Trận Đánh Bù Bông - Kiến Đức
https://www.facebook.com/101288388133591/posts/199263448336084/
" Giữa tháng 10 năm 1973, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền tổ chức hội nghị nghiên cứu quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 21… thì điện của Bộ chỉ huy Miền chuyển đến, lệnh tôi lên gấp mặt trận Bù Bông - Kiến Đức.
…Yếu khu quân sự Bù Bông giáp biên giới Campuchia địch đang tăng cường hoạt động, thường xuyên đánh phá ác liệt các xã xung quanh, chúng coi đây là khu vực nằm ngoài Hiệp định Paris. Ngoài việc dùng bộ binh tiến công, đột kích vào hành lang vận tải của ta, chúng còn nống sang tận O-răng thuộc đất bạn Campuchia; bắn pháo khống chế suốt ngày đêm gây trở ngại không những cho công việc vận chuyển của ta mà còn ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng và khai thông đoạn hành lang quan trọng này.
Rõ ràng đây là hành động vừa phá hoại Hiệp định Paris vừa chặn đường hành lang, gây cản trở một trong những nội dưng rất quan trọng của kế hoạch hoạt động mùa khô 1973-1974 của B2.
Triển khai công tác bảo vệ, củng cố và mở rộng các hành lang giao thông vận tải nối hậu phương lớn với miền Đông Nam Bộ qua đường dây 559 trong thời gian này là rất cần để B2 tiếp nhận người và hàng từ miền Bắc vào tạo lực đón thời cơ lớn.
Bộ cũng đang khẩn trương triển khai kế hoạch mở thông đường Trường Sơn, kể cả đường ống dẫn dầu vào tận Đông Nam Bộ, nhưng đến đoạn này thì bị bế tắc. Và bộ cũng vừa điện nhắc B2 phải làm sạch địa bàn này để con đường được khai thông. Vì nâng cao chất lượng hệ thống đường chiến lược phía tây và xây dựng cơ bản đường chiến lược phía đông dãy Trường Sơn được coi là nhiệm vụ trọng tâm số 1 của cả nước trong những năm này nhằm thực hiện Nghị quyết 21 về bảo đảm hậu cần cho hai năm 1973-1974.
Yếu khu Bù Bông nằm trên một quả đồi độc lập, có độ cao khoảng 5 - 600 mét với vóc dáng bề thế, được địch thiết kế theo kiểu cụm cứ điểm kiên cố. Đỉnh đồi có ba đại đội bảo an vừa làm nhiệm vụ phòng giữ, vừa như một vị trí tiền tiêu phát hiện ta từ xa. Quanh khu đồi địch bố trí một chiến đoàn bảo an, một tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn tăng ở đông khu vực Bù Bông, sẵn sàng ứng chiến nếu căn cứ này bị đối phương tiến công. Quanh đồi có các lớp kẽm gai và bãi mìn dày đặc.
Có thể nói trong suốt chặng đường chiến đấu cho đến lúc này tôi chưa gặp một khu đồi nào lý tưởng cho bên phòng ngự như khu vực Bù Bông. Đã có biết bao đồng chí của ta ngã xuống nơi đây, trên đường vào Nam ra Bắc, trước khi con đường nối thông, ở thời mới khai sơn phá thạch, khi danh từ đúng cả nghĩa bóng và nghĩa đen: Đường mòn Hồ Chí Minh. Và đã có bao nhiêu xe, pháo bị tắc nghẽn, nằm chờ, bị phá huỷ khi qua đây con đường được mở rộng - với cái từ đường Trường Sơn- Và giờ đây, ở khu vực Bù Bông này, địch đang ngạo mạn có thể phá được ý đồ tạo thế của ta nếu dám vượt qua mắt "cú vọ Bù Bông".
Tình hình đặt ra là muốn tiến công Bù Bông từ hướng bắc thì bộ binh và xe tăng ta phải qua đường 14 cũ và phải giải quyết sáu đồn bốt bảo an mới có đường vào. Ngược lại nếu đánh từ phía nam, gặp phải dốc gần như thẳng đứng, chỉ có đặc công mới tiếp cận được! Cả hai cách đều không ổn. Nếu chỉ đánh bằng lực lượng đặc công, có thể diệt nhiều địch, nhưng không giải phóng được đất đai, một yêu cầu không thể thiếu, để có địa bàn mở hành lang; nhưng nếu dùng binh chủng hợp thành mà không có tính toán cụ thể, địch sẽ dựa vào hệ thống công sự chống trả quyết liệt, rất có thể nhiệm vụ không hoàn thành mà còn bị địch sát thương, gây tổn thất nặng cho ta.
Tôi triệu tập các đồng chí chỉ huy trưởng và bí thư đảng uỷ các đơn vị tham gia chiến đấu đến trao đổi bàn cách đánh. Tất cả các đơn vị có mặt ở đây đều hoạt động độc lập, không quen biết nhau, lại đến một chiến trường không quen thuộc, thời tiết khắc nghiệt, nhiều ruồi vàng, bọ chó, ngày nắng nóng, đêm về khuya lại lạnh như thời tiết trên mặt trăng. Những đợt gió núi kéo dài lúc nào cũng ào ào như trời đổ giông, nhất là về đêm gây khó ngủ. Riêng có Trung đoàn 271 tiền thân là Trung đoàn 82 thời kháng chiến chín năm hoạt động ở Cực Nam Trung Bộ, sau Hiệp định Giơ-ne- vơ tập kết ra Bắc tổ chức thành lữ đoàn rồi chuyển thành Trung đoàn 271, được điều về đóng quân ở Nghi Lộc, Diễn Châu (Nghệ An) làm nhiệm vụ bảo vệ Cầu Bùng, đảo Ngư, Hòn Mát. Đã tham gia chiến đấu ở chiến trường C (Chiến trường Lào), về làm thế đội hai trong chiến dịch đường 9 - Nam Lào. Đầu 1971 được lệnh vào B2 chiến đấu.
Mãi hơn ba tháng sau trung đoàn mới tới Lộc Ninh, tham gia chiến đấu ở Xa Mát, Thiện Ngôn, rồi xuống Long An. Tháng 1 năm 1973, từ Long An, trung đoàn nhận nhiệm vụ hành quân về đứng chân ở khu vực Bù Bông, được bổ sung 300 sinh viên Trường đại học Bách khoa Hà Nội, thành trung đoàn hoàn chỉnh. Là một trung đoàn có bề dày lịch sử và lập nhiều thành tích trong chiến đấu, nhưng đến Bù Bông cũng như đến chiến trường xa lạ, vì lần đầu được điều về đây làm nhiệm vụ.
Cuối cùng chúng tôi có chung một quyết tâm:
Bước một, đánh chiếm căn cứ Bù Bông với kế hoạch trung đoàn Đặc công 429 làm nhiệm vụ mở cửa đón tăng, bộ binh vào; Trung đoàn 271 cử một tiểu đoàn bí mật bao vây các đồn bót nhỏ, bảo vệ đường, không cho địch gài mìn; Trung đoàn 271 (thiếu) cùng tiểu đoàn tăng đánh chiếm Bù Bông sau khi đặc công đã mở cửa.
Bước hai, tiêu diệt chiến đoàn bảo an sau khi hoàn thành đánh chiếm Bù Bông. Đây là thời cơ tốt nhất, vì mất khu vực cao điểm Bù Bông, thế phòng thủ của địch bị vỡ một mảng quan trọng, chiến đoàn bảo an địch càng hoang mang, ta dùng đội hình binh chủng hợp thành hạn chế, diệt địch; Trung đoàn 205 và lực lượng các đơn vị còn lại làm nhiệm vụ chặn viện từ Kiến Đức nống ra phản kích.
Cho đến 16 giờ ngày 3 tháng 11, mọi công việc chuẩn bị chiến đấu đã được hoàn tất thì cũng là lúc chuông điện thoại đổ hồi, các sĩ quan tác chiến tất bật nghe điện từ các đơn vị gọi về báo cáo, tất cả đã sẵn sàng tiến vào vị trí xuất phát tiến công, thì cũng là lúc sự cố ngoài dự kiến lại đến, có liên quan đến thành bại của chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược này. Đó là tin từ đài kỹ thuật của trinh sát chiến dịch báo cáo: một chiến sĩ thông tin thuộc trung đoàn 271 trên đường đi dải dây điện thoại chẳng may bị địch bắt.
Mọi diễn biến diễn ra sau đó, đúng như dự đoán, được người chiến sĩ thông tin tìm cách trốn thoát trở về nói lại: "Địch nhiều lần gọi lên thẩm vấn, nhưng lần nào em cũng trả lời là lính giữ chốt của hành lang, đi bám đồn để bảo đảm an toàn cho các đoàn vận tải". Ứng xử thông minh đúng lúc của chiến sĩ ta, khai mà như không khai, địch đành chịu không moi được tin tức gì có liên quan đến bí mật chiến dịch.
Xin được kể tiếp chuyện đang kể.
…Ba giờ đêm các đơn vị đều vào tới vị trí xuất phát tiến công.
Một trận mưa bất thần ập đến hoà với gió núi ào ào. Mồ hôi quện vào nước mưa, ai nấy đều ướt lạnh. Đường trơn, hành trang trên người như nặng thêm. Nhưng cái khó đó lại tạo thuận lợi cho yếu tố bất ngờ, địch càng chủ quan.
5 giờ - là giờ G quy định, tiếng nổ bộc phá mở cửa là hiệu lệnh tiến công của trận đánh bắt đầu. 10 trong số 20 xe tăng dẫn bộ binh tiến thẳng vào Bù Bông. Dọc đường tiến bị vướng mìn, ta phải dừng lại để khắc phục. Địch biết, chưa kịp đối phó thì quân ta đã vượt qua cửa mở. 5 giờ 40 phút trời còn mờ sương ta đã hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch bước một.
Mất Bù Bông là một bất ngờ lớn đối với địch. Tôi ra lệnh chuyển sang bước hai, dùng đội hình binh chủng hợp thành phát triển tiến công, thực hành bao vây chia cắt tiêu diệt toàn bộ quân địch phòng thủ ở phía đông Bù Bông.
Ngày 5-11-1973 ta tiêu diệt, làm tan rã và bắt sống hoàn toàn chiến đoàn bảo an, thu nhiều vũ khí, trong đó có ba khẩu pháo 105 ly.
Ta làm chủ toàn bộ căn cứ Bù Bông.
Trong phương án tác chiến có dự kiến đánh địch phản kích nhưng không đoán được địch nống ra là lực lượng nào, từ đâu tới, chỉ nêu dự kiến từ Đức Lập sang hoặc từ Đắc Nông, Kiến Đức lên, chủ yếu đề phòng hướng Kiến Đức.
Hai ngày sau, 6-11-1973, địch đưa gần như toàn bộ sư đoàn 22 (hai trung đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng và thiết giáp) đang hành quân lấn chiếm vùng ven biển Ninh Thuận, Bình Thuận lên phản kích quyết liệt hòng chiếm lại Bù Bông.
Theo kế hoạch định trước, tôi lệnh cho trung đoàn đặc công 429 để lại một tiểu đoàn mạnh giữ Bù Bông, lực lượng còn lại chuyển sang đánh địch phản kích từ hướng Kiến Đức lên.
…Đêm 8-11-1973 tôi thao thức vì niềm vui chiến thắng đạt được nhanh, gọn và giòn giã, nhưng cũng còn một lẽ nữạ làm luồng suy nghĩ mới bật dậy. Cái thế ở đây cho phép ta tiến xa hơn nữa, chọc thẳng xuống Kiến Đức tới Đắc Nông – Gia Nghĩa, tạo một thế mới ở nam Tây Nguyên, từ đây nối xuống Bù Đăng - Phước Long. Từ Bù Bông xuống Kiến Đức chỉ có 30 ki-lô-mét. Ngoài đường tỉnh lộ, ta tìm được đường be (5), tuy khó đi nhưng giữ được bí mật khi chuyển quân, kéo pháo, tiến công Kiến Đức tạo thêm thế mới. Đã đánh là chắc ăn nhưng cần phải có thêm lực lượng.
Ý nghĩa thắng lợi mà chúng ta đã giành được và nhiệm vụ tiếp sau của chúng ta chính là đây: tiếp tục tạo điều kiện cho kế hoạch của Bộ về xây dựng tuyến đường chiến lược mới được tiến hành một cách thuận lợi.
Tiếp đến tôi trình bày kế hoạch tiến công Kiến Đức để các đơn vị tham gia. Lực lượng hiện có tuy mỏng nhưng ta vẫn không thay đổi quyết tâm, nhân lúc địch đang hoang mang đến cực độ Chiến thắng Bù Bông, như trận điểm "huyệt" khu vực, làm rung chuyển cả một vùng rộng lớn từ Đức Lập qua Kiến Đức, Đắc Nông xưa nay chưa bị đánh bao giờ, nay cái vỏ cứng vòng ngoài bị vỡ, thì ta đánh tiếp lúc này là chắc ăn!
Nhưng đánh bằng cách nào? Tôi vừa nêu câu hỏi, chưa kịp trình bày dự kiến của mình thì các đồng chí chỉ huy và lãnh đạo các đơn vị đã phát biểu. (Cần nói thêm là sư đoàn 22, gồm hai trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn tăng - thiết giáp sau khi phải bỏ cuộc tái chiếm Bù Bông co về nằm rải trên đường Kiến Đức- Bù Bông để chặn ta). Có ý kiến ta cứ dùng đội hình binh chủng hợp thành đánh thốc xuống, nhưng nhiều người không đồng tình, vì đánh kiểu chọi trâu này trong khi ta không ưu thế hơn địch sẽ không ổn. Ý kiến thứ hai, trở thành quyết tâm chung sau khi có thêm một số anh em bổ sung các chi tiết. Phải trở lại cách đánh Bù Bông theo trình tự đặc công - bộ binh - xe tăng, nhưng phải phân công, phân nhiệm và hiệp đồng thật cụ thể, ăn ý. Chúng tôi vẫn để một tiểu đoàn đặc công chốt giữ Bù Bông, hai tiểu đoàn đặc công còn lại đi theo hai hướng làm nhiệm vụ mở đường, sau đó là bộ binh. Xe tăng vẫn làm nhiệm vụ dẫn bộ binh tiến công nhưng không theo đường chính mà tập kết ở tây Bù Bông tắt theo đường be.
Giờ G vào lúc 4 giờ sáng, xe tăng vận động vào lúc máy bay địch chưa có điều kiện hoạt động.
Ba giờ sáng điện của đặc công báo cáo về sở chỉ huy: Đã mở được hai hướng, nhưng chỉ vào được ở hướng thứ yếu.
- Không thể chậm! – Tôi lệnh - Cũng được, nhưng khi vào phải có lực lượng giữ cửa mở, hướng dẫn tăng và bộ binh.
Hiệu lệnh tiến công phát ra đúng giờ G quy định, vào lúc màn sương còn trải dày, thật là lý tưởng. Tăng dẫn bộ binh đồng loạt tiến công vượt qua cửa mở thuận lợi đánh thẳng vào các mục tiêu được phân công. Một tiếng sau ta làm chủ chi khu Kiến Đức, đường Kiến Đức - Bù Bông bị cắt, sư đoàn 22 lực lượng ngăn chặn bị cô lập. Một lực lượng nhỏ của ta nổ súng tiến công đánh tạt sườn, chúng tán loạn bỏ chạy. Lúc này chỉ cần một trung đoàn thiếu thọc vào Đắc Nông (thị xã Gia Nghĩa) là ta có thể giải phóng thị xã này nhưng không có lực lượng.
Thật là tiếc!
Đúng là khi thời cơ đã có thì lực yếu hoá mạnh.
Các đơn vị tham gia chiến đấu trên đà thắng lợi, đều muốn tiến sâu và đánh toả sang hai bên, muốn từ đây theo đường 14 thông xuống Bù Đăng.
Một ngày sau khi làm chủ Kiến Đức, điện của Bộ chỉ huy Miền lệnh cho chúng tôi bàn giao cho tiểu đoàn địa phương bảo vệ khu vực mới giải phóng, các đơn vị tham gia trận đánh đi nhận nhiệm vụ mới.
Trong vòng mười ngày kể từ ngày 5-11-1973, với lực lượng vừa phải, ta tổ chức tiến công tiêu diệt yếu khu Bù Bông, chi khu quân sự Kiến Đức, áp sát thị xã Gia Nghĩa, uy hiếp chi khu Bù Đăng (Phước Long), giải phóng một vùng đất đai rộng lớn từ ngã ba Đắc Song (Quảng Đức) nối liền với Bù Gia Mập, Bù Đốp, Lộc Ninh (nơi có căn cứ Bộ chỉ huy quân Giải phóng miền). Ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 22 nguỵ, diệt và bắt sống 1.500 tên địch, thu 300 súng các loại, có 3 khẩu pháo 105 ly và 20 xe bọc thép. Đây là đợt hoạt động thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, đánh vào một khu vực hiểm yếu của địch, làm lung lay tuyến phòng ngự nam Tây Nguyên, có giá trị tạo thế tạo lực rất quan trọng trong thời điểm lúc bấy giờ. Vùng giải phóng Đông Nam Bộ, đặc biệt là khu vực đầu mối vận tải, nối giữa tuyến chiến lược của đoàn 559 với tuyến chiến dịch các đoàn hậu cần Miền được mở rộng, mở ra thời kỳ mới - đường ta mở trên đất ta.
Còn lại chỉ là cách đánh trên hướng chủ yếu như thế nào để đảm bảo thắng lợi nhanh gọn là rất quan trọng. Bởi lúc này đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao vẫn kết hợp, ta vẫn tiếp tục đấu tranh đòi Hiệp định Paris được tôn trọng, mặc dầu địch đã trắng trợn phá hoại Hiệp định ngày càng nghiêm trọng và có hệ thống. Vì vậy thắng mà kéo dài thì vấn đề sẽ trở nên phức tạp. Rất có thể việc làm chính nghĩa trừng trị kẻ địch vi phạn Hiệp định lại bị công luận ngộ nhận do những thủ đoạn xảo quyệt kẻ địch gây l)ên, đẩy ta vào tình thế bất lợi trong đấu tranh ngoại giao, tranh thủ dư luận.
Tư tưởng chập chững, ảo tưởng hoà bình của cán bộ chìến sĩ đã được giải quyết sau khi học tập Nghị quyết 21. Mọi người đã thấy rõ con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực "chừng nào chính quyền Sài Gòn còn tiếp tục những hành động chiến tranh thì các lực lượng vũ trang cần phải kiên quyết đánh trả bất cứ ở đâu" (Nhật lệnh của Bộ chỉ huy Miền ngày 15-10-1973).
Từ sự suy tính cân nhắc trên, Miền quyết định cách đánh là dùng ưu thế lực lượng tiến hành đồng loạt tiến công bằng binh chủng hợp thành, có pháo bắn chuẩn bị, dùng bộc phá liên kết ĐH-10 mở cửa, tiếp theo xe tăng dẫn bộ binh tiến công các cụm mục tiêu trong trung tâm cụm phòng ngự của địch.
Đêm 15 rạng 16-5-1974 các mũi tiến công của Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 đánh chiếm các đồn Rạch Bắp, Ri-nét, Kiến Điền và ấp chiến lược Kiến Điền. Đến chiều 17 tháng 5 ta hoàn toàn làm chủ đoạn đường Bảy từ Rạch Bắp đến Bến Cát dài 10 ki-lô-mét, giải phóng một khu vực rộng khoảng 80 ki-lô-mét vuông.
Theo kế hoạch chung, ở mũi phối hợp đông đường 13, tại hướng Tân Uyên, Sư đoàn 7 nổ súng tiến công căn cứ Cầu Sông, Phước Hoà trên lộ 16, bức rút một số đồn bót địch lấn chiếm trái phép. Mũi khác, một đơn vị của Sư đoàn 7 đánh chiếm cầu Nha Bích - một căn cứ của địch nằm trong vùng giải phóng của ta, giải phóng đoạn đường 14 Chơn Thành - Đồng Xoài, tiến ra bờ sông Đồng Nai, hỗ trợ đắc lực cho Sư đoàn 9 hoàn thành nhiệm vụ ở đường Bảy Ngang.
Trung đoàn 16 trực thuộc Miền phối hợp với tiểu đoàn Quyết thắng Quân khu Sài Gòn - Gia Định và du kích huyện Củ Chi đánh trả quyết liệt sư đoàn 25, giữ vững vùng giảì phóng An Nhơn Tây, gây khó khăn cho trong âm mưu đánh chiếm khu vực này để nối liền Bến Cát theo đường Bảy Ngang thành một tuyến giữa (có lùi một ít so với cũ), hoàn chỉnh thành một tuyến phòng ngự liên tiếp (trước đứt quãng ở đoạn từ tây-nam An Nhơn Tây đến tây-bắc Bến Cát, nay vẫn bị đứt quãng vì đường Bảy Ngang sư đoàn 9 đã đánh chiếm).
Đánh chiếm đã khó, chốt giữ càng khó hơn. Việc một lúc ta nhổ ba cứ điểm Rạch Bắp, Kiến Điền, Ri-nét, trên đường Bảy Ngang, làm phá sản một trong âm mưu cơ bản của địch là ổn định và mở rộng vùng "
No comments:
Post a Comment