựu khó tin này. (Lúc đó ông ko biết rằng xác của Kelly chưa tìm được).
McCreless nói: "Lý do duy nhứt mà tôi có thể nghĩ rằng tại sao chúng tôi thành đạt (pull it off) vì quân csbv ko thể tin rằng chúng tôi ngu ngốc đến độ đi đến đó và làm điều chúng tôi đã làm. Họ có thể nghĩ rằng chúng tôi làm mồi nhử để dụ địch."
. . .
Trong vòng 10 g sau khi toán cảm tử trở về, các B-52 từ căn cứ Anderson tại đảo Guam đã tàn phá đồi 270 và 310. Nhưng Bắc quân đã trở lại Đồi 310 và thêm nhiều lính tqlc đã bị thương hay chết ở đó vào tháng sau trong hành quân Worth và trong tháng Tám trong hành quân Mameluke Thrust.
Ngày 8 tháng Ba, Whitter và McCreless bị thương. Sau đó cùng ngày, Whitter đã chết tại bịnh viện hải quân ở Đà Nẳng. Vài ngày sau đó, McCreless được chỡ tới Nhật để mổ. Trong cuộc chạm súng ngày 30 tháng Năm, Rodriguez, một thành viên trong toán cảm tử tử trận.
Đại đội E của tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 đã tìm thấy xác của Kelly ngày 25 tháng Ba trong hành quân Worth. Một trực thăng cứu thương bốc di hài của Kelly đưa về một nhà xác ở Đà Nẳng. Một tang lễ với cái hòm chứa chân của Kelly được tổ chức ở quê anh tại Findlay bang Ohio tháng Ba 1968. Một tang lễ thứ hai , với di hài của Kelly, được tổ chức tháng Tư 1968.
Dịch từ: https://www.historynet.com/the-doom-patrol-eight-marines-on-a-suicide-mission-in-vietnam.htm?fbclid=IwAR2fXDMMdWlclhuG-fAXxP1KLabGLyeU3NvdYD19ZChVx9FZhN9GVAhI_
San Jose ngày 8 January 2022.
Tài Trần
==============
Ghi chú: Bắt đầu dịch sáng ngày 6 Jan và xong lúc chiều 8 Jan 2022.
No comments:
Post a Comment