Saturday, June 11, 2022

SÁCH VỀ MÁY TÍNH MUA TRÊN AMAZON KỂ TỪ 2007.








I/ Làm thế nào sự tử tế của một kẻ xa lạ trong đệ nhị Thế Chiến (TC) đã giúp chúng ta có lý thuyết Big Bang.

Lời nói đầu: Trong thời đại mà rất nhiều người ÍCH KỶ và VÔ CẢM trước nỗi đau hay khó khăn của kẻ khác thì có câu chuyện rất cảm động, đầy ấp tình người của một chủ tiệm sơn ở Mỹ đã bảo lãnh một gia đình mà y ko quen biết -- đang bị đàn áp bởi Đức Quốc Xã dưới thời Hitler. Sau đây là câu chuyện.
====
"Nhà vật lý gốc Đức Arno Penzias đã thoát khỏi Holocaust với sự giúp đỡ của một ân nhân mà ông chưa bao giờ gặp. Sự giúp đỡ bí mật này đã làm thay đổi đời ông--và hiểu biết của chúng ta về vũ trụ này.
Tạm dịch từ bài viết của Katie Sanders, đăng ngày 8/6/2022 trên National Geographic.

Vào một ngày trước đệ nhị TC, chủ một tiệm bán sơn ở Belleville, bang New Jerrsey nghe tiếng gõ cửa dồn dập (frantic). Đó là một di dân Đức 28 tuổi có tên Leo Gelbart, y đang đến từng nhà, khẩn cầu các thành viên của cộng đồng Do Thái (Jewish) trong TP. "Gia đình này cần ra khỏi Đức, và tôi ko đủ tiền để giúp. Ông có thể giúp ko?" Gelbart đã hỏi. Y đưa cho chủ tiệm một tấm ảnh trắng đen của bạn y tại Munich, Đức: một cặp đẹp đôi có tên Karl và Justine Penzias, với hai con trai Arno và Guenther, 6 và 4 tuổi. Với việc ngày càng gia tăng bức hại và bỏ tù người Do Thái của chế độ Đức Quốc Xã của Hitler, gia đình Penzias phải bỏ xứ (flee) hay đến trại tập trung. Nhưng để di cư đến Mỹ, họ cần vài tờ cam kết (affidavit) bảo trợ --đây là những giấy xác nhận (vouch) rằng họ có một thân nhân và một căn bản về tài chánh tại Mỹ. Gelbart sẽ khai gian (falsely state) rằng bạn y Karl Penzias là em họ (cousin). Nhưng là một kẻ hầu bàn, y ko đủ tiền để đủ điều kiện làm người bảo trợ (sponsor) cho gia đình bạn y. Do vậy y đang cố gắng tìm ai đó ký tờ cam kết thứ hai để nhận bảo trợ gia đình Penzias về tài chánh.
Người chủ tiệm sơn 52 tuổi này nói sẽ giúp. "Tôi vui lòng bảo trợ họ cho tới khi họ tự chủ về tài chánh," ông viết trên tờ cam kết. Từ Đức, Karl Penzias cực kỳ biết ơn, nhờ Gelbart chuyển lời tới ông chủ tiệm sơn, rằng gia đình họ chỉ cần bảo trợ trên giấy tờ và sẽ bày tỏ sự biết ơn bằng cách ko bao giờ tiếp xúc với ông.
Người anh của hai đứa nhỏ trong hình là Arno Penzias, nay đã 89 tuổi. Là một nhà thiên văn, từng được giải Nobel, nay đã nghỉ hưu và sống tại bắc Cali. Ông ra đời tại Đức năm 1933, khi Hitler nắm chính quyền. Năm 1938 gia đình ông và những người Do Thái khác, mang hộ chiếu (passport) Ba-Lan, buộc phải lên tàu để trục xuất tới Ba Lan. Những xe lửa đã hoãn lại, và Ba Lan đã vô hiệu hóa (invalidate) những hộ chiếu này trước khi xe lửa tới biên giới.
Năm 1939, họ đã vội vả sắp xếp mọi thứ để rời Đức tới Mỹ. Karl Penzias gửi hai con nhỏ tới Anh theo chương trình Kindertpassport -- một cố gắng của Anh nhằm chuyên chỡ 10.000 trẻ em, phần lớn là Do Thái, ra khỏi Đức.
Hai đứa trẻ sau đó đã được gửi từ một viện mồ côi toàn con gái ở London tới hai gia đình nhận con nuôi (foster family) khác nhau. Trong khi Đức Quốc Xã, còn gọi là Nazi, gia tốc chiến dịch diệt chũng, vợ chồng Karl và Justine Penzias, cuối cùng đã đến Anh để đoàn tụ với con và sau đó đến Mỹ bằng tàu. Gia đình họ đã gặp giông bão và tàu ngầm Đức khi vượt Đại Tây Dương. Ngày 3/1/1940, họ đã tới TP New York.
Gia đình Penzias đã định cư tại Bronx, nơi hai đứa nhỏ bắt đầu đi học. Arno tốt nghiệp trường trung học Brooklyn Technical và City College. Y phục vụ trong nghành truyền tin của Lục quân Mỹ, sau đó có bằng tiến sĩ về vật lý tại ĐH Columbia. Ông làm việc cho Bell Laboratories và, trong TN 1960, đã cùng đồng nghiệp Robert Wilson đồng khám phá bức xạ nền vi sóng vũ trụ (cosmic microwave background radiation), điều này đã xác nhận lý thuyết về vũ trụ học Big Bang (Big Bang theory of cosmology). Họ đã chia xẻ giải Nobel về vật lý năm 1978 về khám phá này.
. . .
Nhưng việc cảm ơn người mà chữ ký của y đã giúp gia đình này tới Mỹ ko dễ thực hiện (feasible). Cha của nhà bác học Arno Penzias đã hứa ko bao giờ tiếp xúc với người ký tờ cam kết, và ông giữ lời. Những chi tiết về người giúp ông vẫn là một bí mật.
Và năm 2012, David Penzias, con trai của nhà bác học đã tìm thấy một phong bì trong một số giấy tờ của gia đình. Bên trong là một bản sao của tờ cam kết ký bởi một người tên Barnet Yudin. David đã sốc khi đọc thông tin sau: Barnet có lợi tức 125 đô mỗi tuần và sống ở tầng trên của tiệm sơn và y có 2.000 đô trong tài khoản ngân hàng.
Con người này ko chỉ bảo lãnh cho một gia đình mà y ko quen biết, y còn cố gắng hết sức để làm điều đó. Vậy ông ta là ai?
Sau khi tìm kiếm trên mạng, David Penzias đã gọi một số phone có tên Robert Yudin tại New Yersey, mà y chắc chắn là cháu nội của Barnet Yudin. Qua tiếp xúc này, y biết Barnet đã chết vì ung thư năm 1950. Vợ ông, con trai và con gái cũng đã chết, và người cháu nội này ko có bất cứ giấy tờ gì của ông nội nói về việc đã giúp đỡ một gia đình Đức. Nhưng nhờ con trai nhà bác học tìm thấy phong bì mọi việc đã đưa ra ánh sáng.
Sở dĩ ông chủ tiệm sơn Barnet Yudin đã hết lòng giúp đỡ gia đình của nhà bác học Arno Penzias vì ông đã từng là di dân rời Nga vì là gốc Do Thái. Sanh năm 1886 tại Nga, ông đã hy vọng thành bác sĩ. Ông đã thi đậu vào trường y nhưng bị từ chối, vì gốc Do Thái. Ông rời Nga đi Mỹ bằng con đường Bắc Âu năm 1906. Sau khi định cư tại New Yersey, ông đã bán sơn bằng một xe đẩy (pushcart), và cuối cùng cùng với vợ làm chủ một tiệm sơn phát đạt.
Cháu nội gái của Barnet là Sydney Neuwirth, một nghệ sĩ hồi hưu ở Princeton New Yersey, đã lớn lên trong một căn phòng của nhà ông nội, nằm ngay trên tiệm sơn.Trong khi lật xem những hình ảnh, thư từ, và những bài cắt từ báo (newspaper clipping) kể về cuộc đời của ông bà, cô càng hiểu rõ hơn về ông nội và gia đình mà ông đã giúp. "Ông đã biết rằng nếu ông ko giúp họ, sẽ giống như việc thấy kẻ sắp chết đuối mà ngó lơ," cô nói. "Đây là cách mà ông giúp. Ông đã luôn luôn muốn giúp đỡ kẻ khác." Trong khi cô đọc về cuộc chiến đang diển ra tại Ukraine -- và hậu quả là khủng hoảng về người tị nạn, lớn nhứt Âu Châu kể từ đệ nhị Thế Chiến -- cô càng thấy có nhiều triển vọng hơn.
Gần tám thập niên sau khi Barnet ký tờ cam kết, gia đình của ông nhận lời của David Penzias để họp mặt với nhau. Trừ nhà bác học ko có mặt vì lý do sức khỏe, người em trai và cháu của ông đã bay tới New Yersey để họp mặt tại nhà của cháu nội của Barnet. Trong buổi tiệc, cháu nội của nhà bác học Arno Penzias đã nói: "Cả gia đình chúng tôi đã ko có mặt tại Mỹ nếu ko có Barnet Yudin."

============================

II/ Chuyến công tác cuối cùng của tàu ngầm I-52.

Dịch từ: The Last Dive ở trang 114 - 133 trên tạp chí National Geographic tháng 10.1999.

                           


"Năm 1944.

Vào mùa xuân, khi những cây anh đào (cherry tree) nở gần Hoàng Cung, ông Satonobu Gamo, 34 tuổi rời nhà ở Tokyo trong một nhiệm vụ bí mật đến nỗi ông ko thể nói với vợ ông. Gamo là một kỹ sư, một người cha của 4 con. Ông đã được lịnh tới nhà máy Daimler-Benz ở Đức và học cách chế tạo máy cho tàu phóng lôi. 

Nhật đã cần trong tuyệt vọng (desperately) kỹ thuật mới về vũ khí từ Đức, và Đức đã cần vật liệu thô từ đế quốc Nhật. Nhưng hai nước thuộc phe Trục này cách nhau nửa vòng trái đất, và mọi con đường xuyên qua Tây Bá Lợi Á đã bị đóng. Nhật đã ký hiệp ước bất tương xâm với Liên Xô, nhưng Đức đang tuyên chiến với họ. Lúc đầu Đức định gửi một thương thuyền để lo vụ này nhưng sau đó hủy bỏ vì sợ phe Đồng Minh tấn công. 

Cách thay thế tốt nhứt là tàu ngầm và cả hai nước đều cải tiến tàu ngầm để có thể thực hiện kế hoạch đó. Tàu ngầm I-52, chế tạo tại cảng Kure năm 1943. Nó có thể mang khoảng 300 tấn hàng hóa và chạy 21.000 dặm Anh mà ko tiếp tế. 

Vào giữa tháng Ba 1944, dưới chỉ huy của hạm trưởng Kameo Uno, tàu I-52 rời cảng Kure. Nó đã ngừng ở Singapore để lấy nguyên lộ thô từ các thuộc địa vùng Đông Nam Á của Nhật -- 2,88 tấn thuốc phiện, 3 tấn ký-ninh để dùng trong y khoa, và 54 tấn cao su. Có 11 sĩ quan, 11 hạ sĩ quan và binh sĩ và 14 hành khách, gồm 6 của hải quân và 8 dân thường -- một thông dịch và 7 kỹ sư, bao gồm Satonobu Gamo. Khi tàu rời Singapore đã bị hải quân Mỹ phát hiện khi các mật điện giữa tàu và BTL hải quân Nhật đã bị nghe lén.

Khi vượt Ấn Độ Dương, để tránh phát hiện, tàu chỉ nổi lên vào ban đêm. Ban ngày, hành khách và quân nhân ko trực phải nằm để tiết kiệm dưỡng khí. 


Vào ngày 15/5, tàu I-52 đã đi vòng Phi châu và vào Đại Tây Dương. Nó được lịnh sẽ gặp một tàu ngầm Đức giữa đại dương, để nhận một hoa tiêu Đức và một máy phát hiện radar mới với 2 nhân viên điều khiển, để tàu có thể xâm nhập vào cảng Lorient của Pháp nhưng đang bị Đức kiểm soát. 

Nhưng vào lúc này, Đại Tây Dương lại là một cái hồ của phe Đồng Minh. Vì chung quanh đại dương này, các trạm nghe ngóng liên tục chuyển tiếp (relay) các vị trí của tàu phe Trục. Đồng minh đã giải được bộ mật mã có tên là Enigma của Đức, nên họ đã đọc được các mật điện của HQ Đức. 

Tin tình báo này đã khiến các tàu ngầm Đức hay U-boat phải lẩn trốn. Tình báo của Đồng minh giờ đây cũng biết những mật điện của tàu I-52.

Các sq tại BTL Mỹ ở Washington, D.C. đã xác định vị trí của I-52 cũng như các tàu ngầm địch tại đại dương này. 

I-52 vượt đường xích đạo vào ngày 4/6, hai ngày trước vụ đổ quân vào Normandy của Pháp và dự định gặp chiếc U-530 vào ngày 23/6, chiếc này đang chờ họ. 

Khi hai tàu đã nổi lên, hạm trưởng Đức, Kurt Lange, thả xuống một xuồng cao su có ba người gồm trung úy Schafer là hoa tiêu dẫn đường vào cảng và hai hiệu thính viên Schulze và Behrendt -- và một hộp gỗ đựng máy phát hiện radar mới. Vì sóng to, hộp này rơi xuống biển nhưng một thủy thủ Nhật vớt được. 

Hai giờ 15 phút sau khi hai tàu gặp nhau, chiếc U-530 chạy về hướng tây. Vì nghĩ rằng ban đêm nên hai tàu vẫn nổi trên mặt nước. 

Trong khi đó, cách đó 55 dặm Anh, phi công của chiếc máy bay phóng lôi Avenger xuất phát từ mẫu hạm USS Bogue. Đây là một tàu chỡ hàng cải biến thành mẫu hạm. 

Phi công Taylor, 28 tuổi, chỉ huy của phi đội 69, gồm 14 phi công của mẫu hạm này. Họ có thể bay liên tục những chuyến bay đêm, đáp máy bay xuống một bãi đáp nhỏ hẹp của mẫu hạm trong ánh sáng lờ mờ. 

"Chúng tôi đã công tác 7 tuần và sắp hết thức ăn và nhiên liệu. Đây là sứ mạng cuối cùng trước khi trở về căn cứ Norfolk ở Virginia."

Trong khi Taylor hướng về khu vực chỉ định, Ed Whitlock, một nhân viên radar của máy bay, đã ghi nhận một tiếng bíp. Khi bay gần tới, họ thả hai pháo khói và một phao màu tím. Phao này là một máy phát tín hiệu, mới được sáng chế, dùng để chuyển tiếp âm thanh dưới nước tới một máy thu trong phòng lái. 

Âm thanh mà họ nhận là từ một cánh quạt của tàu, và chẳng bao lâu họ đã đối diện một tàu ngầm lớn của địch, hoàn toàn nổi trên mặt nước, đang rẻ nước với tốc độ 10-12 hải lý.  

Trong khi tàu I-52 nhanh chóng lặn xuống, Taylor bay trước mũi tàu ngầm, làm thành số 8, và ném hai bom nổ sâu rất mạnh (depth bomb) vào mạn phải (starboard) của tàu. Bay vòng trở lại, ông ném vào chỗ nước xoáy (boil) tạo ra khi tàu lặn xuống, một thủy lôi âm học Mark 24.  Ba phút sau đó, âm thanh của hủy diệt đã được thu vào phao nổi sonobuoy. Xạ thủ Andy của chiếc máy bay phóng lôi nói rằng âm thanh giống "giấy bị vo thành cục trong nắm tay chúng ta."

45 phút sau, chỉ huy của mẫu hạm Bogue, A.B.Vosseller, ra lịnh cho một máy bay phóng lôi khác đến vị trí vừa kể. Phi công đã thả một thủy lôi sau khi ghi nhận tiếng động của cánh quạt tàu ngầm, và 17 phút sau ông nghe một tiếng nổ mạnh. 

Chiếc I-52 -- mà các chấn động từ những vụ nổ, đã khiến nước biển tràn vào phòng áp suất*, các vách ngăn bị sụp đổ, còi báo động phát liên tục, đèn đuốc mờ dần và cuối cùng tối đen -- và con tàu với 112 người nhanh chóng chìm xuống đáy biển. 

Ngày kế, các tàu hộ tống của mẫu hạm Bogue đã thấy những mảnh vụn và một vệt dầu lớn trên mặt biển. Chiếc USS Janssen, đã vớt được hơn một tấn cao su thô, cũng như một đôi dép và những hạt gạo. Một chiếc khác vớt được một cuộn chỉ thêu (silk thread) và những mảnh thịt (pieces of flesh). 

Năm 1944. Suốt mùa hè, TĐS Nhật ở Đức ngày càng lo lắng về chiếc tàu ngầm I-52, có ám danh là Momi. Các hàng hóa chiến lược cho Nhật đang nằm chờ ở cảng Lorient như: máy radar, máy ngắm để ném bom (bombsight), ống chân không, thủy tinh quang học, bạc đạn bằng thép, thủy ngân, đạn súng máy, thép hợp kim thấp (alloy steel) cho động cơ máy bay, hóa chất, bạch kim, và ít nhứt hai thủy lôi âm học T-5 mới phát triển. Các nhà ngoại giao cũng chờ để về Nhật bằng chiếc I-52.

Nhưng hạn kỳ của chiếc này, 25/6, đã qua, và hy vọng đã mờ dần khi, ngày 30/6, họ đã nhận được được một mật điện mã số QWF -- có vẻ phát đi từ chiếc I-52 nhưng cũng có thể là thông tin sai từ nước Anh -- với ý nghĩa tàu chỉ cách cảng Lorient 36 giờ. Viên phó tùy viên hải quân tại Berlin, Yoshikazu Fujimura, đã rời Berlin với 8 viên chức Nhật để đón tiếp tàu. Dựa vào mật điện có mã số QWF, họ đã đến cảng Lorient ngày 31/6.

"Điều ấn tượng nhứt là có khoảng 200 thành viên của Thanh niên Hitler tại Lorient," Fujimura nói với Seiichi Nakata, một viên chức về truyền hình Nhật vào năm 1986. "Đặc biệt... các cô gái Đức ở tuổi trên 20 có vẻ rất mơn mởn và đầy nghị lực (fresh and energetic). 

Một tàu chiến Đức rời bến để gặp tàu ngầm Nhật. Họ đã chờ (stand by) trong bốn ngày. Ngày 8/8, tùy viên hải quân của TĐS Nhật tại Đức, đô đốc Kojima, gửi điện cho Uno, hạm trưởng của I-52 từ Berlin. " Dù chúng tôi ko thể liên lạc với ông, chúng tôi cầu nguyện cho ông được an toàn. Vì rất nguy hiểm. . . khi vào Lorient hay các cảng khác dọc bở biển Pháp, cố gắng tiến tới cảng Trondheim hay Bergen ở Na Uy."

Và khi quân Đồng Minh bao vậy Lorient, Fujimura lâm vào tình thế khó khăn (quandary). "Không còn cách nào thoát ra trừ phi mổ bụng (hara-kiri). . . Khi tôi nói với cấp dưới, "Các ông nghĩ thế nào? họ đã xoa bụng và nói sẽ đau lắm."

Những người Nhật này đã quyết định nhanh chóng rời (make off) bằng xe bus. Sau một tuần di chuyển gian nan (harrowing) xuyên qua các phòng tuyến của xe tank Đồng minh, họ đã tới Paris ngày 8/8. 

Ba ngày sau đó phó đô đốc Abe, đại diện của Nhật tại Hội đồng Ba bên của phe Trục tại Berlin, điện về Tokyo: "Tai họa này đã ập xuống (befall) liên tiếp với các tàu ngầm liên lạc, ở một thời điểm mà những tàu này đóng một vai trò quan trọng trong việc liên lạc giữa Nhật và Đức, quả là một tổn thất cực kỳ đáng tiếc cho cả hai nước."

Khi được hỏi về số vàng, Fujimura bình luận,"Tôi ko luyến tiếc việc mất... vàng. Tôi chỉ tiếc là chúng ta đã mất 100 thủy thủ. Tôi cầu mong tôi có thể vớt được các thi thể."

Năm 1944. Trước khi chạy khỏi Lorient, quân Đức đã hủy hầu hết hàng hóa dành cho chiếc I-52. Nhưng một món ko có trong danh sách phá hủy, chỉ ghi vắn tắt, "--- oxide 500 kí."

"Dĩ nhiên đó là oxide uranium,"Tidwell nói, khi điền vào chỗ trống. Nếu chiếc I-52 nhận số hàng này, số uranium này sẽ tới Nhật vào mùa đông 1944 và được dùng để phát triển vũ khí, dù ko chế bom nguyên tử, như một số người đã lo sợ vào thời đó. 

Cả Đức và Nhật đã có các nghiên cứu bước đầu về nguyên tử, nhưng Hitler đã hủy bỏ các cố gắng của Đức vì y nghĩ rằng Đức sẽ nhanh chóng chiến thắng và chương trình này có thể quá tốn kém. Nhật đã cố gắng tìm một phương pháp để làm giàu uranium nhưng chỉ ở giai đoạn đầu của nghiên cứu. Không nước nào sắp chế tạo một quả bom nguyên tử. 

Tuy nhiên, Nhật vẫn muốn oxide uranium cao cấp và dựa vào Đức để có. Có một bằng chứng là năm 1944, một tàu ngầm Đức đã chuyển đến Nhật 500 kí nguyên liệu này, nhưng 500 kí khác đã mất trên biển trên đường tới Nhật. 

Chuyến chuyên chỡ uranium cuối cùng rời cảng Kiel ngày 25/3/1945, trong một tàu ngầm lớn, loại thả mìn của Đức mang số hiệu U-234, chỉ huy bởi hạm trưởng Johann-Heinrich Fehler. Nó chuyên chỡ khỏi Âu châu -- vũ khí, đạn được, kim loại, và một chiến đấu cơ phản lực Messerschmitt 262 đã được tháo rời. Thủy ngân và chì (lead) được dùng để tạo thăng bằng cho tàu (keel ballast), và ở mũi tàu là mười thùng chứa oxide uranium. 

Trong 12 hành khách có tướng Ulrich Kessler, tân tùy viên không quân của TĐS Đức ở Tokyo, cũng như hai sĩ quan kỹ thuật, Genso Shoji và Hideo Tomonaga, cùng đi với phái đoàn đến Lorient để đón tiếp chiếc I-52. 

Vào ngày 8/5, sau khi chiếc U-234 từ biển Na Uy đến bắc của Đại Tây Dương, nước Đức đã đầu hàng, và ra lịnh bảo tàu về Na Uy. Nhưng hạm trưởng Fehler thích ở Mỹ hơn và cho tàu chạy về hướng tây. 

Japan chưa chịu đầu hàng, nên Fehler đã buộc Tomonaga và Shoji phải ở tại phòng. Họ đã được tìm thấy, như Wolfgang Hirschfeld, một nhân viên truyền tin của U0234, mô tả trong hồi ký; "nằm trong ghế bố sát nhau, tay nắm tay, thở như rống (stertorously), và ko thể thức dậy."Một lọ thuốc ngủ Luminal trống rỗng được tìm thấy gần đó. Sau khi họ chết, Fehler đã bọc họ trong vãi võng với gươm của Tomonaga và thả xuống biển.