THIẾU TÁ BERNARD FISHER ĐÁP XUỐNG PHI ĐẠO A SHAU ĐẦY ĐỊCH QUÂN ĐỂ CỨU BẠN
======
Bài viết Trận A Shau đã đăng trên trang web của Hội Cựu Chiến Binh Mỹ để vinh danh anh hùng-thiếu tá Bernard Fisher. Ông là phi công Mỹ đầu tiên tại Việt Nam được TT Mỹ tưởng thưởng huy chương cao quý nhất của KQ.
Ghi chú: Vì tác giả là người Mỹ, trong bài chuyển ngữ dưới đây, trừ những đơn vị (đv) có chữ VNCH đi kèm, còn lại đều là các đv Mỹ -- người dịch (ND).
Sau đây là phần chuyển ngữ.
========
- Tính luôn chiếc A-1E Skyraider của thiếu tá không quân Myers bị bắn rơi và chiếc Hỏa Long AC-47 bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống một triền núi, tổng cộng có 6 máy bay của Không quân (KQ), Hải Quân (HQ) và TQLC bị rơi khi cứu trại LLĐB A Shau.
"
Vị trí của trại LLĐB A Shau
Ở góc Tây Bắc của Nam Việt Nam, có một thung lũng mọc có tên A Shau ở tỉnh Thừa Thiên. Chạy dài 25 dặm hay 40,23 km , thung lũng có một đồng bằng chỉ rộng 1,6 km bao phủ bởi cỏ voi và hai bên là những ngọn núi lửa phun trào cao tới 5.500 bộ hay 1.676 mét . Với một con đường đất chạy về phía trại LLĐB A Lưới ở phía Bắc và trại LLĐB A Shau ở phía nam, thung lũng này là nơi đã diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân Mỹ và quân CSBV trong suốt chiến tranh VN và là một trong những trận chiến đó. tiêu điểm (tiêu điểm) chiến lược của cuộc chiến này.
(Nói thêm: Theo Wikipedia , trại A Lưới được Liên đoàn 5 LLĐB Mỹ (Đoàn 5 Biệt Kích) thành lập năm 1962 , dọc theo tỉnh lộ (TL) 548 , 40 km tây nam Huế. Trại bị giải ngũ năm 1966 do áp lực ngày gia tăng của quân csbv. Tháng 4/1968, hành quân (HQ) Delaware của sđ 1 Không Kỵ đã sử dụng trại này một thời gian vì đã có sẵn phi đạo. Tđ 8 công binh đã sửa phi đạo cho máy bay C- 123 Nhà cung cấp và C-130 Hercules có thể trả lời. Tháng 8 cùng năm, sđ 101 Dù tái sử dụng A Lưới để sử dụng trong HQ Somerset Plain. Năm 1969, sđ 101 dù trở lại A Lưới trong HQ Kentucky Jumper.
Theo một thông tin khác, A Lưới nằm cách TL 547 2 km về phía bắc từ Huế đến thung lũng A Shau . Trại Tà Bạt ở cách đó vài km về phía nam -- người dịch).
TRẠI LLĐB A LỢI XE MOLOTOVABị QUÂN MỸ TỊCH THU TRÊN THÙNG LŨNG A SHAU."Bởi vì tầm quan trọng của nó đối với CSBV, A Shau đã trở thành chiến trường ngay từ những ngày đầu tiên khi tôi có thể xâm nhập vào VN. LLĐB Mỹ đã lập trại của họ vào năm 1964 ở khúc cuối của thung lũng A Shau. Trại cách biên giới Lào-Việt 3,2 kmand is a trùm kín liên tục (constant) for bắc VN. Vì từ trại, lính Mũ Xanh đã có thể quan sát và gây trở ngại (cản trở) để lưu lượng người và xe cột trên đường mòn HCM bên kia biên giới. Quân Mỹ cũng theo dấu vết (astride) đường xâm nhập của CS đến Huế và Đà Nẳng. (Thung lũng này có tỉnh lộ (TL) 548 có từ thời Pháp, chạy theo hướng bắc nam và sau này là một nhánh của đường mòn HCM; từ thung lũng cũng có TL 547 chạy đến Huế; hai TL này bị bỏ hoang từ sau năm 1954. Thung lũng cũng là nơi phát người và vũ khí để tấn công Huế năm Mậu Thân 1968 -- theo sách Hamburger Hill, người dịch). Là một góc rất xa xôi của Cao nguyên Trung phần, trại LLĐB này hoàn toàn dựa vào không có răng cưa vì ngoài tầm ngắm binh của các căn cứ VNCH và đồng minh gần nhất. Vật liệu xây dựng trại được cài đặt bởi máy bay C-123of Not army (KQ) My. Mọi thứ, bao gồm lương thực và dược phẩm, đều không được sử dụng. Trại bao gồm vài tòa nhà để binh sĩ ở, nằm trong một đồn hình tam giác, và một sân bay bằng các tấm PSP , xem hình. Ba góc của đồn đều có tổ súng. Các bức tường làm bằng tấm thép (tấm thép) và bao cát.
Sân bay ở phía đông của trại, nằm ngay bên ngoài hàng rào. Thung lũng nằm ngoài tầm nhìn của pháo binh VNCH và Mỹ nên việc bảo vệ hoàn toàn dựa vào không lệch. Tại vị trí này của trại thì thung lũng có khoảng cách dài 6 sóng và chiều rộng hơn 1 sóng . Hai bên lửa đều có những ngọn núi cao 1.500 bộ hay 457,2 mét so với thung lũng. Thung lũng thường bị che phủ bởi mây và sương mù rất thấp. Các phi công Mỹ đã gọi thung lũng là "đường hầm" (ống) khi bay ở đây. Tháng 2/1966, quân csbv đã quyết định xóa bỏ trại này (đặt smt ra khỏi doanh nghiệp) và chuyển một trung đoàn mới tinh, đi theo đường mòn HCM để tham gia sđ 325 csbv, đang hoạt động gần Huế.
Hải cán binh CSBV hồi chánh
NGÀY 5 THÁNG 3, hai bộ đội CSBV đào ngũ, báo tin một cuộc tấn công sẽ xảy ra vào ngày 11 và 12 tháng 3. Họ nói sđ 325 ở khoảng 7 km về phía đông trại. Máy bay liên tục ném bom địa điểm này.
NGÀY 7 THÁNG 3, máy bay C-123 của KQ đã chỉ huy quân đội, làm gia tăng quân trú phòng đối với 17 lính Mũ Nâu và 368 DSCĐ Nam VN và lính Nùng. (Theo Green Berets at War thì lúc đó có 17 LLĐB Mỹ, 6 LLĐB VN, 7 thông dịch viên, 143 lính Nùng, 210 DSCĐ thuộc 3 đại đội (đ.đ.) 131, 154, và 141 -- đ.đ . cuối cùng nghi là theo VC. Ngoài ra còn có 51 người bao gồm công nhân (worker) và các cô làm cho quân tiếp viện (QTV). Như vậy ngoài 51 người này còn có 383 TÂY SÚNG -- người dịch) .
Nói thêm: Lính Nùng rất thiện chiến và trung thành; trước 1954 dân Nùng ở miền Bắc, sau di cư vào Nam, sống tập trung ở Rừng Lá , trên đường từ Bình Tuy đi Xuân Lộc. SĐ 5 bộ binh VNCH, khi thành lập, phần lớn là lính Nùng với cấp chỉ huy là ĐT Vòng A Sáng . Trong hàng ngũ quân VNCH, cũng có nhiều người gốc Nùng, con cháu của những người Nùng di cư 1954 -- người dịch (ND).
Ngày đầu tiên của trận đánh
Trận tấn công đã sớm hơn dự kiến (dự kiến). KHOẢNG 2 G SÁNG NGÀY 3/9, cuộc pháo kích đã bắt đầu, xuất phát (phát ra) từ những đồi núi chung quanh. Đạn ma cà rồng, Đạn đại bác và Đạn B-40 đã giả làm trại tàn phá, giết hải quân nhân Mỹ và làm bị thương 30. (Nói thêm: bên kia biên giới là căn cứ của csbv nên họ có pháo binh -- người dịch). Cuộc kích hoạt đã bắt đầu tạo ra các ngôi nhà và kho dữ liệu tiếp theo. Cuộc nổ súng đã kết thúc lúc rạng đông. Khoảng cách 2 quân chính quy CSBV đã quyết định sử dụng trại ngoại trừ KQ đẩy lui của họ. Vì mây thấp ở độ cao 200 bộ hay 61 m tiếp tục che phủ ở nhiều nơi của thung lũng khiến không thể mù quáng. Nhưng khi chuẩn bị bị tấn công toàn lực vào trại thì tầm nhìn tốt hơn. Lúc 11:20 sáng, với trần mây là 122 m, một chiếc Hỏa Long AC-47của KQ, đã bay xuyên qua mây và bay sát ngọn cây để tiêu diệt những kẻ tấn công. Nhưng ở vòng hay 'vượt qua' thứ hai, chiếc AC-47 này bị trúng đạn phòng không. Động cơ bên hẳn đã bị xé rách (xé) khỏi cánh, vài giây sau đó, động cơ thứ hai cũng bắn trúng luôn. Chiếc AC-47 với viên đạn đậu, đã đáp khẩn cấp xuống một triền núi (dốc núi), cách quãng đường 5 dặm.
(Nói thêm: Phi đoàn AC-47 (ACS) thứ 4 đã phát triển đến sân bay TSN, Việt Nam ngày 14/11/1965. Mỗi khẩu (minigun ba khẩu đặt ở bên trái của máy bay) với 6 nòng có có thể bắn 50 viên hay 100 viên đạn 7,62 ly mỗi giây Bay ở tốc độ bình phi (hành trình) 120 hải lý hay 138 km giờ ở độ cao 910 m, pháo hạm này có thể đặt một viên đạn viên đạn thường hay viên đạn màu đỏ (cứ) 5 viên có 1 viên đạn này) vào một sân vuông hay 0,836 m2 của một mục tiêu bằng sân bóng đá chỉ trong thời gian chưa tới 10 giây! nhiều giờ.Theo wikipedia.
Ảnh đính kèm: Đạn đánh dấu từ AC-47 bắn xuống mục tiêu gần SG năm 1968. Cứ 5 viên đạn thường có một viên tham khảo sáng. Giúp người dưới đất hướng dẫn máy bay tác xạ --người dịch).
Không còn máy bay Hỏa Long AC-47, BCH đã điều khiển máy bay A-1E từ Pleiku, với tín hiệu truyền tin (callsign) Hobos, tới trại cứu hộ tiếp theo. Tuần trưởng là thiếu tá KQ Bernard F. Fisher , một phi công 39 tuổi. (Một tuần phi thường là 2 chỗ: một bên phụ để hỗ trợ lẫn nhau -- người dịch (ND). Anh đã lái phản lực cơ sở BCH phòng không ở nội địa Mỹ trước khi đến VN, và khi buộc dây an toàn hoàn toàn vào chiếc ghế của chiếc cánh quạt A-1E, anh vẫn còn đội nón bay có hình vẽ phản lực cơ F-104 Starfighter . nhưng không ai phủ nhận nó rất thích hợp với nhiều nhiệm vụ.Nó được cải tiến từ chiếc oanh tạc-chiến đấu cơ AD-5 của hãng Douglas mà hải quân (HQ) Mỹ đã sử dụng ở Cao Ly, nay là Hàn Quốc. It has4 đại bác 20 ly và mang nhiều bom đạn . Tốc độ bình phi là 240 giờ, nhưng có thể bay từ 6 đến 8 g cho một phi vụ . Nó có thể bay rất lâu ở tốc độ thấp, rất lý tưởng cho yễm trợ tiếp cận (hỗ trợ trên không gần) và có 2 chỗ ngồi cạnh nhau.
Được điều hướng tới A Shau sau khi chiếc AC-47 bị rơi vào ngày 3/9, Fisher và phi tuần phó, Bruce Wallace, đã nhìn thấy những ngọn núi phủ đầy mây. Ngay khi tới mục tiêu, Fisher đã bắt đầu thăm dò để tìm ra hẻm núi mà trên đó có trại. Trong lần thứ 3, khi vừa ra khỏi đám mây, anh đã ôm một người trực thăng vừa đến A Shau để tải thương. Phi công trực thăng đã chỉ dẫn Fisher tới một con ngựa yên nghỉ ở giữa núi, nơi y tìm thấy một cuộc hôn nhân thú vị giữa đám mây và ở khoảng 5 dặm tây bắc của trại. Fisher và Wallace liền chui vào khe và bay trên thung lũng ở mức độ thấp. Phòng không có hỏa lực của đối thủ cạnh tranh. BCH cuộc hành quân đặt trên vùng C-130 đang được bảo vệ, ra lịnh cho Fisher phá hủy chiếc AC-47 trước khi CS lấy vũ khí của chiếc này. Fisher giao việc này cho Wallace bằng cách ném 6 quả bom để phá hủy nó trong khi Fisher trực tiếp hỗ trợ trại. Trong vài giờ kế tiếp, hai người đã hướng dẫn các máy bay khác đến trợ giúp trại. Fisher đã hướng trực thăng CH-3C , xem hình, đến tải thương mại. Ông cũng hướng dẫn các A-1E khác tấn công một lực lượng tập trung để đánh đồn.
Ông được lệnh yễm trợ 2 chiếc C-123 sắp đến trạm phóng tiếp tế. Đường bay rất cơ vì chung quanh là núi, và tầm nhìn chưa tới nửa sóng. Họ đã bị bắn khi cách chiến dịch 7 bay về phía bắc. Fisher liền kề áp lực chiến đấu khi C-123 thả tiếp tế ở độ cao 50 bộ hay 15 m. Sắp hết nhiên liệu, Fisher chui ra khỏi đám mây một lần nữa để giúp L-19 hướng dẫn hai quả bom B-57. Tổng cộng ông đã bay khoảng 2 giờ dưới đám mây. Sau đó 20 phút, anh đáp khẩn cấp xuống Đà Nẳng, với trận sắp hết. Hôm nay 3/9, có 19 trại hỗ trợ xuất hiện. Gồm có 17 của KQ, 10 của TQLC, và hai của KQ VNCH. Anh từng được tưởng thưởng Ngôi Sao Bạc giao cho nhiệm vụ trên, và Wallace nhận Phi Dũng Bội Tinh (Thập tự cao).
Chiếc A-1E của thiếu tá Bernard Fisher được triển lảm tại bảo tàng KQ Mỹ.
Khác nhau giữa A-1E và A-1H.
Ngày thứ 2 của trận đánh
Ngày 3/10, Adman tấn công lúc 2g sáng. Chúng không ngừng nghỉ, và trước 4 giờ sáng, đã mở cuộc xung phong vào sườn nam của trại. Trước mặt đông, chúng nổi bật chu vi phòng thủ và nổi bật bức tường (làm bằng tấm thép và bao cát) phía nam trại. Quân ban đầu phòng bị lật về phía bắc của trại, và quân CSBV đã đào tạo công sự giữa sân bay và trại. Hai C-123 và một AC-47 thả trái sáng suốt đêm. Ngay sau 5 giờ sáng, nhờ radar dẫn đường, máy bay phản lực A-4 Skyhawk của TQLC đã tấn công các vị trí dẫn đầu. Máy bay KQ và TQLC đã oanh kích và bắn phá liên tục. Khoảng cách 11 g sáng, quân đoàn báo cáo không thể kéo dài hơn một giờ nữa và xin ngừng thả viên đạn vì họ không thể ra ngoài trại để nhận.
Phi công Fisher và Vazquez dự trận
Ngày hôm đó, Fisher và phi tuần phó, đại úy (đ.u.) Francisco Vazquez, đang trên đường yễm trợ cho bộ binh gần Kontum thì nhận lịnh đổi hướng về A Shau. Danh hiệu truyền tin của Fisher là Hobo 51 và của Vazquez là Hobo 52. Lúc 11:15 sáng, phi tuần của Fisher đã tới không phận của A Shau và thấy nhiều máy bay đang làm vòng chờ ở cao độ 8.000 bộ và trên đám mây. Họ ko dám xuống thấp để cứu trại do sợ đụng vào núi do mây bao phủ. Ông cũng thấy một phi tuần A-1E của thiếu tá Dafford Myers, thuộc phi đoàn 602 ở Qui Nhơn. Myers có danh hiệu truyền tin là Surf 41 và phi tuần phó, đ.u. Hubert King là Surf 42. Myers từng là bạn cũ của Fisher vì cùng làm ở BCH Phòng Không ở nội địa, đã kể ở trên.
Myers gợi ý rằng có thể có lổ hổng ở phía tây. Fisher nghe theo và thấy lổ này, và gọi Myers và King đi theo ông và phi tuần phó Vazquez vào thung lũng. Ổng bảo phi tuần A-1E thứ ba tiếp tục bay vòng chờ trên mây vì ko đủ chỗ cho 3 phi tuần (6 chiếc) hoạt động một lúc. 4 chiếc bay theo hàng một vì không phận quá nhỏ cho hai chiếc bay kế nhau. Trần mây lúc đó là 800 bộ, tốt hơn ngày trước, nhưng tầm nhìn này cũng giúp xạ thủ địch bắn rơi máy bay từ các sườn đồi cao 1.500 bộ của núi non chung quanh.
Quân trú phòng rút về một bunker ở góc tây bắc trại. Quân BV tấn công bằng bộ binh, khiến 4 chiếc này, trong ba đợt bắn phá và ném bom (strafe), đã giết khoảng 300 tới 500 địch quân. Trong đợt đầu, máy bay của King bị bắn trúng phòng lái và bể kiếng. Ông liền rời nhiệm sở tác chiến và bay về Đà Nẳng. Ở đợt hai, máy bay của Myers bị trúng đạn cỡ lớn. Động cơ bị hỏng (conked) và phòng lái đầy khói. Ở cao độ 400 bộ, quá thấp để nhảy dù. 'Tôi bị trúng đạn quá nặng', Myers nói trên máy. 'Máy bay bạn đang cháy ở phần đuôi', Fisher nói. 'Nghe rõ, tôi phải đáp xuống phi đạo vì phòng lái đầy khói, tôi ko thấy gì hết', Myers nói. 'Cứ việc xuống', Fisher nói. Ông liền bắn xuống đất phía trước Myers và hướng dẫn các máy bay khác.
Myers phải đáp bụng xuống phi đạo
Myers đã bay quá nhanh để đáp trên một phi đạo ngắn, do đó đã phải đáp bằng bụng (belly slide). Ông thả hết các bom và thu lại bánh đáp, nhưng ý định của ông thả bình xăng phụ dưới bụng máy bay thất bại. Bình xăng đã nổ khi chạm đất. Ông đã trượt khoảng 800 bộ hay 243,84 m, với lửa ở sau máy bay, và máy bay lệch khỏi phi đạo về phía phải và nổ. Ko thể tin được, Myers đã sống sót. Fisher đã thấy y leo ra (clamber out) khỏi máy bay và chạy tới một mương giữa phi đạo và đồn, nơi mà y được che (was screened) bởi một đám rong rêu (clump of weed). Fisher gọi phi công Hague và Lucas. Hague nói: "Thật giống như bay trong sân vận động Yankee với nhiều người ngồi ở khán đài ko mái che (bleacher, dành cho vé rẻ hay ko có số) đang bắn vào anh với đại liên."
Trong khi đó, phi tuần phó Vazquez, bị trục trặc máy truyền tin. Các A-1E tác xạ dữ dội, nhằm đẩy lui bắc quân khi họ cố gắng bắt Myers. Các lính Mũ Nâu sau này nói rằng cuộc tấn công của các Skyraider đã quét sạch một đ.đ. bắc quân và giảm nhẹ áp lực đối với trại.
Trong khi các A-1E tiếp tục tấn công, Fisher đã gọi 1 trực thăng cấp cứu. Mười phút sau, BCH hành quân đặt trên một náy bay vận tải cho biết trực thăng sẽ đến ít nhứt là 20 phút. Fisher nghĩ rằng đó chỉ là một phỏng đoán. Ông ko thể chờ lâu hơn nữa trước khi bắc quân tới gần và giết Myers. Ông nghĩ làm cách nào để cứu y. Phi đạo có vẻ ngắn. Ông gọi BCH và hỏi chiều dài. Họ trả lời 3.500 bộ hay 1.066,8 mét. Ko đủ, vì ngay cả thời tiết tốt nhứt, hầu như là tự sát nếu một máy bay vừa lớn vừa chậm như Skyraider đáp xuống dưới hỏa lực trực tiếp của bắc quân, Fisher đã viết như vậy trong sách Beyond the Call of Duty in năm 2004. Ông nói: "Một phi hành đoàn trực thăng có thể bắn từ các cửa hông để ngăn ko cho địch quân tới gần trong khi cấp cứu phi công, nhưng Myers dễ bị thương vong khi ngồi trên mặt đất. Myers là một phi công đã từng bay chung với tôi, tôi coi y như là thành viên trong gia đình và tôi ko thể chờ và nhìn y bị giết mà ko cố gắng cứu y".
Ông có thể đáp xuống phi đạo nhưng bay ra ko dễ. Chưa kể khi đáp xuống, ông là mục tiêu của 20 khẩu phòng không đặt dọc theo thung lũng. Chúng còn có hàng trăm súng tự động. Phi đạo cũng là một nguy hiểm lớn vì các tấm vỉ sắt PSP dễ trượt, và những mảnh vỡ (shard) của nó gây ra bởi đạn cối và bom sẽ dính vào (stick up) và có thể xé toạc (rip) vỏ của bánh xe thành từng miếng nhỏ (shred). Phi đạo đầy lổ do pháo kích tạo ra và đầy vỏ đạn, các mảnh vỡ từ máy bay của Myers, các thùng xăng, những mảnh vụn của thiếc và kim loại, và những mảnh vụn khác (debris). Fisher đã trông cậy vào các chiếc A-1 khác yễm trợ ông.
Fisher đáp xuống phi đạo để cứu bạn
Ông đã tiến gần phi đạo ngược với chiều gió, giúp ông bay chậm. Bất hạnh thay, gió cũng thổi khói dầy gây ra bởi bom và bom săng đặc, khiến che mất tầm nhìn. Khi ông qua khỏi đám khói dầy này, ông thấy mình đã bay trên phi đạo quá xa khiến ông ko thể ngừng máy bay trên phần còn lại của đường băng. Khi bay ở cao độ thấp, ông chợt thấy Myers nhìn mình.
Ông tăng ga (power up), giữ máy bay cách mặt đất vài bộ để tránh hỏa lực địch, và lại tiếp cận phi đạo từ hướng đối diện với lần tiếp cận vừa rồi. Ba chiếc A-1E còn lại tiếp tục bắn phá và ném bom để bảo vệ Fisher. Sau khi đánh thêm 3 đợt hay "pass", họ đều hết bom đạn. "Tôi là Winchester", Hague nói trên máy, mật khẩu này có nghĩa hết bom đạn. Tôi cũng vậy, Lucas nói. Tuy vậy họ tiếp tục nhào lộn phía trên phi đạo để đánh lừa địch rằng họ tiếp tục tấn công. Fisher tiếp đất ở một chỗ gần cuối phi đạo, đạp thắng, và trượt dài (skid down) trên phi đạo. Thắng bắt đầu tan mòn (fade) do nhiệt gây ra sau khi máy bay trượt được 2.000 bộ hay 610 m. Việc hạ cánh lần thứ hai tuy thành công dù thắng làm việc quá độ và khó điều khiển tay lái do né tránh những mảnh vỡ đầy trên phi đạo, trung tướng Joseph Moore, TL của sđ không quân, đã nói khi tưởng thưởng Huy chương Danh dự cho Fisher. Ông nói thiếu tá Fisher đã dùng tất cả năng khiếu bay bổng của mình để né tránh các lổ trên phi đạo do súng cối gây ra, vỏ đạn, và những mảnh vỡ của chiếc A-1E của Myers nằm rải rác trên phi đạo sau khi bình xăng của máy bay này phát nổ.
Fisher cũng nhận thông tin sai lầm từ BCH đặt trên một vận tải cơ. Vì phi đạo chỉ dài 2.500 bộ thay vì 3.500 bộ. (Theo tôi biết, sân bay của A Shau chỉ có thể tiếp nhận các vận tải cơ loại cất và hạ cánh ngắn (short takeoff and landing, viết tắt là STOL) như C-123 hay C-130 và L-19. A-1E ko thể đáp xuống, dù cho thời tiết và phi đạo tốt -- người dịch (ND).
Sân bay quá ngắn cho A-1 dù bất cứ tình huống nào. Ông đã vượt khỏi phi đạo, cán lên đám cỏ và vượt qua một kè nhỏ (embankment) khiến máy bay chậm lại chút đỉnh. Khi ông quay đầu (swing around) máy bay, nó đã trượt vào khu vực chứa xăng dầu. Do bay thấp nên cánh của máy bay suýt đụng vào vài thùng xăng 55-gallon hay 208 lít, nhưng đuôi của máy bay đã đụng vài thùng khác. (Dân VN thời đó, trong đó có gia đình tôi, đã dùng thùng này để chứa nước để tắm, sau khi bị quân Mỹ phế thải -- ND). Ông cho máy bay chạy chậm (taxi) khoảng 1.800 bộ hay 549 m trước mặt là địch quân.
Tụi mình hãy ra khỏi nơi đây gấp
Ông đã thấy Myers vẩy tay khi ông đi qua. Máy bay chỉ ngừng sau 100 bộ hay 30 m. Ông ko thể thấy Myers, vì y đang chạy theo ở phía phải của máy bay, với đạn địch bắn theo ráo riết. Sau này Myers kể rằng đó là một cuộc chạy nước rút (dash) nhanh nhứt của một kẻ đã 46 tuổi! Fisher trông đợi Myers chốc lát (momentarily) sẽ trèo lên phòng lái của mình. Nhưng y đã ko làm được khiến Fisher nghĩ rằng Myers đã bị trúng đạn. Ông liền tháo thắt lưng an toàn và đạp thắng để tìm Myers.
Khi Fisher định trèo ra bên phải của máy bay, ông đã thấy một người với hai mắt nhỏ và đỏ, đang cố gắng trèo lên cánh máy bay. Đó là Myers, quần áo bị cháy, đầy bùn và mắt đỏ vì khói. Vì động cơ vẫn còn chạy mạnh, sẵn sàng để cất cánh, nên không khí thoát ra từ cánh quạt của chiếc A-1E này đã thổi Myers về phía sau khi cố gắng tới gần phòng lái. Thế là Fishser phải chuyển động cơ thành neutral, nghĩa là máy chạy nhưng cánh ko quay. Vì đạn bắn liên tục vào máy bay, ông đã kéo Myers vào phòng lái với đầu đi trước. Những lời nói đầu tiên của Myers: "Thằng ôn dịch (your dumb son of bithch), tụi mình hãy ra khỏi nơi đây gấp". Y đã uống ít nước từ bi-đông của Fisher và đòi một điếu thuốc. Fisher ko có điếu nào.Trong khi Fisher kéo Myers lên máy bay, máy bay của Lucas bị trúng đạn ở hệ thống thủy lực trong khi y đang cùng Hague và Vazquez nhào lộn (hurtle) ở cao độ thấp phía trên trại, mà ko thả bom và bắn phá gì hết vì ko còn bom đạn. Tuy vậy cũng nhứt thời ngăn chận bắc quân. Quay máy bay vòng lại, thiếu tá Fisher thấy rằng ông có chưa tới 2/3 của một phi đạo quá ngắn để cất cánh. (A-1E cần phi đạo dài 3.500 bộ, sân bay của A Shau chỉ dài 2.500 bộ, và giờ đây trước mặt Fisher chỉ còn chưa tới 2/3 của phi đạo này, nghĩa là 1.667 bộ hay 508 m -- ND). Tận dụng hết mọi sở trường, Fisher tăng ga và lái máy bay né tránh các mảnh vỡ đủ kích cỡ, để đạt đủ tốc độ hầu máy bay cất cánh. Dù y bay sát mặt đất với tốc độ ko đủ, và dưới làn đạn dữ dội của bắc quân, từ từ máy bay đã đạt tốc độ, và bắt đầu chui vào một đám mây ở cách mặt đất 800 bộ hay 244 m.
Theo một báo cáo sau cuộc hành quân tiếp cứu này, quân trú phòng đã reo hò (cheer) ầm ỉ khi máy bay của Fisher đã gầm thét (roar down) trên phi đạo và cuối cùng vọt lên trời. Fisher và Myers đã bay về Pleiku, nơi mà xe cứu thương chờ sẵn. Myers ko bị thương nặng, dù y bị bỏng nhẹ (singed) và bao phủ bởi bồ hóng (soot) và bốc mùi hôi (smelled awful) -- theo Myers. (Địch quân đuổi và bắn theo ráo riết, ko ỉa đái trong quân là giỏi lắm rồi -- ND). Myers đã muốn mua rượu whiskey đủ uống trong 1 năm để tặng Fisher, nhưng ông này từ chối vì chưa từng uống cà phê, huống gì whiskey. Thay vào đó, Myers tặng Fisher một máy ảnh Nikon có khắc chữ A Shau, 10 tháng ba 1966. Máy bay của ông có 19 lổ đạn. Chiếc của Vazquez có 23 lổ. Tổng cộng có 201 PHI XUẤT để yểm trợ trại A Shau ngày 10/3. Trong đó có 103 của TQLC, 67 của KQ, 19 của hải quân (HQ), và 12 của KQ Nam Việt Nam. Tính luôn chiếc của Myers và chiếc AC-47 đã kể trong bài, tổng cộng có sáu máy bay của KQ, HQ, và TQLC bị bắn rơi khi tiếp cứu trại.
Máy bay của Fisher được để ở Bảo Tàng KQ
Fisher đã được Huy Chương Danh Dự, phi công đầu tiên của chiến tranh VN có được. Được trao tặng bởi TT Johnson ngày 19/1/1967, có vợ và 5 con trai của Fisher tham dự. Chiếc máy bay mà Fisher dự trận A Shau sau đó đã đáp xuống đất khẩn cấp và bốc cháy tại Pleiku sau một phi vụ. Tuy nhiên nó đã đưa về và phục hồi. Năm 1967, ông đã bay nó từ California tới bảo tàng KQ ở Dayton Ohio, nơi ngày nay bạn có thể thấy máy bay này. Đại tá (ĐT) Bernard Fisher đã qua đời 16/8/2014."
Dịch từ nguồn: https://veteransresources.org/2016/04/vietnam-the-battle-of-a-shau/
San Jose ngày 22/12/2022.
Tài Trần
SÚNG ĐẠI LIÊN 7.62 SÁU NÒNG ĐẶT Ở HÔNG TRÁI CỦA AC-47, ĐIỀU KHIỂN BẰNG ĐIỆN BỞI PHI CÔNG HAY XẠ THỦ ĐỨNG KẾ SÚNG.
VỈ SẮT PSP ĐỂ LÓT SÂN BAY TẠM THỜI, ĐÂY LÀ MỘT VẬT LIỆU CHIẾN TRANH CÓ Ở MỌI NƠI TẠI VN.
CHIẾC CH-3 C HAY JOLLY GREEN GIANT CỦA KQ MỸ DÙNG ĐỂ CỨU PHI CÔNG LÂM NẠN TẠI VÙNG ĐÔNG NAM Á. CHIẾC DƯỚI LÀ PHIÊN BẢN DÂN SỰ CÓ TÊN S-61-C CÓ THỂ CHỠ TỚI 30 NGƯỜI
ĐẠN LỬA TỪ TRÊN MỘT AC-47 BẮN VÀO MỘT MỤC TIÊU GẦN SG NĂM 1968.