Tuesday, May 16, 2023

 PHỎNG VẤN THỰC HIỆN TẠI BỊNH VIỆN 71 DÃ CHIẾN, PLEIKU, VIỆT NAM NGÀY 10-11/12/1969.

Nguồn: https://www.pownetwork.org/bios/s/s170.htm

Người được phỏng vấn là trung sĩ Vernon Shepard, trong bài này viết tắt là y, là quan sát viên pháo binh, thuộc chi đội B của chi đoàn 7/17 Thiết kỵ Mỹ, mất tích ngày 2/11/69 và tìm về đơn vị ngày 10/12/69.

Bản đồ số 6533 IV; ngày 2/11/69 y và Grega (phi công) có phi vụ quan sát cho chi đội kể trên gần trại LLĐB Bu Brang, Nam VN trên một máy bay quan sát OH-6. Họ thuộc một toán gồm một chiếc OH-6 khác (với chuẩn úy (WO) Nowicki là phi công và trung úy Curran) và 2 trực thăng võ trang Cobra. Khoảng 1600 g ở 5 dặm đông của Bu Prang, y thoáng thấy 3 hố chiến đấu cá nhân dọc QL14. Đạn AK-47 bắn lên máy bay. Y bị thương ở chân, hệ thống truyền tin của máy bay bị hư hỏng và nhớt bắt đầu xịt khắp máy bay. Ngay khi chiếc OH-6 này trúng đạn, nó bay về phía đông để nhường chỗ cho Cobra. Ở khoảng 5 dặm phía tây của nơi máy bay trúng đạn, một chiếc OH-6 khác ra dấu cho chiếc này nên đáp xuống. Máy bay đáp xuống một đồng trống gần QL14. Chuẩn úy Grega và y rời máy bay và chạy về chiếc OH-6 kia. Ngay khi máy bay này cất cánh, nó đã trúng đạn phòng không. Máy bay bị xé toạt, rơi xuống đất và bốc cháy.

Chuẩn úy Nowicki, trung úy Curran và y thoát khỏi máy bay nhưng chuẩn úy Grega bị mắc kẹt trong máy bay đang cháy. Riêng y bị một vết thương ở phần thịt của mông phải do hỏa lực phòng không của địch. Cả ba người chạy xuống một sườn đồi tới khu có cỏ tranh cao (high weed). Một Cobra nhào xuống, bắn vào khu vực này và có vẻ chỉ định điểm bốc. Vào lúc này, trời đã sụp tối, trung úy Curran bò đi chỗ khác. Y nghe một máy bay khác trúng đạn và rơi. Kế đó y thấy một ánh sáng nhấp nháy, đó là trung úy Curran, và một chiếc UH-1B đến và bốc được Curran. Chiếc này đã bị bắn và buộc phải rời trước khi y và Nowicki tới. Vào lúc này, y và Nowicki ở khoảng 100 m tây nam của chỗ máy bay rơi, khoảng tọa độ YU793655. Y và Nowicki ở đây suốt đêm.

Sáng ngày kế 3/11/69, y và Nowicki đã dậy sớm, bò khoảng 20 m và thấy 4 lính csbv võ trang AK-47 đang khám xét (go through) các máy bay rơi. Suốt ngày hôm đó họ đã thấy những trực thăng và ra dấu cầu cứu nhưng hình như ko ai thấy họ. Vào một lúc, Nowicki đã bò ra nơi đất trống và ném một lựu đạn lân tinh trắng nhưng ko được máy bay thấy. Suốt ngày hôm đó pháo binh và không kích ở cách họ 100 m. Nhiều tiếng nổ của súng nhỏ ở phía bắc của họ. Y cũng thấy những toán lính nhỏ quân csbv đi lại ở khoảng 200 m nam của vị trí của họ. Y và Nowicki tiếp tục trốn trong bìa rừng (tree line), ko lương thực và nước uống. Nowicki có một khẩu Car-15, một băng đạn và một dao đi rừng; y có một dao nhíp. Để có nước, y và Nowicki liếm găng tay, những lá cây thấm nước và cắt những dây leo.

Ngày 4/11/69 vô sự. Trong đêm 4/11, y và Nowicki đã bò 300 m xuyên qua một cánh đồng và leo lên một sườn dốc (incline) để tới sườn bên kia của một ngọn đồi - lúc này họ khoảng 500 m phía tây của địa điểm máy bay rơi (khoảng tọa độ YU791656). Trong khi bò ngang cánh đồng, họ đã bò ngang dây điện thoại. Y cho biết đã nhiều lần thấy dây điện thoại nhưng chưa bao giờ thấy máy truyền tin hay an-ten. 

Ngày 5/11, họ ở khu vực này suốt ngày. Y cũng nghe tiếng Việt suốt ngày. Vào lúc này họ cũng khám phá một dòng suối ở cách họ 10-20 m. Nowicki nói đã nói một thân người bị treo trên cây gần nơi máy bay rơi. Chiếc Cobra đang nằm nghiêng và mủi bị gẫy. Địch đã lấy trang bị từ chiếc Cobra. Các thiết bị điện tử trên chiếc trực thăng này đều bị bắn bể và hai chiếc OH-6 bị hư hại do lửa, lựu đạn lân tinh và miểng.

6/11 - họ đi về phía tây và nam. Lúc 14 g, họ tới một cánh đồng khác; lúc đó y đi sau Nowicki 20 feet thì súng nhỏ nổ. Từ đó y ko thấy Nowicki. Ba lính CSBV xuất hiện phía sau và bắt y, đưa tới bìa rừng cách đó 10 m. Y thấy 10 bunker ở bìa rừng và đều có nắp che và lổ ra vào rộng 2 feet x 2 feet, ở khoảng tọa độ YU788657 tới YU788655. Có khoảng một đại đội địch trong khu vực. Các bunker rộng 3 x 4 feet và cách nhau 15m. Lính CSBV cắt cỏ để làm giường cho y, cho y cơm vắt và nửa điếu thuốc. Khi di chuyển, có bộ đội mang AK đi sau. Vào lúc này y thấy Nowicki cũng được áp giải tới. Y thấy có 9 lính địch, một tên mang M16, còn lại là AK, đội nón vải. Nowicki bị trói vào cây dù bị phỏng ở hông trái, vết phỏng rộng 4 x 8 in. Y chỉ vào vết thương và y tá đến. Y đứng dậy, và lính địch lấy ví của y và bỏ đi với 2 lính khác. Người y tá chăm sóc Nowicki ko mang vũ khí và mang túi vải cứu thương. Tên này quấn vết thương với vải rộng 3 tấc. Lúc này hai người được phép nói chuyện. Họ đều bị trói thúc ké với dây điện thoại màu xanh dương. Họ bị giải đi bởi 5 bộ đội, 2 đi trước, kế đó là y, kế đó một bộ đội, kế đó là Nowicki, sau đó là 2 bộ đội. Dọc đường mòn là các bunker có người ở và họ di chuyển theo đường mòn suốt ngày và vài giờ mỗi đêm. Khu vực này nhiều cây và và các bunker ngày càng lớn và khoảng cách giữa bunker ngày càng xa. Y thấy có 6 bunker trong khu vực này. Đường mòn rộng 1 tới 2 feet, trên có cây che. Mỗi đêm họ di chuyển khoảng 2g và ko được nói chuyện và người đi đầu có đèn pin. Khoảng 15 phút, y có thể ngừng vì xin chút ít nước uống. Lúc 21g, họ tới 1 bunker nhỏ rộng 5 feet x 3 feet, có nắp che, được phép cởi giày và cả hai được trói vào khúc cây của bunker. Bộ đội ở bên ngoài, nhưng nấu cơm bên trong bunker. Cả 2 được cho ăn và được phép nói chuyện. 





























No comments:

Post a Comment