Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc . . . (Lời Mở Đầu Của Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ)
Wednesday, December 14, 2022
THIẾU TÁ BERNARD FISHER ĐÁP XUỐNG PHI ĐẠO A SHAU ĐẦY ĐỊCH QUÂN ĐỂ CỨU BẠN
======
Bài viết Trận A Shau đã đăng trên trang web của Hội Cựu Chiến Binh Mỹ để vinh danh anh hùng-thiếu tá Bernard Fisher. Ông là phi công Mỹ đầu tiên tại Việt Nam được TT Mỹ tưởng thưởng huy chương cao quý nhất của KQ.
Ghi chú: Vì tác giả là người Mỹ, trong bài chuyển ngữ dưới đây, trừ những đơn vị (đv) có chữ VNCH đi kèm, còn lại đều là các đv Mỹ -- người dịch (ND).
Sau đây là phần chuyển ngữ.
========
- Tính luôn chiếc A-1E Skyraider của thiếu tá không quân Myers bị bắn rơi và chiếc Hỏa Long AC-47 bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống một triền núi, tổng cộng có 6 máy bay của Không quân (KQ), Hải Quân (HQ) và TQLC bị rơi khi cứu trại LLĐB A Shau.
"
Vị trí của trại LLĐB A Shau
Ở góc Tây Bắc của Nam Việt Nam, có một thung lũng mọc có tên A Shau ở tỉnh Thừa Thiên. Chạy dài 25 dặm hay 40,23 km , thung lũng có một đồng bằng chỉ rộng 1,6 km bao phủ bởi cỏ voi và hai bên là những ngọn núi lửa phun trào cao tới 5.500 bộ hay 1.676 mét . Với một con đường đất chạy về phía trại LLĐB A Lưới ở phía Bắc và trại LLĐB A Shau ở phía nam, thung lũng này là nơi đã diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân Mỹ và quân CSBV trong suốt chiến tranh VN và là một trong những trận chiến đó. tiêu điểm (tiêu điểm) chiến lược của cuộc chiến này.
(Nói thêm: Theo Wikipedia , trại A Lưới được Liên đoàn 5 LLĐB Mỹ (Đoàn 5 Biệt Kích) thành lập năm 1962 , dọc theo tỉnh lộ (TL) 548 , 40 km tây nam Huế. Trại bị giải ngũ năm 1966 do áp lực ngày gia tăng của quân csbv. Tháng 4/1968, hành quân (HQ) Delaware của sđ 1 Không Kỵ đã sử dụng trại này một thời gian vì đã có sẵn phi đạo. Tđ 8 công binh đã sửa phi đạo cho máy bay C- 123 Nhà cung cấp và C-130 Hercules có thể trả lời. Tháng 8 cùng năm, sđ 101 Dù tái sử dụng A Lưới để sử dụng trong HQ Somerset Plain. Năm 1969, sđ 101 dù trở lại A Lưới trong HQ Kentucky Jumper.
Theo một thông tin khác, A Lưới nằm cách TL 547 2 km về phía bắc từ Huế đến thung lũng A Shau . Trại Tà Bạt ở cách đó vài km về phía nam -- người dịch).
TRẠI LLĐB A LỢI XE MOLOTOVABị QUÂN MỸ TỊCH THU TRÊN THÙNG LŨNG A SHAU.
Sân bay ở phía đông của trại, nằm ngay bên ngoài hàng rào. Thung lũng nằm ngoài tầm nhìn của pháo binh VNCH và Mỹ nên việc bảo vệ hoàn toàn dựa vào không lệch. Tại vị trí này của trại thì thung lũng có khoảng cách dài 6 sóng và chiều rộng hơn 1 sóng . Hai bên lửa đều có những ngọn núi cao 1.500 bộ hay 457,2 mét so với thung lũng. Thung lũng thường bị che phủ bởi mây và sương mù rất thấp. Các phi công Mỹ đã gọi thung lũng là "đường hầm" (ống) khi bay ở đây. Tháng 2/1966, quân csbv đã quyết định xóa bỏ trại này (đặt smt ra khỏi doanh nghiệp) và chuyển một trung đoàn mới tinh, đi theo đường mòn HCM để tham gia sđ 325 csbv, đang hoạt động gần Huế.
Hải cán binh CSBV hồi chánh
NGÀY 5 THÁNG 3, hai bộ đội CSBV đào ngũ, báo tin một cuộc tấn công sẽ xảy ra vào ngày 11 và 12 tháng 3. Họ nói sđ 325 ở khoảng 7 km về phía đông trại. Máy bay liên tục ném bom địa điểm này.
NGÀY 7 THÁNG 3, máy bay C-123 của KQ đã chỉ huy quân đội, làm gia tăng quân trú phòng đối với 17 lính Mũ Nâu và 368 DSCĐ Nam VN và lính Nùng. (Theo Green Berets at War thì lúc đó có 17 LLĐB Mỹ, 6 LLĐB VN, 7 thông dịch viên, 143 lính Nùng, 210 DSCĐ thuộc 3 đại đội (đ.đ.) 131, 154, và 141 -- đ.đ . cuối cùng nghi là theo VC. Ngoài ra còn có 51 người bao gồm công nhân (worker) và các cô làm cho quân tiếp viện (QTV). Như vậy ngoài 51 người này còn có 383 TÂY SÚNG -- người dịch) .
Nói thêm: Lính Nùng rất thiện chiến và trung thành; trước 1954 dân Nùng ở miền Bắc, sau di cư vào Nam, sống tập trung ở Rừng Lá , trên đường từ Bình Tuy đi Xuân Lộc. SĐ 5 bộ binh VNCH, khi thành lập, phần lớn là lính Nùng với cấp chỉ huy là ĐT Vòng A Sáng . Trong hàng ngũ quân VNCH, cũng có nhiều người gốc Nùng, con cháu của những người Nùng di cư 1954 -- người dịch (ND).
Ngày đầu tiên của trận đánh
Trận tấn công đã sớm hơn dự kiến (dự kiến). KHOẢNG 2 G SÁNG NGÀY 3/9, cuộc pháo kích đã bắt đầu, xuất phát (phát ra) từ những đồi núi chung quanh. Đạn ma cà rồng, Đạn đại bác và Đạn B-40 đã giả làm trại tàn phá, giết hải quân nhân Mỹ và làm bị thương 30. (Nói thêm: bên kia biên giới là căn cứ của csbv nên họ có pháo binh -- người dịch). Cuộc kích hoạt đã bắt đầu tạo ra các ngôi nhà và kho dữ liệu tiếp theo. Cuộc nổ súng đã kết thúc lúc rạng đông. Khoảng cách 2 quân chính quy CSBV đã quyết định sử dụng trại ngoại trừ KQ đẩy lui của họ. Vì mây thấp ở độ cao 200 bộ hay 61 m tiếp tục che phủ ở nhiều nơi của thung lũng khiến không thể mù quáng. Nhưng khi chuẩn bị bị tấn công toàn lực vào trại thì tầm nhìn tốt hơn. Lúc 11:20 sáng, với trần mây là 122 m, một chiếc Hỏa Long AC-47của KQ, đã bay xuyên qua mây và bay sát ngọn cây để tiêu diệt những kẻ tấn công. Nhưng ở vòng hay 'vượt qua' thứ hai, chiếc AC-47 này bị trúng đạn phòng không. Động cơ bên hẳn đã bị xé rách (xé) khỏi cánh, vài giây sau đó, động cơ thứ hai cũng bắn trúng luôn. Chiếc AC-47 với viên đạn đậu, đã đáp khẩn cấp xuống một triền núi (dốc núi), cách quãng đường 5 dặm.
(Nói thêm: Phi đoàn AC-47 (ACS) thứ 4 đã phát triển đến sân bay TSN, Việt Nam ngày 14/11/1965. Mỗi khẩu (minigun ba khẩu đặt ở bên trái của máy bay) với 6 nòng có có thể bắn 50 viên hay 100 viên đạn 7,62 ly mỗi giây Bay ở tốc độ bình phi (hành trình) 120 hải lý hay 138 km giờ ở độ cao 910 m, pháo hạm này có thể đặt một viên đạn viên đạn thường hay viên đạn màu đỏ (cứ) 5 viên có 1 viên đạn này) vào một sân vuông hay 0,836 m2 của một mục tiêu bằng sân bóng đá chỉ trong thời gian chưa tới 10 giây! nhiều giờ.Theo wikipedia.
Ảnh đính kèm: Đạn đánh dấu từ AC-47 bắn xuống mục tiêu gần SG năm 1968. Cứ 5 viên đạn thường có một viên tham khảo sáng. Giúp người dưới đất hướng dẫn máy bay tác xạ --người dịch).
Không còn máy bay Hỏa Long AC-47, BCH đã điều khiển máy bay A-1E từ Pleiku, với tín hiệu truyền tin (callsign) Hobos, tới trại cứu hộ tiếp theo. Tuần trưởng là thiếu tá KQ Bernard F. Fisher , một phi công 39 tuổi. (Một tuần phi thường là 2 chỗ: một bên phụ để hỗ trợ lẫn nhau -- người dịch (ND). Anh đã lái phản lực cơ sở BCH phòng không ở nội địa Mỹ trước khi đến VN, và khi buộc dây an toàn hoàn toàn vào chiếc ghế của chiếc cánh quạt A-1E, anh vẫn còn đội nón bay có hình vẽ phản lực cơ F-104 Starfighter . nhưng không ai phủ nhận nó rất thích hợp với nhiều nhiệm vụ.Nó được cải tiến từ chiếc oanh tạc-chiến đấu cơ AD-5 của hãng Douglas mà hải quân (HQ) Mỹ đã sử dụng ở Cao Ly, nay là Hàn Quốc. It has4 đại bác 20 ly và mang nhiều bom đạn . Tốc độ bình phi là 240 giờ, nhưng có thể bay từ 6 đến 8 g cho một phi vụ . Nó có thể bay rất lâu ở tốc độ thấp, rất lý tưởng cho yễm trợ tiếp cận (hỗ trợ trên không gần) và có 2 chỗ ngồi cạnh nhau.
Được điều hướng tới A Shau sau khi chiếc AC-47 bị rơi vào ngày 3/9, Fisher và phi tuần phó, Bruce Wallace, đã nhìn thấy những ngọn núi phủ đầy mây. Ngay khi tới mục tiêu, Fisher đã bắt đầu thăm dò để tìm ra hẻm núi mà trên đó có trại. Trong lần thứ 3, khi vừa ra khỏi đám mây, anh đã ôm một người trực thăng vừa đến A Shau để tải thương. Phi công trực thăng đã chỉ dẫn Fisher tới một con ngựa yên nghỉ ở giữa núi, nơi y tìm thấy một cuộc hôn nhân thú vị giữa đám mây và ở khoảng 5 dặm tây bắc của trại. Fisher và Wallace liền chui vào khe và bay trên thung lũng ở mức độ thấp. Phòng không có hỏa lực của đối thủ cạnh tranh. BCH cuộc hành quân đặt trên vùng C-130 đang được bảo vệ, ra lịnh cho Fisher phá hủy chiếc AC-47 trước khi CS lấy vũ khí của chiếc này. Fisher giao việc này cho Wallace bằng cách ném 6 quả bom để phá hủy nó trong khi Fisher trực tiếp hỗ trợ trại. Trong vài giờ kế tiếp, hai người đã hướng dẫn các máy bay khác đến trợ giúp trại. Fisher đã hướng trực thăng CH-3C , xem hình, đến tải thương mại. Ông cũng hướng dẫn các A-1E khác tấn công một lực lượng tập trung để đánh đồn.
Ông được lệnh yễm trợ 2 chiếc C-123 sắp đến trạm phóng tiếp tế. Đường bay rất cơ vì chung quanh là núi, và tầm nhìn chưa tới nửa sóng. Họ đã bị bắn khi cách chiến dịch 7 bay về phía bắc. Fisher liền kề áp lực chiến đấu khi C-123 thả tiếp tế ở độ cao 50 bộ hay 15 m. Sắp hết nhiên liệu, Fisher chui ra khỏi đám mây một lần nữa để giúp L-19 hướng dẫn hai quả bom B-57. Tổng cộng ông đã bay khoảng 2 giờ dưới đám mây. Sau đó 20 phút, anh đáp khẩn cấp xuống Đà Nẳng, với trận sắp hết. Hôm nay 3/9, có 19 trại hỗ trợ xuất hiện. Gồm có 17 của KQ, 10 của TQLC, và hai của KQ VNCH. Anh từng được tưởng thưởng Ngôi Sao Bạc giao cho nhiệm vụ trên, và Wallace nhận Phi Dũng Bội Tinh (Thập tự cao).
Ngày thứ 2 của trận đánh
Ngày 3/10, Adman tấn công lúc 2g sáng. Chúng không ngừng nghỉ, và trước 4 giờ sáng, đã mở cuộc xung phong vào sườn nam của trại. Trước mặt đông, chúng nổi bật chu vi phòng thủ và nổi bật bức tường (làm bằng tấm thép và bao cát) phía nam trại. Quân ban đầu phòng bị lật về phía bắc của trại, và quân CSBV đã đào tạo công sự giữa sân bay và trại. Hai C-123 và một AC-47 thả trái sáng suốt đêm. Ngay sau 5 giờ sáng, nhờ radar dẫn đường, máy bay phản lực A-4 Skyhawk của TQLC đã tấn công các vị trí dẫn đầu. Máy bay KQ và TQLC đã oanh kích và bắn phá liên tục. Khoảng cách 11 g sáng, quân đoàn báo cáo không thể kéo dài hơn một giờ nữa và xin ngừng thả viên đạn vì họ không thể ra ngoài trại để nhận.
Phi công Fisher và Vazquez dự trận
Ngày hôm đó, Fisher và phi tuần phó, đại úy (đ.u.) Francisco Vazquez, đang trên đường yễm trợ cho bộ binh gần Kontum thì nhận lịnh đổi hướng về A Shau. Danh hiệu truyền tin của Fisher là Hobo 51 và của Vazquez là Hobo 52. Lúc 11:15 sáng, phi tuần của Fisher đã tới không phận của A Shau và thấy nhiều máy bay đang làm vòng chờ ở cao độ 8.000 bộ và trên đám mây. Họ ko dám xuống thấp để cứu trại do sợ đụng vào núi do mây bao phủ. Ông cũng thấy một phi tuần A-1E của thiếu tá Dafford Myers, thuộc phi đoàn 602 ở Qui Nhơn. Myers có danh hiệu truyền tin là Surf 41 và phi tuần phó, đ.u. Hubert King là Surf 42. Myers từng là bạn cũ của Fisher vì cùng làm ở BCH Phòng Không ở nội địa, đã kể ở trên.
Myers gợi ý rằng có thể có lổ hổng ở phía tây. Fisher nghe theo và thấy lổ này, và gọi Myers và King đi theo ông và phi tuần phó Vazquez vào thung lũng. Ổng bảo phi tuần A-1E thứ ba tiếp tục bay vòng chờ trên mây vì ko đủ chỗ cho 3 phi tuần (6 chiếc) hoạt động một lúc. 4 chiếc bay theo hàng một vì không phận quá nhỏ cho hai chiếc bay kế nhau. Trần mây lúc đó là 800 bộ, tốt hơn ngày trước, nhưng tầm nhìn này cũng giúp xạ thủ địch bắn rơi máy bay từ các sườn đồi cao 1.500 bộ của núi non chung quanh.
Quân trú phòng rút về một bunker ở góc tây bắc trại. Quân BV tấn công bằng bộ binh, khiến 4 chiếc này, trong ba đợt bắn phá và ném bom (strafe), đã giết khoảng 300 tới 500 địch quân. Trong đợt đầu, máy bay của King bị bắn trúng phòng lái và bể kiếng. Ông liền rời nhiệm sở tác chiến và bay về Đà Nẳng. Ở đợt hai, máy bay của Myers bị trúng đạn cỡ lớn. Động cơ bị hỏng (conked) và phòng lái đầy khói. Ở cao độ 400 bộ, quá thấp để nhảy dù. 'Tôi bị trúng đạn quá nặng', Myers nói trên máy. 'Máy bay bạn đang cháy ở phần đuôi', Fisher nói. 'Nghe rõ, tôi phải đáp xuống phi đạo vì phòng lái đầy khói, tôi ko thấy gì hết', Myers nói. 'Cứ việc xuống', Fisher nói. Ông liền bắn xuống đất phía trước Myers và hướng dẫn các máy bay khác.
Myers phải đáp bụng xuống phi đạo
Myers đã bay quá nhanh để đáp trên một phi đạo ngắn, do đó đã phải đáp bằng bụng (belly slide). Ông thả hết các bom và thu lại bánh đáp, nhưng ý định của ông thả bình xăng phụ dưới bụng máy bay thất bại. Bình xăng đã nổ khi chạm đất. Ông đã trượt khoảng 800 bộ hay 243,84 m, với lửa ở sau máy bay, và máy bay lệch khỏi phi đạo về phía phải và nổ. Ko thể tin được, Myers đã sống sót. Fisher đã thấy y leo ra (clamber out) khỏi máy bay và chạy tới một mương giữa phi đạo và đồn, nơi mà y được che (was screened) bởi một đám rong rêu (clump of weed). Fisher gọi phi công Hague và Lucas. Hague nói: "Thật giống như bay trong sân vận động Yankee với nhiều người ngồi ở khán đài ko mái che (bleacher, dành cho vé rẻ hay ko có số) đang bắn vào anh với đại liên."
Trong khi đó, phi tuần phó Vazquez, bị trục trặc máy truyền tin. Các A-1E tác xạ dữ dội, nhằm đẩy lui bắc quân khi họ cố gắng bắt Myers. Các lính Mũ Nâu sau này nói rằng cuộc tấn công của các Skyraider đã quét sạch một đ.đ. bắc quân và giảm nhẹ áp lực đối với trại.
Trong khi các A-1E tiếp tục tấn công, Fisher đã gọi 1 trực thăng cấp cứu. Mười phút sau, BCH hành quân đặt trên một náy bay vận tải cho biết trực thăng sẽ đến ít nhứt là 20 phút. Fisher nghĩ rằng đó chỉ là một phỏng đoán. Ông ko thể chờ lâu hơn nữa trước khi bắc quân tới gần và giết Myers. Ông nghĩ làm cách nào để cứu y. Phi đạo có vẻ ngắn. Ông gọi BCH và hỏi chiều dài. Họ trả lời 3.500 bộ hay 1.066,8 mét. Ko đủ, vì ngay cả thời tiết tốt nhứt, hầu như là tự sát nếu một máy bay vừa lớn vừa chậm như Skyraider đáp xuống dưới hỏa lực trực tiếp của bắc quân, Fisher đã viết như vậy trong sách Beyond the Call of Duty in năm 2004. Ông nói: "Một phi hành đoàn trực thăng có thể bắn từ các cửa hông để ngăn ko cho địch quân tới gần trong khi cấp cứu phi công, nhưng Myers dễ bị thương vong khi ngồi trên mặt đất. Myers là một phi công đã từng bay chung với tôi, tôi coi y như là thành viên trong gia đình và tôi ko thể chờ và nhìn y bị giết mà ko cố gắng cứu y".
Ông có thể đáp xuống phi đạo nhưng bay ra ko dễ. Chưa kể khi đáp xuống, ông là mục tiêu của 20 khẩu phòng không đặt dọc theo thung lũng. Chúng còn có hàng trăm súng tự động. Phi đạo cũng là một nguy hiểm lớn vì các tấm vỉ sắt PSP dễ trượt, và những mảnh vỡ (shard) của nó gây ra bởi đạn cối và bom sẽ dính vào (stick up) và có thể xé toạc (rip) vỏ của bánh xe thành từng miếng nhỏ (shred). Phi đạo đầy lổ do pháo kích tạo ra và đầy vỏ đạn, các mảnh vỡ từ máy bay của Myers, các thùng xăng, những mảnh vụn của thiếc và kim loại, và những mảnh vụn khác (debris). Fisher đã trông cậy vào các chiếc A-1 khác yễm trợ ông.
Fisher đáp xuống phi đạo để cứu bạn
Ông đã tiến gần phi đạo ngược với chiều gió, giúp ông bay chậm. Bất hạnh thay, gió cũng thổi khói dầy gây ra bởi bom và bom săng đặc, khiến che mất tầm nhìn. Khi ông qua khỏi đám khói dầy này, ông thấy mình đã bay trên phi đạo quá xa khiến ông ko thể ngừng máy bay trên phần còn lại của đường băng. Khi bay ở cao độ thấp, ông chợt thấy Myers nhìn mình.
Ông tăng ga (power up), giữ máy bay cách mặt đất vài bộ để tránh hỏa lực địch, và lại tiếp cận phi đạo từ hướng đối diện với lần tiếp cận vừa rồi. Ba chiếc A-1E còn lại tiếp tục bắn phá và ném bom để bảo vệ Fisher. Sau khi đánh thêm 3 đợt hay "pass", họ đều hết bom đạn. "Tôi là Winchester", Hague nói trên máy, mật khẩu này có nghĩa hết bom đạn. Tôi cũng vậy, Lucas nói. Tuy vậy họ tiếp tục nhào lộn phía trên phi đạo để đánh lừa địch rằng họ tiếp tục tấn công. Fisher tiếp đất ở một chỗ gần cuối phi đạo, đạp thắng, và trượt dài (skid down) trên phi đạo. Thắng bắt đầu tan mòn (fade) do nhiệt gây ra sau khi máy bay trượt được 2.000 bộ hay 610 m. Việc hạ cánh lần thứ hai tuy thành công dù thắng làm việc quá độ và khó điều khiển tay lái do né tránh những mảnh vỡ đầy trên phi đạo, trung tướng Joseph Moore, TL của sđ không quân, đã nói khi tưởng thưởng Huy chương Danh dự cho Fisher. Ông nói thiếu tá Fisher đã dùng tất cả năng khiếu bay bổng của mình để né tránh các lổ trên phi đạo do súng cối gây ra, vỏ đạn, và những mảnh vỡ của chiếc A-1E của Myers nằm rải rác trên phi đạo sau khi bình xăng của máy bay này phát nổ.
Fisher cũng nhận thông tin sai lầm từ BCH đặt trên một vận tải cơ. Vì phi đạo chỉ dài 2.500 bộ thay vì 3.500 bộ. (Theo tôi biết, sân bay của A Shau chỉ có thể tiếp nhận các vận tải cơ loại cất và hạ cánh ngắn (short takeoff and landing, viết tắt là STOL) như C-123 hay C-130 và L-19. A-1E ko thể đáp xuống, dù cho thời tiết và phi đạo tốt -- người dịch (ND).
Sân bay quá ngắn cho A-1 dù bất cứ tình huống nào. Ông đã vượt khỏi phi đạo, cán lên đám cỏ và vượt qua một kè nhỏ (embankment) khiến máy bay chậm lại chút đỉnh. Khi ông quay đầu (swing around) máy bay, nó đã trượt vào khu vực chứa xăng dầu. Do bay thấp nên cánh của máy bay suýt đụng vào vài thùng xăng 55-gallon hay 208 lít, nhưng đuôi của máy bay đã đụng vài thùng khác. (Dân VN thời đó, trong đó có gia đình tôi, đã dùng thùng này để chứa nước để tắm, sau khi bị quân Mỹ phế thải -- ND). Ông cho máy bay chạy chậm (taxi) khoảng 1.800 bộ hay 549 m trước mặt là địch quân.
Tụi mình hãy ra khỏi nơi đây gấp
Ông đã thấy Myers vẩy tay khi ông đi qua. Máy bay chỉ ngừng sau 100 bộ hay 30 m. Ông ko thể thấy Myers, vì y đang chạy theo ở phía phải của máy bay, với đạn địch bắn theo ráo riết. Sau này Myers kể rằng đó là một cuộc chạy nước rút (dash) nhanh nhứt của một kẻ đã 46 tuổi! Fisher trông đợi Myers chốc lát (momentarily) sẽ trèo lên phòng lái của mình. Nhưng y đã ko làm được khiến Fisher nghĩ rằng Myers đã bị trúng đạn. Ông liền tháo thắt lưng an toàn và đạp thắng để tìm Myers.
Khi Fisher định trèo ra bên phải của máy bay, ông đã thấy một người với hai mắt nhỏ và đỏ, đang cố gắng trèo lên cánh máy bay. Đó là Myers, quần áo bị cháy, đầy bùn và mắt đỏ vì khói. Vì động cơ vẫn còn chạy mạnh, sẵn sàng để cất cánh, nên không khí thoát ra từ cánh quạt của chiếc A-1E này đã thổi Myers về phía sau khi cố gắng tới gần phòng lái. Thế là Fishser phải chuyển động cơ thành neutral, nghĩa là máy chạy nhưng cánh ko quay. Vì đạn bắn liên tục vào máy bay, ông đã kéo Myers vào phòng lái với đầu đi trước. Những lời nói đầu tiên của Myers: "Thằng ôn dịch (your dumb son of bithch), tụi mình hãy ra khỏi nơi đây gấp". Y đã uống ít nước từ bi-đông của Fisher và đòi một điếu thuốc. Fisher ko có điếu nào.Trong khi Fisher kéo Myers lên máy bay, máy bay của Lucas bị trúng đạn ở hệ thống thủy lực trong khi y đang cùng Hague và Vazquez nhào lộn (hurtle) ở cao độ thấp phía trên trại, mà ko thả bom và bắn phá gì hết vì ko còn bom đạn. Tuy vậy cũng nhứt thời ngăn chận bắc quân. Quay máy bay vòng lại, thiếu tá Fisher thấy rằng ông có chưa tới 2/3 của một phi đạo quá ngắn để cất cánh. (A-1E cần phi đạo dài 3.500 bộ, sân bay của A Shau chỉ dài 2.500 bộ, và giờ đây trước mặt Fisher chỉ còn chưa tới 2/3 của phi đạo này, nghĩa là 1.667 bộ hay 508 m -- ND). Tận dụng hết mọi sở trường, Fisher tăng ga và lái máy bay né tránh các mảnh vỡ đủ kích cỡ, để đạt đủ tốc độ hầu máy bay cất cánh. Dù y bay sát mặt đất với tốc độ ko đủ, và dưới làn đạn dữ dội của bắc quân, từ từ máy bay đã đạt tốc độ, và bắt đầu chui vào một đám mây ở cách mặt đất 800 bộ hay 244 m.
Theo một báo cáo sau cuộc hành quân tiếp cứu này, quân trú phòng đã reo hò (cheer) ầm ỉ khi máy bay của Fisher đã gầm thét (roar down) trên phi đạo và cuối cùng vọt lên trời. Fisher và Myers đã bay về Pleiku, nơi mà xe cứu thương chờ sẵn. Myers ko bị thương nặng, dù y bị bỏng nhẹ (singed) và bao phủ bởi bồ hóng (soot) và bốc mùi hôi (smelled awful) -- theo Myers. (Địch quân đuổi và bắn theo ráo riết, ko ỉa đái trong quân là giỏi lắm rồi -- ND). Myers đã muốn mua rượu whiskey đủ uống trong 1 năm để tặng Fisher, nhưng ông này từ chối vì chưa từng uống cà phê, huống gì whiskey. Thay vào đó, Myers tặng Fisher một máy ảnh Nikon có khắc chữ A Shau, 10 tháng ba 1966. Máy bay của ông có 19 lổ đạn. Chiếc của Vazquez có 23 lổ. Tổng cộng có 201 PHI XUẤT để yểm trợ trại A Shau ngày 10/3. Trong đó có 103 của TQLC, 67 của KQ, 19 của hải quân (HQ), và 12 của KQ Nam Việt Nam. Tính luôn chiếc của Myers và chiếc AC-47 đã kể trong bài, tổng cộng có sáu máy bay của KQ, HQ, và TQLC bị bắn rơi khi tiếp cứu trại.
Máy bay của Fisher được để ở Bảo Tàng KQ
Fisher đã được Huy Chương Danh Dự, phi công đầu tiên của chiến tranh VN có được. Được trao tặng bởi TT Johnson ngày 19/1/1967, có vợ và 5 con trai của Fisher tham dự. Chiếc máy bay mà Fisher dự trận A Shau sau đó đã đáp xuống đất khẩn cấp và bốc cháy tại Pleiku sau một phi vụ. Tuy nhiên nó đã đưa về và phục hồi. Năm 1967, ông đã bay nó từ California tới bảo tàng KQ ở Dayton Ohio, nơi ngày nay bạn có thể thấy máy bay này. Đại tá (ĐT) Bernard Fisher đã qua đời 16/8/2014."
Dịch từ nguồn: https://veteransresources.org/2016/04/vietnam-the-battle-of-a-shau/
San Jose ngày 22/12/2022.
Tài Trần
CÁC TRẬN ĐÁNH ĐẪM MÁU CỦA DSCĐ VÀ TĐ 22 BĐQ TRÊN QL-19 VÀ TRẬN KANNACK 1965.
Chuyển ngữ từ trang 92 - 96 của quyển Green Berets at War của Shelby Stanton.
LỜI MỞ ĐẦU
"Ngày 5/1/1965, trại Trảng Sụp (ký hiệu A-411 do đại úy Healy chỉ huy) và Suối Đá (A-114 do đại úy Ekman chỉ huy) đã tổ chức hành quân vào Chiến khu C với 6 đại đội DSCĐ. Sau một chạm súng ngắn ngủi với VC, các đại đội 326 DSCĐ người Campuchia và đại đội 324 DSCĐ người Việt đã mất tinh thần và rời bỏ trận địa. Hai đại đội này đã bị giải giới và giải tán (break up). Trong khi trại Phước Vĩnh (A-312 do đại úy Spargo chỉ huy) đã chiến thắng tại một căn cứ VC ở bìa của chiến khu D trong cùng tháng, các lính dscđ người Campuchia này sau đó đã từ chối hành quân cách xa trại hơn 1 dặm. Vì có đại đội 347 DSCĐ gốc Nùng rất trung thành tạm thời bảo vệ trại, nên lính Campuchia "được quyền chọn lựa giữa tuân lịnh cấp trên hay rời bỏ hàng ngũ," và lực lượng này đã được cải tổ toàn diện.
Một trong những việc xử dụng ko đúng cách và đáng buồn nhất các lực lượng dân sự chiến đấu (DSCĐ) của LLĐB Mỹ đã xảy ra trong những tháng đầu của năm 1965 dọc QL-19, con đường huyết mạch chánh nối liền bờ biển với cao nguyên miền Trung. Con đường này xuất phát từ Qui Nhơn ở ven biển và cao dần, quanh co các hẻm núi (gorge) đầy rừng rậm và các đèo cao trước khi tới Pleiku. Tướng Westmoreland, TL của BTL yễm trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, viết tắt là MAC-V đã lo âu về khả năng VC có thể chia đôi nước này làm hai. Do đó việc bảo vệ QL-19 là một trách nhiệm quan trọng về quân sự. Ông dự định tới cuối mùa thu năm 1965 sẽ giao sđ 1 Không kỵ trách nhiệm này. Nhưng từ đây tới ngày đó, việc hộ tống các đoàn xe và an ninh các đèo được đặt lên vai các người lính DSCĐ gốc Rhade kém may mắn (hapless) này của LLĐB.
Vài trăm lính DSCĐ gốc Rhade đã từng tham gia cuộc nổi loạn của người Thượng (Montagard uprising), cùng với gia đình, đã buộc phải chuyển tới hai trại mới, đặt ở vị trí chiến lược ở hai ngọn đèo quan trọng là Mang Yang và An Khê.
(Cuộc nổi loạn xảy ra từ 19 đến 28 tháng 9/1964, bắt đầu từ các trại LLĐB tại khu vực Ban Mê Thuột. Lính Thượng ở các trại này chỉ trung thành với cấp chỉ huy người Thượng và cố vấn Mỹ. Ở một số trại, họ đã giết các cố vấn LLĐB người Việt và giam giữ các cố vấn LLĐB Mỹ. Cuộc nổi loạn này đã chấm dứt nhờ sự dàn xếp của một số sĩ quan như đại tá Freund, cố vấn của quân đoàn 2 hay đại úy Gillespie, chỉ huy toán A-312 tại trại Buôn Brieng, và một số sĩ quan LLĐB Mỹ khác -- người dịch).
Trại An Khê, ký hiệu A-4 do đại úy Hendricks chỉ huy, gồm lính DSCĐ gốc Rhade, rất kỷ luật và trung thành, chuyển từ trại Bu Prang, Quảng Đức. Trại Suối Đôi, ký hiệu A-3, do đại úy Mireau chỉ huy, cũng là lính DSCĐ gốc Rhade nhưng tinh thần chiến đấu kém hơn. Những người này đã chuyển từ tháng 1/1964 từ trại Ban Don (tây bắc của Ban Mê Thuột) và đã chống đối kịch liệt vì cho rằng họ được dùng làm chốt thí (cannon fodder) dọc Ql-19.
Từ lâu, QL-19 đã là một bãi chiến trường. Các đài kỷ niệm nằm rải rác ven đường giữa Đèo An Khê và Đèo Mang Yang, đánh dấu trận đánh phục kích Chiến Đoàn 100 của Pháp năm 1954. Giờ đây, mười năm sau, VC vẫn dùng chiến thuật đó. NGÀY 15 THÁNG 2 1965, một đoàn công-voa lớn của Nam VN bị phá hủy giữa đèo Mang Yang. TRẠI AN KHÊ được lịnh lập hai căn cứ tiền tiêu (forward operational base), viết tắt là FOB số 1 và 2, ở PHÍA TÂY của đèo vào NGÀY 17 THÁNG 2 1965. (Theo thông tin trên mạng, đèo Mang Yang ở phía đông của đèo An Khê và cách nhau 22 km -- người dịch)
Ba ngày sau VC đã đồng loạt tấn công hai căn cứ này. Trong khi FOB số 2 chỉ bị thiệt hại nhẹ do địch chỉ tấn công thăm dò vào tối ngày đó, FOB SỐ 1 Ở PHÍA TÂY của FOB số 2 và gần Đèo Mang Yang bị TRÀN NGẬP. Máy bay thám thính và C-123 chuyên thả hỏa châu đã bất lực vì mây bao phủ 2 căn cứ này. Một đại đội (đ.đ.) tiếp ứng gốc dân Rhade, dưới chỉ huy của đại úy Hendricks đã tới FOB số 1 vào sáng ngày 21/2 sau khi vượt qua một phục kích nhỏ. Lực lượng của ông đã trở lại An Khê an toàn với người chết và bị thương từ tiền đồn này (FOB số 1). Một toán DSCĐ khác, chỉ huy bởi đại úy Em, đã ko gặp may mắn khi di chuyển bằng xe và xuất phát từ An Khê để tìm kiếm 20 DSCĐ mất tích tại FOB số 1.
Trên đường trở về An Khê, đoàn xe của đại úy Em đã bị một trận phục kích KHÁC lúc 5:30 chiều. Dù bị thương nhưng đại úy đã lập được một chu vi phòng thủ, cầm cự trong HAI NGÀY với lính bắn sẻ cũng như tấn công định kỳ (periodic) của địch. Toán quân DSCĐ cứu viện của đại úy Hendricks cũng ko thể phá một nút chận mạnh mẻ của VC trên QL-19 để giúp đội quân của đại úy Em hay tới được FOB số 2. Ông buộc phải rút lui sau đó trước khi mặt trời lặn với phân nửa xe cộ bị phá hủy.
Trung tá Lindsey Hale, chỉ huy C-2 LLĐB ở Pleiku đã có rất ít nguồn lực trước tình hình này. Lúc 11 g đêm ông ra lịnh cho đại úy (đ.u.) Mireau, chỉ huy Trại Suối Đôi, hành quân về phía đông đến Đèo Mang Yang và đặt trung đội "Diều Hâu" gồm toàn lính Rhade thiện chiến trong tình trạng báo động. Trung đội này đã được thành lập tại Pleiku ngày 16/10/64 với mục đích phản ứng nhanh. Ông đã tăng cường cho cuộc hành quân (HQ) này vài trực thăng võ trang, nhưng các máy bay ném bom A-1E Skyraider dự trù cho cuộc HQ này giờ chót dùng cho mục tiêu khác.
Cũng như phần lớn các đ.đ. DSCĐ, đ.đ. 269 ở Suối Đôi đã ko huấn luyện để đánh đêm. Đ.đ. của trung úy (lieutenant) Y-Lang gốc Rhade đã có lịnh di chuyển từ sáng 22/2 nhưng chỉ di chuyển sau 12 g. Những người lính nhỏ thó này, với nón sắt gần như che cả mắt và ăn vận đồng phục màu olive của lính bộ binh và rằn-ri, đã khó khăn lắm mới trèo lên những xe tải với sàn xe quá cao của Mỹ. Với tổng cộng 167 người, ngồi san sát trên 6 xe tải, đoàn xe đã lên đường lúc 1245 trưa.
Lúc 3:30 chiều, đoàn xe này vừa vượt qua FOB số 1 đã bị phá hủy trước đó và bắt đầu đi vào một khúc cong. Khi họ gặp một xe đò chạy ngược chiều, thì xe đò này bị trúng B-40 và bốc cháy. Đoàn xe liền ngừng lại dưới làn đạn súng nhỏ và cối. Từ hai bên đường, VC đã tấn công đoàn xe và lính DSCĐ nhảy xuống đất tìm chỗ núp. Ba cố vấn LLĐB Mỹ đã cố gắng tập họp đ.đ. Súng liên thanh và súng nhỏ của địch từ cỏ voi cao đã phá vỡ cuộc phản công của lính DSCĐ. Chuyên viên bậc 5 Geral Rose đã chết khi cố gắng phá vòng vây (breakout) trong khi lính Rhade phía sau ông ko muốn chiến đấu (falter). Trong cảnh cận chiến (melee) hai bên đã dùng súng, lưởi lê và bá súng. Trung úy Griggs đã trúng đạn ở cổ nhưng đã bắn hạ năm VC khi họ tiến gần trung sĩ Long, bị thương ở đùi (thigh). Sau đó Griggs trúng đạn ở ngực và ngất xỉu.
Một số lính DSCĐ định hàng khi hết đạn nhưng đã tập hợp lại sau khi VC tiếp tục giết kẻ bị thương. Họ đã dùng lưởi lê, dao, và nắm đấm để phá vòng vây và chạy bộ về một tiền đồn ở Đèo Mang Yang. VC ko để ý tới trung úy Griggs vì nghĩ rằng ông đã chết. Sau đó ông tỉnh lại và bò tới một máy truyền tin, nằm bên dưới một hiệu thính viên đã chết. Ông gọi gunship tấn công VC. Gunship đã bốc trung úy Griggs và trung sĩ Long sau khi một trực thăng tải thương trúng đạn và đáp khẩn cấp xuống Suối Đôi vì phi công bị thương và buồng máy bị cháy.
Trung đội phản ứng nhanh, còn gọi là diều hâu đã xuống phiá đông của trận đánh một giờ sau cuộc phục kích này bắt đầu. Năm lính LLĐB và 36 DSCĐ người Rhade nhảy ra khỏi máy bay khi càng trực thăng đụng đất. Khi gần tới địa điểm phục kích, họ bị trực thăng bắn lầm. Dù vậy họ vẫn tiến về đoàn xe bị phục kích, bất chấp bị bắn sẻ và đại liên của vc.
Trung đội này được tăng viện lúc 7:30 tối ngày 22/2 bởi 60 NGƯỜI của đ.đ. 2 của TĐ 22 BĐQ VNCH từ Pleiku. Họ đã lập một chu vi phòng thủ và vượt qua địa điểm mà đ.đ. 269 bị phục kích vào sáng ngày hôm sau. Sau đó họ đã bắt tay với đám tàn quân gồm lính của đ.u. Em và lính của FOB số 2. Thành phần còn lại của TĐ 22 BĐQ đã đổ xuống An Khê và định di chuyển trên QL-19 để bắt tay với lực lượng trên đây vào ngày 23/2. Cuộc tiến quân đã bị đẩy lui trong một trận đánh dữ dội khiến TĐ này bị thiệt hại nặng và rút chạy (stumble back). Mọi lực lượng trừ bị của QĐ 2 đã cạn kiệt, và rất nhiều trực thăng đã huy động để bốc đội quân bị bao vây này khỏi chiến trường.
Dù trận Đèo Mang Yang đã chấm dứt khi bỏ vùng này cho VC ngày 24/2, những người lính sống sót của đ.đ. 269 DSCĐ vẫn chưa trở về đơn vị. Gia đình của họ ở Suối Đôi đã muốn tìm kiếm người chết để chôn theo truyền thống bộ lạc. Đ.u. Mireau nói với họ rằng VC đã bắn B-40 vào xe đò dân sự là chỉ dấu họ sẽ ko tôn trọng việc dùng xe đò để chỡ xác. Vào buổi tối, ông đã gửi trung sĩ nhất Scearce và trung sĩ McCann đến tiền này ở đèo Mang Yang để tập hợp những kẻ sống sót trong cuộc phục kích. Họ đã bị tiếp đón lạnh nhạt (sullenly) bởi 112 lính Rhade mất hồn (listless) tại tiền đồn này. Trong lúc trung sĩ Scearce đang nói chuyện để cố gắng nâng cao tinh thần cho họ thì 1/3 quân số này đột ngột rời bỏ hàng quân.
Hai trung sĩ này cuối cùng đã thuyết phục đội quân (contigent) này của Suối Đôi trở về địa điểm phục kích để thu nhặt xác chết đồng đội vào 27/2. Đội quân này đã đến Suối Đôi ngày 1/3 với những lời đe dọa của họ với trung úy Khim (có lẽ là người VN -- người dịch) của LLĐB và các cố vấn Mỹ. Ở Suối Đôi, những người Rhade này trở nên mệt mỏi, chán nản (lethargic) và ko hợp tác với cấp chỉ huy và ngày 10/3 đã từ chối bất cứ hành quân nào trong tương lai. Hậu quả, tất cả họ đã bị nghỉ việc và trại Suối Đôi được giao cho TĐ 3/42 thuộc sđ 22 bộ binh vào ngày 24/3/1965. BTL Mỹ tại Việt Nam hay MAC-V đã nhấn mạnh rằng việc dùng ko đúng cách DSCĐ như đã kể, ko những khiến họ thua trận, mà còn làm tiêu tan rất nhiều các cố gắng của LLĐB nhằm thu phục lòng trung thành và hổ trợ của các DSCĐ.
VC đã ko thành công khi tấn công các trại LLĐB. Trại Kannack, ký hiệu A-231 với 550 DSCĐ do đ.u. Viau chỉ huy), nằm khoảng 12 dặm bắc của QL-19, bị tấn công bởi một TĐ VC ngày 8/3/65.
Sau khi mở màn bằng đạn cối, bộ binh địch đã nhanh chóng tràn ngập 2 tiền đồn và vượt qua hàng rào kẻm gai ngoài cùng. Hai bunker nằm trên chu vi phòng thủ có bố trí súng đại liên, đã bị súng không giựt của địch phá hủy và các đặc công với mìn bangalore đã tạo lổ hổng trên vòng kẻm gai bên trong. Tinh thần chiến đấu tuyệt vời (superbe) của những người lính Thượng, chiến đấu từ những vị trí chuẩn bị kỹ lưỡng và chỉ huy dũng cảm bởi đ.u. Viau, cuối cùng đã bẻ gẫy cuộc tấn công. Đặc biệt, hai ổ súng đại liên, bị rung chuyển liên tục vì trúng đạn không giựt và các khối chất nổ, đã đầy xác chết của lính VC trước hai bunker này. Khi hừng đông xuất hiện, các oanh tạc cơ A-1E đã bắn phá và ném bom vào tàn quân VC đang rút lui, theo sau đó là một phản công của DSCĐ nhằm chiếm lại tiền đồn phía nam, nơi mà số lính Thượng vẫn còn sống.
(Theo một YouTuber ở: https://www.youtube.com/watch?v=NID1JnQP3nIt
thì lực lượng tấn công trại gồm một TĐ đặc công thiện chiến, có sự trợ lực của một trung đoàn bộ binh. Nhưng việc điều quân của họ đã bị lộ cả thắng trước đó, nên quân phòng thủ đã chuẩn bị kỹ lưỡng chờ đợi. Do đó họ đã bị thiệt hại nặng với số người chết khoảng 500 người! Quân trú phòng phải dùng xe ủi đất để đào hố chôn các xác chết -- người dịch).
Theo báo cáo hành quân thì có 34 DSCĐ và 3 thường dân bị chết, 3 lính LLĐB mỹ và 32 DSCĐ bị thương; có 119 bộ đội chết dựa vào đếm xác và số lớn chết đã được kéo đi.
====
Bài đọc thêm về trận Kannack đăng trên báo Time.
CHIẾN THẮNG TẠI TRẠI LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT KANNACK.
Bài đăng ngày Friday, Mar. 19, 1965
Nguồn: https://content.time.com/time/subscriber/article/0,33009,833551,00.html
Người dịch: Tài Trần.
"Trại nằm trên đỉnh của một ngọn đồi ở phía bắc của QL-19 - con đường tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku.
Từ đồn (compound) của Kannack và sân bay bằng đất kế cận, khoảng 400 cố vấn lực lượng đặc biệt (LLĐB) và các lính dân sự chiến đấu (DSCĐ) người Thượng ngày đêm giám sát rừng rậm, các dốc núi (slope) trơn trợt và những khe núi (folds of ravines) lý tưởng cho các cuộc tấn công bằng cối của địch. Một con đường nhỏ và độc đạo chạy về hướng nam tới QL-19 - xa lộ từ Qui Nhơn đi Pleiku, nơi mà các đoàn công-voa tiếp tế thường là mồi ngon cho các cuộc phục kích của VC. Tuần qua quân CS đã tấn công Kannack.
Bọn VC đã chờ tới khi một đám mây dầy chứa đầy mưa bao phủ các đỉnh chung quanh trại này. Nghĩ rằng tránh được máy bay Mỹ, chúng đã tấn công, với quân số gần 1.000 người, vào sườn phía bắc, nam, và đông của trại. Hàng chục tiểu đội đặc công mặc quần cụt đen và khăn cổ màu xanh ngụy trang hay vải dù đã tới sát chu vi bằng kẻm gai. Họ mang theo mìn bangalore. (Đây là chất nổ chứa trong các ống nối nhau, có công dụng để phá hàng rào. Có thể tạo một cửa mở rộng từ 3 đến 4 mét xuyên qua hàng rào kẻm gai. Được xử dụng rộng rải khắp thế giới, từ năm 1012, xem hình--người dịch). Những gì tiếp theo là rất nhiều tiếng nổ. (There followed bangs galore).
CÁC BÀ VỢ VÀ TUYỆT VỌNG.
Kế đó những lính đặc công đã kéo những rổ làm bằng mây chứa đầy lựu đạn và đạn dược xuyên qua các cửa mở trong hàng rào kẻm gai, và phá hủy một hầm trú ẩn làm bằng bao cát ở góc đông bắc của trại bằng một quả 57 ly không giựt. Bọn chúng đã làm nổ tung (blast) rất nhiều bunker ở góc đông bắc của trại. Tổng cộng có 33 lính của trại chết và 27 bị thương--phần lớn trong đợt tấn công đầu tiên.
Nhưng những người Thượng này--gồm bộ tộc Hrey, Bahnar, Rhade và Mường--đã quyết tâm cố thủ. Họ đã hướng các súng cối vào các vị trí đã bị tràn ngập, các người vợ đã mang đạn dược tới chiến hào và tiếp đạn vào súng liên thanh của chồng. Đó là một thứ tinh thần sống chết bên nhau, xuất phát từ tuyệt vọng."Tôi nghĩ rằng những người Thượng này đã chiến đấu dũng cảm vì có gia đình ở kế bên,"một cố vấn Mỹ đã nói. "Họ sẽ liều mạng (ruthless) khi đối diện giữa sống và chết. Một người duy nhứt sống sót trong một bunker, và VC gọi y đầu hàng. Y đã chửi bọn chúng và chạy nhanh xuống đồi."
Ở CUỐI CON ĐƯỜNG.
Mất tinh thần, VC đã rút lui. Khi trời sáng, hơn 100 VC nằm chết (dangled) trên hàng rào kẻm gai, một số tay còn cầm (clutch) lựu đạn hay dây đạn. Họ thuộc tiểu đoàn (TĐ) 580 và 801 dày dạn chiến trường, và đều mang vũ khí mới tinh của Khối Cộng (ám chỉ các nước CS Đông Âu và Liên Xô -- người dịch). Điều này chứng tỏ người lính du kích VC được tiếp tế vũ khí và phụ tùng từ các nước CS, một dấu hiệu vững chắc vào chiến thắng cuối cùng.
Phần lớn các tử sĩ CS tại trại Kannack từng bị thương trước đó, có lẽ do phản lực chiến đấu cơ Mỹ đã tấn công vào các vị trí VC dọc QL-19 tháng qua. Một số đã bị trúng thương (nip) bởi "Lazy Dog", một loại bom chống người mới được dùng, có thể nổ ở độ cao 30 yard hay 27,4 m trên mặt đất, bắn ra những mủi tên nhỏ bằng thép trên một khu vực . Trong những người chết có một thiếu úy trẻ CS Bắc Việt có tên Ngô. Trong nhật ký, y kể lại đoạn đường gian khổ dọc theo đường mòn HCM mà y bắt đầu tháng 11 năm ngoái. Y chỉ đến gần trại này vào tuần qua. "Cuộc sống quá gian khổ", y đã viết. "Không đủ ăn, và máy bay liên tục tấn công chúng tôi."
=====
Bình Giã 1964: trận thử lửa đầu tiên của sư đoàn tân lập của CSBV và VC.
Nguồn: http://www.vietnamgear.com/article.aspx?art=65
Tác giả: Michael Martin.
Người dịch: Tài Trần
Sau đây là phần chuyển ngữ.
====
- CS đã phát động chiến dịch này để kỷ niệm bốn năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam (MTDTGPMN).
- Tiểu đoàn trưởng TĐ 4 TQLC đã điều quân để lấy xác phi hành đoàn của một trực thăng bị rơi -- bất chấp chống đối của cố vấn Mỹ của TĐ. Đã khiến 29/35 sĩ quan của TĐ tử thương và hàng trăm người khác chết và bị thương.
"1964 là năm của cam kết toàn diện đối với các lực lượng CS tại Việt Nam.
Kể từ đó, mọi thứ đã được quyết định (the die had been cast), và sẽ không có bất cứ thay đổi (turning back) về chính sách nếu người CS muốn thành công trong việc xâm lăng miền Nam.
Một sự gia tăng về huấn luyện và chiến đấu chẳng bao lâu diển ra -- phần lớn tại vùng Châu Thổ -- với các lực lượng VC bành trướng từ khoảng 23.000 du kích quân nam và nữ trong tháng một 1963, thành một quân đội huấn luyện kỹ lưỡng về quân sự và chính trị, gồm khoảng 56.000 người vào tháng 12/1964.
Các bản đồ tình báo của bộ tổng tham mưu Nam Việt nam và BTL Yễm trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam, viết tắt là MACV ngày càng xuất hiện các khu vực rộng lớn, được đánh dấu màu đỏ, chứng tỏ địch đã kiểm soát.
Sau vài trận phục kích thành công chống các lực lượng SG, vào ngày 9/12/1964, nguyên một chi đoàn thiết vận xa (TVX) M-113 đã bị hủy diệt bởi VC - và với những xáo trộn liên tục của bất ổn chính trị vào lúc đó, người CS đã quyết định kết thúc năm này bằng một chiến thắng quân sự (QS) lớn lao để kỷ niệm bốn năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTGPMN).
Các thành phần của sđ 9 VC (đây là đv cấp sđ của VC được thành lập và chiến đấu tại miền Nam) đã được chọn cho danh dự này. Hai trung đoàn của sđ này (271 và 272) đã di chuyển khỏi Chiến khu C và D và đã xâm nhập vào các khu ven biển để nhận hàng tiếp liệu từ Bắc VN. Sau đó, hai đv này đã tái tập hợp và di chuyển về các đồn điền chuối và cao su chung quanh ngôi làng nhỏ Bình Giã, một ấp chiến lược (ACL) ở khoảng 67 km đông SG thuộc tỉnh Phước Tuy.
Từ những khu rừng này, họ đã thăm dò và quấy rối các dân làng và các lực lượng ĐPQ trong vài ngày TRƯỚC cuộc tấn công chánh. Trong những giờ trước rạng đông của NGÀY 28 THÁNG 12, các trung đoàn VC này, dẫn đầu bởi TĐ 514, đã tấn công bất ngờ vào làng, trước nhứt là tràn ngập các tiền đồn bảo vệ nó. Sau cuộc tấn công thành công này, VC đã giữ vững vị trí và tăng viện với quân mới.
Các dân làng Bình Giã này là những giáo dân kiên cường (staunch) chống Cộng, đã tái định cư từ Bắc VN sau 1954; họ đã biết rõ thế nào là chế độ CS và đã cố gắng hết mức để bẻ gẫy (thwart) các kế hoạch của địch. Trong mưu toan tái chiếm làng của QĐVNCH, các oanh tạc cơ của không quân VNCH và trực thăng Mỹ đã ko được phép tấn công vào làng, khiến địch đã có chỗ núp trong những vườn chuối chung quanh làng. Do vậy trong một đêm họ đã chặt sạch các cây chuối, nguồn sống (livelihood) của họ nhưng cũng khiến địch ko còn chỗ ẩn núp.
Bất hạnh thay, những cố gắng đầy nhiệt huyết (spirited) của dân Bình Giã để thắng CS đã bị lu mờ (overshadowed) khi thảm kịch quân sự này đã đổ ập (befell) xuống các lực lượng của CP -- được lịnh tái chiếm làng.
Một lực phản ứng nhanh đã được yêu cầu và một đại đội (đ.đ.) của TĐ 30 BĐQ đã được trực thăng vận (heli-lift) để bắt tay với một đ.đ. của TĐ 38 BĐQ đã có mặt trước đó tại chi khu (CK) Đức Thạnh khoảng 3 km phía tây làng. Chi khu này nằm trên liên tỉnh lộ (LTL) nối liền Bà Rịa với Xuân Lộc. Năm 1975, sđ 18 bộ binh đã rút lui theo LTL này -- người dịch.
NGÀY 29 TÂY, TĐ 33 BĐQ và một đ.đ. của TĐ 30 BĐQ đã được trực thăng vận để giúp tái chiếm làng. Họ đã lọt vào ổ phục kích có hình chữ L. Địch từ trong các hầm hố đã tấn công bằng đại liên và cối vào chính diện và cạnh sườn của hai đv này khiến TĐ BĐQ này tan rả hàng ngũ.
NGÀY KẾ, TĐ 38 BĐQ đổ quân xuống khu vực phía nam Bình Giã. Khi vừa chạm đất họ đã chạm súng với địch và đã bắt đầu phản công về phía làng. Trận đánh đã kéo dài suốt ngày và BĐQ ko thể đẩy lui địch khỏi các hầm hồ của họ.
Những giờ sáng sớm của NGÀY 30 TÂY, TĐ 4 TQLC được tăng viện cho BĐQ. Vào lúc đó, vc đã rút về hướng đông bắc, và tqlc với các cố vấn Mỹ tiến vào Bình Giã mà ko gặp địch.
Vào cuối ngày, một trực thăng của lục quân Mỹ trong khi tấn công các mục tiêu trong khu vực đã bị bắn rơi và phi hành đoàn tử thương. BẤT CHẤP LỜI CAN NGĂN của cố vấn Mỹ, TĐT TQLC Việt Nam đã lịnh cho một đ.đ. đến địa điểm máy bay rơi và lấy xác của phi hành đoàn.
Tuy nhiên, đ.đ. này đã bị phục kích sau khi tới địa điểm bởi một lực lượng lớn VC xử dụng cối 82 ly, súng không giựt 57 ly, và đại liên 50 tức 12.7 ly.
Vào cuối buổi sáng (late in the morning) của NGÀY 31 THÁNG 12, ba đ.đ. còn lại của tđ TQLC đến tiếp cứu đ.đ. bị bao vây (beleaguered) này, và họ đã bị phục kích bởi một đv lớn của Chính Qui (Main Force) CS có quân số từ 1.200 đến 1.800 người sau khi họ rút chạy về phía làng.
Tính tới cuối chiều có 29/35 sĩ quan của TĐ 4 TQLC tử trận, bao gồm thiếu tá Nguyễn văn Nho và TĐ với quân số 326 người này đã bị thiệt hại rất nặng: 112 chết, 71 bị thương và 13 mất tích. Có 4 cố vấn Mỹ bị thương, và đại úy Donald G. Cook, một quan sát viên OJT từ sđ 3 TQLC Mỹ bị mất tích.
Khác với lối tác chiến trước giờ, các lực lượng VC đã ko rút lui khi trời tối. Họ đã cố thủ trong BỐN NGÀY. Bình Giã đã khiến QLVNCH và các cố vấn Mỹ phải "mở mắt" -- khi lần đầu tiên, các lực lượng VC đã chứng tỏ rằng với tiếp tế đầy đủ từ bắc VN, họ có thể tiến hành các trận đánh lớn với lực lượng CP. Họ đã học cách kết hợp khéo léo (skillfully) chiến tranh du kích và qui ước để áp dụng một năm sau đó với các lực lượng Mỹ. (Ngày 8/3/1965, 3.500 lính TQLC Mỹ đổ bộ lên Đà Nẳng. Ngày 28/7/1965, TT Johnson gửi thêm 50 ngàn quân tới VN.-- người dịch).
NĂM 1962, TQLC phát triển một khái niệm tác chiến mới có tên là Chiến thuật Diều hâu (Eagle Flight). Đây là chiến thuật phản ứng nhanh khi dùng trực thăng bốc các đv bộ binh VNCH tới các điểm chạm súng hay trận đánh. Vào ngày 29/12/1964, trong một hành quân diều hâu tới bãi đáp Alpha bên ngoài Bình Giã, trung sĩ Harold Bennet, cố vấn BĐQ, đã ko biết rằng một tai họa sắp xảy ra đang chờ ông và những người lính bđq (didn't have a clue of the impending catastrophe awaiting him and his vietnamese Rangers).
Lúc đó Bennet đang bận tập trung vào rừng cây rậm rạp bên dưới các trực thăng trong lúc các trực thăng tải quân hay "slick" -- bay ở ngọn cây -- hướng về bãi đáp bên ngoài Bình Giã. Hiệu thính viên của y, binh nhứt (private first class hay PFC) Charles Crafts, đã kiểm tra tần số trên máy và giao tiếp các đơn vị trước khi xuống đất (had called in for a commo check before lift-off). Cả hai người lính BĐQ này đã đeo đuổi suy nghĩ riêng tư của họ trong khi tiếng "pạch pạch pạch" của cánh quạt trực thăng đã phá vỡ sự tĩnh lặng kỳ lạ của buổi chiều oi bức (broke the eerie stillness of the sultry afternoon).
Lúc 2 g trưa các trực thăng đã tới bãi đáp hay LZ. Viên phi công của chiếc trực thăng dẫn đường (lead ship) liếc qua bản đồ và dùng ngón tay cái làm dấu hiệu khi máy bay sắp tiếp đất (gave the thumbs up sign as they made final approach). Vài giây sau đó, các lính BĐQ và hai cố vấn của họ đã nhảy ra khỏi máy bay và chạy nhanh như điên để tìm chỗ nắp. Họ đã trên đất thù địch và kẻ thù đang chờ họ (They were in Indian and the Indians were there waiting).
Bennett và Crafts thuộc về toán cố vấn 4 người thuộc TĐ 33 BĐQ VNCH đồn trú tại Biên Hòa. Sĩ quan thì có đại úy James Behnke và trung úy White. TĐ của họ đã đặt trong tình trạng báo động vào ngày trước, và bây giờ Bennets và Crafts đã đổ quân với đ.đ. 2 thuộc đợt một vào Bãi Đáp Bravo của đợt hai. Y đã ko biết rằng đây là lần cuối y gặp đồng đội.
Sau khi đổ bộ, lính BĐQ của đ.đ. 2 đã di chuyển gần 1.000 mét hướng về Bình Giã. Khi sắp tới làng họ đã chạm súng nhẹ và bắt đầu bị địch bắn sẻ. Trong lúc kêu gọi gunship yễm trợ, và chuẩn bị tấn công các vị trí địch, BĐQ đã bị tấn công bằng hỏa lực mạnh mẻ của địch từ các công sự kín đáo ở chính diện và cạnh sườn. Họ đã lọt ổ phục kích hình chữ L. Vào lúc đó, họ đã ko biết rằng họ đã đụng độ với hai đơn vị cấp trung đoàn -- những trung đoàn sẽ tấn công và hủy diệt TĐ 4 TQLC hai ngày sau đó.
Lúc 5 g chiều Bennet và Crafts vào 10-12 BĐQ là những người lính sống sót của đ.đ. 2. Họ vẫn còn chiến đấu tới khi VC tràn tới để khống chế họ. Đó là khoảnh khắc mà phi công Lục quân Mỹ Twomey, qua máy truyền tin, nghe được tiếng nói cuối cùng của Bennet. Twomey đã ko thể nào quên những lời nói của người cố vấn BĐQ này, cũng như những tiếng nổ quanh trực thăng của ông, và những đường đạn đánh dấu màu đỏ bay đan chéo nhau (crisscross) trong không trung. Twomey cũng đã nhớ lại những tin đồn mà sau đó ông đã nghe. "Chúng tôi đã nghe rằng Trung sĩ Bennet đã chống đối rất dữ dội trong lúc ở trại tù CS. Chúng tôi đã nghe rằng trước khi bị xử bắn, bọn cai tù đã buộc ông nói trên Đài Hà Nội, nhưng ông từ chối. Đó là tất cả những gì chúng tôi nghe".
San Jose ngày Dec 14 2022.
BÀI 2.- TÌNH HÌNH TẠI BÌNH GIÃ TRƯỚC KHI XẢY RA TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ VÀO CUỐI THÁNG 12/1964.
Dịch từ: trang 175 - 179 của quyển "Dai-Uy" của cựu trung tá hồi hưu James Behnke, từng là cố vấn của TĐ 33 BĐQ của VNCH.
1/ CHI KHU ĐỨC THẠNH BỊ PHÁO KÍCH
"Sau đó, hiệu thính viên Chan gọi tôi nghe máy. Đó là một phi công L-19. Y đang ở trên khu vực của tôi. Dù tôi ko thể nghe tiếng máy, tôi vẫn biết rằng y ở trên cao và về hướng tây, giữa tôi và Sài Gòn. Y nói với tôi sẽ có mặt suốt đêm. Nghĩa là bao vùng. Y sẽ là đài tiếp vận (relay) của tôi, nghĩa là tôi có thể liên lạc với các cố vấn Mỹ ở BTL quân đoàn ngay lập tức. Thông thường, đơn vị bộ binh dưới đất phải liên lạc mỗi đầu giờ với máy bay, nhưng vì chỉ có mình tôi, nên tôi ko thể làm điều đó. Tôi nói với y đừng trông chờ tôi gọi y vì tôi cần phải ngủ. Nếu tôi cần, tôi sẽ la hoán lên (holler/yell). Y đáp nhận (roger), và nói y luôn túc trực (stand by).
Tôi ngủ rất nhanh. Đột nhiên tôi đánh thức bởi những tiếng nổ lớn kinh khủng. Bum. Bum. Bum. Tôi bật dậy, mắt mở lớn. Mọi người đều bật dậy và nhìn chung quanh. Điều gì xảy ra. Đột nhiên tiếng súng im bặt. Khoảng 30 hay 40 viên đã được bắn.
Chẳng bao lâu chúng tôi biết điều gì đã xảy ra. Một tiền đồn nhỏ ở đầu phía tây cuả làng đã bị pháo bằng cối.
(Tiền đồn này là chi khu Đức Thạnh, nằm ngay trên liên tỉnh lộ 7, đường từ Xuân Lộc đi Bà Rịa -- người dịch). Tôi thắc mắc tại sao chúng ko pháo chúng tôi. Cuối cùng tôi cũng biết. Chúng ko pháo vào làng vì có dân. Chúng chỉ pháo vào tiền đồn. Do đó chúng tôi ngủ tiếp.
2/ BẮN LẦM Ở VƯỜN CHUỐI
Ngày kế, 7/12/1964. Chúng tôi rất vui khi thấy chiến xa và thiết vận xa vào làng. Tôi gặp đại úy cố vấn Mỹ của chi đoàn -- một sĩ quan da đen có tên White có thân hình vạm vở (heavy set) và vui tính. Chúng tôi trò chuyện vui vẻ. Các thiết vận xa của y sẽ phối hợp với chúng tôi để bảo vệ làng. Riêng xe tăng sẽ ở những nơi dễ bị tấn công nhứt. Có lẽ cả hai đơn vị (đv) sẽ ở lại làng này vài ngày.
Vào cuối ngày thì có chuyện. Tôi đang ở quảng trường của làng thì đại úy cho người gọi tôi. Tôi xách máy truyền tin và chạy tới chỗ ông. Y đang ở rìa bắc của làng. Một số lính BĐQ trong khi tuần tiểu khu vực này, đã nghe dân làng nói vài VC đang đào hố (hole up) trong một vườn chuối ở đông bắc. Vườn này rất sát làng. Thực ra, khu vực bắc làng là đồng trống dài nửa dặm hay 800 mét. Vườn chuối này nằm giữa cánh đồng này.
Đại úy yêu cầu tôi kêu trực thăng võ trang bắn vào khu vực này. Tôi gọi một chiếc, nhưng trong khi chờ nó tới tôi nghi ngờ về yêu cầu này. Có thể có sai lầm. Vườn chuối ở giữa đồng trống. Tại sao VC lại trốn ở đó? Dĩ nhiên, chúng có thể. Nhưng có thể có dân làng ở đó. Tôi hỏi đại úy để xác nhận, để chắc chắn ko có người vô tội ở vườn chuối. Y gửi vài người già đến đó. Họ đã tới và bảo đảm với chúng tôi rằng ko ai ở đấy. "VC, VC," họ nói luôn miệng.
Khoảng thời gian đó, các trực thăng đã tới mục tiêu. Tôi điều chỉnh tác xạ. Chiếc đầu tiên nổ súng tấn công từ nam lên bắc. Viên phi công làm tốt công tác vì ko viên nào rơi ngoài mục tiêu. Vườn chuối bị bắn nát (chewed to bits). Đột nhiên, điều khủng khiếp xảy ra. Dân làng chạy khỏi vườn chuối vừa kêu khóc.
"Có dân làng," tôi thét lên. Tôi chụp com-bi-nê và hét vào máy "ngừng bắn".
Chiếc trực thăng ngừng bắn lập tức và quẹo trái (banked left). Dân làng hoảng sợ vừa kêu la vừa chạy khỏi vườn chuối. Khi tới gần họ, tôi thấy một người đàn ông ẳm một em trai. Em này hình như (appear) đã chết. Tay buông xuôi, đầu nghẹo ra sau (tilted back). Em bị trúng bốn nơi. Hai ở tay và hai ở ngực. Máu me khắp người (what a bloody mess). Tôi lập tức gọi chiếc võ trang, chiếc đã bắn em, đưa em đi bịnh viện. Máy bay đáp xuống và chúng tôi đưa em lên. Khi máy bay cất cánh, nước mắt tôi dâng trào.
Tôi nổi giận với chính tôi, với thế giới, với cuộc chiến này. Tôi tháo nón và ném ra xa. Tôi đứng đó, như một pho tượng, hai tay buông xuôi. Tôi chạy nhanh về làng, nước mắt tuôn trào. Tôi vừa giết một đứa bé vô tội. Tất cả giận dữ và thất vọng và đau khổ của 5 (năm) tháng phục vụ tại Việt Nam đã khiến tôi khóc nức nở (pour out in sobs). Tôi chạy đến quảng trường của làng và tới phía sau nhà thờ, dựa súng vào tường để nghỉ một lát. Ngồi trên ghế dài (pew) cuối nhà thờ, tôi khóc nức nở. "Tôi phải làm gì bây giờ, thưa Chúa?," tôi tự hỏi. "Rời bỏ nơi đây? Về nhà? Tiếp tục chiến đấu?"
Người tôi tan nát (I was so torn). Tôi đã từng học để trở thành mục sư (study for the ministry). Nay một đứa bé chết bởi tay tôi. Tôi phải làm gì? Rời bỏ quân đội và trở lại chũng viện (go back to Seminary)? Tôi cầu xin Chúa tha thứ tôi và chấm dứt chiến tranh, chấm dứt cuộc giết chóc bất tận này đối với gần như mọi người Việt Nam. Nhưng tôi lại nghĩ, tôi đã ko can đảm rời bỏ quân đội để trở về chũng viện. Tôi đã hứa với Chúa nhiều lần trong quá khứ. Lần này tôi chỉ nói, "Ngài hảy làm những gì ngài muốn."
Sau vài phút, nước mắt đã cạn, tôi đi về phía sau của nhà thờ, lấy súng, và đi bộ tới tiểu đoàn. Tôi phải ở với họ.
3/ THIẾT GIÁP BỊ PHỤC KÍCH TRÊN LIÊN TỈNH LỘ 7
Ngày kế là một ngày nghỉ. Thật vui khi đi bộ quanh làng, nói chuyện với dân và xem cách họ sống. Tôi thật sự rất vui. Tôi thụ hưởng từng khoảnh khắc. Đây là một ngày xả hơi, quên mọi khủng khiếp của chiến tranh.
Ngày kế chúng tôi được lịnh di chuyển. Chúng tôi sẽ lục soát khu vực phía đông Bình Giả, hướng mà địch rút. Đây là một hành quân phối hợp với xe tăng và thiết vận xa của đại úy White yễm trợ chúng tôi. Buổi sáng đó trời tốt. Chúng tôi bị bắn sẻ một hai phát khi di chuyển về phía đông làng, nhưng ko có gì đáng lo. Địch ko tấn công xe tăng và thiết vận xa giữa đồng trống.
Lát sau, thiết giáp cho biết đã bắt một VC địa phương. Tôi ko thể hiểu được vì ko có làng nào quanh Bình Giả và người dân ở đây đều thân thiện với chúng tôi. Nhưng họ lại nói đã bắt một VC. Vào lúc đó, đại úy White có lịnh rời Bình Giả và trở lại Vũng Tàu. Thật là lạ, vì cuộc hành quân chưa kết thúc. Chúng tôi di chuyển về làng và được lịnh ở lại. Đơn vị của đại úy White phải đi về phía tây của làng và dùng liên tỉnh lộ 7 để xuôi nam về Vũng Tàu. (Liên tỉnh lộ này, đã được sư đoàn 18 bộ binh dùng để rút lui khỏi Xuân Lộc tháng 4/1975 -- người dịch). Chúng tôi vẩy tay chào đoàn xe thiết giáp.
Khoảng nửa giờ sau, ở khoảng cách rất xa, chúng tôi nghe những tiếng nổ. Tôi và đại úy nhìn nhau. Có chạm súng. Chúng tôi quá xa họ để nghe tiếng súng nhỏ, nhưng chúng tôi có thể nghe tiếng súng của đại liên 50 đặt trên thiết vận xa và xe tăng, và những tiếng nổ của súng 57 ly không giật của VC. Như vậy là thiết giáp bị phục kích. Chúng tôi bất lực nhìn nhau. Nếu chúng tôi di chuyển bộ, xuyên khu rừng này, tới địa điểm phục kích, thì mọi thứ đã xong. Tôi cảm thấy thất vọng. Chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì, như đi tới đó để giúp đại úy White. Tôi muốn làm điều đó, nhưng đồng thời tôi cũng ko muốn đi vì biết địch đã giăng bẫy nếu chúng tôi tới. Tôi vừa thất vọng và hổ thẹn. Nhưng tôi ko có quyền quyết định, mà thuộc phía BĐQ. Họ ko di chuyển. Có lẽ họ được lịnh ở lại giữ làng dù cho tình hình diển thế nào.
Sau đó tôi có tin đại úy White đã thoát cuộc phục kích. Lúc đó ông ở giữa đoàn xe và có thể bị giết, nhưng ông đã đạp tay ga (jam the accerator) của xe jeep, và vượt qua những xe tăng và thiết vận xa bị cháy và tới nơi an toàn. Không trúng phát đạn nào. Một số xe tank và thiết vận xa cũng thoát cuộc phục kích. Sau đó chúng tôi biết rằng SÁU xe thiết giáp bị tiêu diệt, bảy người chết, 20 bị thương, và 14 mất tích, trong đó có một trung sĩ Mỹ. Cuộc phục kích xảy ra và kết thúc nhanh chóng. Sau đó đại úy gom lại những kẻ sống sót và đi về phía Vũng Tàu. Máy bay của không quân VNCH đến ném bom và bắn phá, nhưng quá trể.
Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn ra lịnh TĐ 33 BĐQ ở lại Bình Giả vài ngày.