Monday, June 5, 2023

 Việt Cộng Ba Lần Tấn Công Phan Thiết Tết Mậu Thân - 68

26/01/2006

- Viết tặng Đại Uý Huỳnh Văn Quý- Đại Uý Mai Xuân Cúc, và Ốc Hương Võ Thị Điềm (Na Uy)

Dân tộc Việt Nam có nền văn hiến lâu đời, tôn trọng công ơn dựng nước của tiền nhân và sự cưu mang dưỡng dục của ông bà cha mẹ, nên mỗi dịp Tết về, đều coi đó là một cơ hội trang trọng để phụng hiếu trả ơn sinh thành.

Trong dòng sử Việt, các vị Vua Chúa cũng đều coi trọng ngày Tết, nên thường hưu chiến trong lúc chiến tranh, để cả hai bên vui xuân. Việt Nam Cộng Hòa cũng vậy, cứ đến Tết Nguyên Đán, Dương Lịch hay các ngày lễ lớn đều hưu chiến và trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng cũng thỏa thuận ý đẹp trên. Tại Bình Thuận, dù có lệnh cấm trại nhưng quân nhân các cấp vẫn dù về vui Tết với gia đình, đây là một yếu tố tâm lý không làm sao cấm được, ngoại trừ những người lính ở thật xa không có phương tiện.

Hơn nữa trong thâm tâm mọi người, từ cấp lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Cộng Hòa như Tổng Thống Thiệu (lúc đó về ăn Tết ở quê vợ tại Mỹ Tho), cho tới lính, dân đều tưởng cộng sản miền Bắc cũng có trái tim và linh hồn Việt Nam, biết trọng chữ tín và biết thương đồng bào. Nhưng hỡi ơi, tất cả đều trái ngược, Bắc Bộ Phủ đã nuốt lời hứa đơn phương xé bỏ thỏa hiệp, lợi dụng tình hình hưu chiến, cán binh cộng sản đã bất ngờ đồng loạt tấn công các thành phố và thị xả toàn miền Nam vào ngay đêm giao thừa, khi khói nhang còn đang nghi ngút trên bàn thờ tổ tiên của mọi nhà, mang chết chóc tang thương đến cho đồng bào. Trong Tết Mậu Thân, Trung Tá Nguyễn khắc Tuân, nguyên Chánh Sở của Tổng Cục Quân Huấn QL Việt Nam Cộng Hòa, khi về làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận, đã có dịp chứng kiến cảnh Thiếu Tá Phó Nội An Trần văn Chà áp dụng kỷ luật nặng đối với các quân nhân dù (trốn) về nhà ăn Tết tại ngã ba Sông Mao Chợ Lầu, Phan Rí, trong một chuyến công tác. Nên dù là cấp chỉ huy lớn nhất tại tỉnh, ông cũng bất nhẫn thông cảm hoàn cảnh khổ cực của lính, biết họ nghĩ rằng chuyện tới đâu thì tới, sẵn sàng chịu phạt, chứ mấy ngày Tết phải có mặt ở gia đình.

Đó là tình trạng của lính chiến đấu tại các đơn vị. Còn ở Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh thì đa số quân nhân các cấp như đã quên súng đạn từ lâu và vũ khí được trang bị thì chỉ có súng trường Garant M1, Carbine M1 và tiểu liên Thompson.. quan trọng nhất là lúc Việt Cộng tấn công, hầu hết đang ở nhà vui Tết, vì ai cũng biết, Bình Thuận quê hương miền biển mặn suốt ba trăm năm qua, vốn là nơi làm chơi ăn thiệt và ăn chơi rất đậm, mỗi độ xuân về.

Trong lúc đó, lực lượng tấn công Phan Thiết là bộ đội Chính Quy từ ngoài Bắc Việt bổ sung vào, được chỉ huy do đích thân Tướng Nguyễn minh Châu, bí danh Năm Ngà vì có vợ là Huỳnh Thị Ngà, một nữ cán bộ VC sinh quán tại Hàm Tân-Bình Tuy. Châu hay Năm Chon, trước khi làm Tư lệnh Quân Khu 6 Việt Cộng tại miền Nam đã từng là Đại Đội Trưởng Đại Đội Việt Minh Hoàng Hoa Thám từ 1945-1947 đánh nhau với Pháp tại Bình Thuận. Do trên bộ đội được trang bị toàn vũ khí tối tân của Liên Xô, Trung Cộng, Đông Đức và khối xã nghĩa lúc đó như AK 47, B40, B41, K54, K59.. với nón cối, giầy bố, quần áo trận may bằng vải kaki Nam Định màu xanh lá cây nhưng tuổi rất trẻ từ 16 đến 20.

Phó Tỉnh Trưởng Phạm ngọc Cửu, lúc đó là Chánh Văn Phòng tỉnh, có mặt trong các trận đánh tại chỗ, cho biết Việt Cộng bị thất bại trong Tết Mậu Thân là do quá chủ quan nhưng trên hết không được dân chúng ủng hộ nên bị tiêu diệt. Trong ba lần tấn công Phan Thiết, Việt Cộng chỉ chiếm được một vài khu vực nhỏ nên không làm chủ được tình hình, vì vậy các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tiếp viện ra vào dễ dàng, khiến cho Việt Cộng bị vây bủa bốn bề không lối thoát.

Phạm đình Thừa, một nhân chứng trong thảm cảnh Mậu Thân, đã viết:"..nhưng một tình cờ oan khiên xuôi tôi về trong lúc Phan Thiết bốc lửa để tôi nhớ mãi một quê hương điêu tàn. Trong cuộc đời xuôi ngược, ta thường hờ hững với chính ta, với những gần gũi và thân thiết nhất, nhưng khi chứng kiến những dấu yêu và thân thiết đó bị tàn phá, ta mới thấy mất mát lớn lao sự quý báu của đời sống và kỷ niệm.

Tôi đã ở trong tâm trạng đó khi về quê mình vào ngày mùng 9 Tết Mậu Thân. Trở về trong nôn nóng tìm lại người thân, người mẹ già và người vợ trẻ với đứa con đầu lòng vừa sanh nhưng chỉ thấy đổ nát hoang tàn in hằn dấu vết trên khoảng tường vôi của căn nhà tuổi nhỏ. Nhà tôi bên này bờ nam sông Mường Mán, nhìn qua bên kia sông để thấy khu Phú Trinh trống rỗng chỉ còn trơ lại những thân dừa cháy đen. Về đêm nghe tiếng kể lể, oán than thấu trời của người dân biển, để thấy tận mắt những vết tích của kỷ niệm bị tàn phá, bạc đãi trong sự bất lực của chính mình.'.

Đêm 30 Tết, trong lúc mọi nhà đang chuẩn bị đón giao thừa rước mừng năm mới, mọi cõi lòng rộn rã trong niềm vui đoàn tụ, thì tiếng súng đã nổ rền trong tiếng pháo. Thoạt đầu người dân đô thị cứ tưởng đó là tiếng pháo mừng xuân nổ sớm, nhưng khi những phát cối đầu tiên làm rung động không gian hòa trong tiếng kêu gào thất thanh lâm nạn thì hỗn mang cũng bắt đầu.."

Trong trận giặc này, Phan Thiết đã liên tiếp chịu bốn đợt tấn công chỉ trong vòng hơn một tháng, ba lần đầu trong thị xã, còn lần cuối tại Phú Long. Trong bốn trận, chỉ có lần thứ hai dân chúng chịu nhiều thương vong và thiệt hại nhiều nhất.

A-VIỆT CỘNG TẤN CÔNG PHAN THIẾT:

1- Đợt đầu: Từ mồng một đến mồng 7 Tết.

Lúc 3 giờ 25 sáng mồng một rạng mồng hai Tết, Việt Cộng đồng loạt pháo kích vào sân bay trên Căng, Yếu Khu 44 gồm trại Đinh công Tráng (Yếu Khu Châu Thành) và trại Cao Thắng (Phân Đội 853 Yểm Trợ Quân Cụ), đối diện sân vận động Quang Trung, kế bệnh viện Phan Thiết. Đồng thời cũng pháo kích rồi tấn công đồn Trinh Tường nằm cuối đường Lương ngọc Quyến, cũng là Liên Tỉnh Lộ 8 đi Ma Lâm, cách Tòa Hành Chánh chừng 1 km về hướng bắc.

Lực lượng Việt Cộng là Tiểu Đoàn 482 chính quy từ miền Bắc vào, thuộc Liên Khu 6, đã hoạt động từ lâu trong tỉnh Bình Thuận. Việt Cộng lúc đó có chừng 300 bộ đội, tấn công hai mục tiêu, cánh một gồm C1, C2 và C vũ khí nặng, tấn công đồn Trinh Tường, lúc đó có khoảng 50 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa của các đơn vị Pháo Đội B/23, hậu cứ Trung Đoàn 44/SĐ23 BB và ĐĐ 954 ĐPQ/TK/BT. Sở dĩ quân số ít, vì đa số lính đã đi phép Tết hay dù về nhà. Nhưng Việt Cộng đánh và pháo cả đêm vẫn không chiếm được đồn, nên sáng chém vè, bỏ lại quanh đồn 20 xác chết.

Còn cánh hai của Việt Cộng là C3 xâm nhập ấp Phú Khánh, xã Phú Lâm, kế cận với Thị Xã về hướng nam.

Đại Uý Huỳnh Văn Quý, sinh quán Tuy Hòa, Thiện Giáo (Bình Thuận), Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 249/ĐPQ có ĐĐ283 Biệt lập của Đại Uý Lê Van Ba (từ LLDB về), cựu học sinh PBC/PT niên khóa 1955-1962, là các đơn vị đã tử thủ thị trấn Phú Long, tới chiều ngày 18-4-1975. Ông đã viết về trận Tết Mậu Thân 1968, cho biết lúc đó là thiếu uý Đại đội phó DĐ954 DPQ, còn Trung uý Nguyễn Tư (khóa 4 Đồng Đế) là DDT. Đơn vị đang dóng tại Đồn Mara tại Bầu Ốc trên QL1, cách Sông Lũy 5 cây số, nằm trong liên ranh hai quận Thiện Giáo-Hòa Đa và là một trong những tiền đồn nguy hiểm nhất của tỉnh Bình Thuận, vì nằm án ngữ trên phân nhánh đuờng mòn HCM, từ Lâm Đồng tới Mật khu Lê Hồng Phong, ra biển Hòn Rơm để nhận tiếp tế từ miền Bắc vào bằng ghe thuyền. Ngày 29 Tết , Đại đội được lệnh Tiểu Khu cho về dưỡng quân tại Đồn Trinh Tường.Nhưng trong lúc thu quân, Trung úy Tư vướng lưu đạn bị thương nặng, nên Thiếu úy Huỳnh Văn Quý được cử làm XLTV.DDT.

Tuy nói là dưỡng quân nhưng ĐĐ được giao nhiệm vụ bảo vệ cho Trung Đội Pháo Binh 105 của SĐ23BB biệt phái đóng tại đây. Vì ngày mai Tết, nên binh sĩ các cấp trong đơn vị đã dù về nhà gần hết, chỉ còn lại 13 người. Trưa 30 Tết, Lệnh từ TK cho biết VC có thể tấn công, nên chỉ thị phải phòng thủ đồn hết sức cẩn trong. Vì quân số còn lại quá ít, nên mỗi vọng gác chỉ có 3 người, kể cả Đại đội trưởng và hai truyền tin đại đội cũng lãnh một. Thế rồi đúng vào giờ đón giao thừa (12 giờ khuya),VC pháo kích dữ dội và tấn công bộ binh vào đồn. Vì khu vực phòng thủ quá rộng, nên để nghi binh, Thiếu Úy Quý cho lệnh bắn chéo từ vọng gác này sang vọng khác, khiến giặc ở ngoài tưởng lực lượng phòng thủ trong Đồn rất đông, nên phần nào mất tinh thần. Hơn nữa trước mặt đồn Trinh Tường là Liên tỉnh lộ 8 (Phan Thiết-Di Linh), rất trống trải, đối diện với khu phố dân sự bên kia đường, nên mỗi lầnVC chạy qua xưng phong đều bị bắn hạ.

Ngoài ra trong đồn còn có một pháo đài được xây từ thời Pháp thuộc, rất kiên cố, bên trong có đặt đại liên 30 và nhiều thùng lựu đạn. Trong đồn lại có một Pháo đội 105 ly, chỉ cần hạ càn súng, là bắn trực xạ vào địch. Nhờ vậy lực lượng bên trong đã giữ được đồn Trinh Trường cho tới tảng sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, thì Không quân tới yểm trợ bằng A37 và trực thăng võ trang, xạ kích vào các mục tiêu yêu cầu.

Sáng sớm mồng hai Tết, quân tiếp viện đồn Trinh Tường gồm hai cánh, một có các ĐĐ 208 và 954/ĐPQ do Thiếu Tá Trần văn Chà, Phó Tỉnh Trưởng Nội An, chỉ huy với quân số 150 người, theo hướng Cầu Sở Muối, tấn công phía sau đồn, nhưng bị hỏa lực của Việt Cộng với AK47, B40, 41..chặn lại tại Lò Ấp Vịt gần đồn, nên không tiến được

Còn cánh hai do Trung úy Lư tầy Tựu, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Bình Thuận chỉ huy Trung Đội Tình Báo tỉnh và các quân nhân Trung Tâm Tiếp Vận tỉnh tăng phái, tấn công theo đường Lương ngọc Quyến. Cuối cùng hai cánh quân phối họp được, lại có Commando car trợ chiến, nên giải vây cho đồn lúc 10 giờ sáng ngày mồng hai. Trong trận này, đại đội vũ khí nặng của Việt Cộng coi như bị tiêu diệt, mất toàn bộ vũ khí cá nhân và cộng đồng. C2 đến tiếp viện cũng bị tan tác, nên tràn về khu dân cư ở Chợ Gò trên đường Hải Thượng Lãn Ong và Trần cao Vân, thuộc ấp Phú Trinh. Cả ngày Không Quân đến tác xạ và bộ binh tấn công, nhưng không nhổ được chốt, vì Việt Cộng bám vào nhà dân để chống lại. Dân chúng trong vùng chiến nạn ùa nhau bồng bế, chạy qua phía bên kia cầu trốn giặc. Lúc 16 giờ chiều cùng ngày, Chiến Đoàn 506 thuộc SĐ 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ, tăng phái 2 Trung Đội đã chạm súng với C1/482 gần Bình Lâm, Việt Cộng bị thiệt hại thêm nhiều nhân mạng. Trong ngày mồng 3 Tết, lực lượng Địa Phương Quân tỉnh đã cố gắng nhổ các chốt của Việt Cộng đóng quanh đồn Trinh Tường, Phú Trinh, Đức Nghĩa, Lạc Đạo.

Qua hai ngày chiến bại, tiểu đoàn 482 Việt Cộng chạy về Đại Nẫm để bổ sung quân số với các C 481 đặc công, C 430 địa phương và tất cả hậu cần, du kích rồi trở lại tấn công Đồn Trinh Tường và Yếu Khu Châu Thành tại trại Đinh công Tráng.

Ngoài ra lần này còn có Tiểu đoàn 480 Cộng Sản Bắc Việt chừng 250 người, mới từ Bắc Việt xâm nhập vào Bình Thuận cuối năm 1967, cùng với C 450 địa phương, đóng tại mật khu Lê hồng Phong, lúc 3 giờ đêm mồng ba Tết tấn công Ty Cảnh Sát Quốc gia do Thiếu Tá TQLC Hồ đắc Nhị chỉ huy với chừng 100 Cảnh Sát dưới quyền phối hợp với một Trung đội Nghĩa Quân, phòng thủ tại câu lạc bộ Sĩ Quan, đã giữ vững được vị trí, mặc dù cánh cộng quân này do chính tướng Việt Cộng Năm Ngà cùng với BCH Liên Khu 6, đóng tại chùa Vạn Thiện, chỉ huy trực tiếp. Cả thị xã ngập trong máu lửa với những cuộc pháo kích của Việt Cộng, làm nhiều nhà cửa dân chúng tại Chợ Gò và 2 cây xăng trên đường Nguyễn Hoàng bị cháy, nhiều người thương vong.

Trước tình hình khẩn cấp, nghiêm trọng, Khu 23 Chiến Thuật đã ra lệnh cho Tiểu Đoàn 3/44 SĐ23BB và Chi Đoàn 4/8 Thiết vận xa, do Trung Tá Võ Khâm Trung Đoàn Trưởng chỉ huy, theo QL 1, từ Vĩnh Hảo về giải vây Phan Thiết. Riêng 2 Tiểu Đoàn 1 và 2/44 SĐ23 BB bảo vệ Phan Rang. Đúng 6 giờ chiều ngày mồng 4 Tết, quân tiếp viện về tới cầu Sở Muối và đóng tại đây, đã có nhiều cuộc đụng độ xảy ra tại Phú Long và ngoại ô Phan Thiết giữa cánh quân tiếp viện với Việt Cộng, làm 1 Thiết Vận xa M113 bị cháy.

Tóm lại suốt ngày mồng bốn Tết, Phan Thiết tràn ngập máu lửa. Việt Cộng đặt súng bích kích pháo và đại bác ngay tại các chùa trong thị xã như Bửu Quang, Giác Hoa, Am Cai Hóa.. để bắn phá khắp nơi.

Riêng bộ đội thì liên tiếp mở các cuộc tấn công vào đồn Trinh Tường, Yếu Khu Châu Thành, Chi Cảnh Sát Công Lộ tại đường Khải Định.. nhưng hầu như khắp chốn, không chiếm được một mục tiêu nào. Chỉ tội nghiệp cho dân chúng vô can, bị họa lây chiến cuộc, phải bỏ tất cả để chạy xuống Đức Thắng, Cồn Chà lánh nạn. Nhiều người chết dọc đường vì đạn lạc, pháo rơi, tiếng khóc than oán ngất trời cao, cho nên đâu còn ai rãnh để đón bộ đội của Hồ về, trừ những người bị kẹt ở lại để làm con tin.

Tờ mờ sáng mồng 5 Tết, quân tiếp viện bắt đầu tiến vào thành phố và cho tới 11 giờ trưa trong ngày, Chi Đoàn Thiết Vận Xa 4/8 có Tiểu Đoàn 3/44 SĐ23BB tùng thiết, đã giải vây xong đồn Trinh Tường, Trại Đinh công Tráng, Cao Thắng, triệt hạ các ổ súng cộng đồng tại sân vận động Quang Trung và tiếp tục càn quét tàn binh của Việt Cộng tại Trinh Tường, đường Hải Thượng Lãn Ông.. Lúc này, chiến đoàn 3/506 của Hoa Kỳ cũng tham gia trận chiến, giải tỏa áp lực của giặc tại vùng ngoại ô thị xã. Ngày mồng 7 Tết, tình hình Phan Thiết trở lại bình thường.

Sau khi đồn Trinh Tường được giải vây, binh sĩ ĐĐ954 về gần đông đủ, Huỳnh văn Quý được đặc cách lên Trung Úy đem đơn vị về làm trừ bị cho Tiểu Khu, bảo vệ Tòa Hành Chánh Tỉnh và Đại Đội Hành Chánh Yểm Trợ Tiếp Vận Bình Thuận.

2- Đợt hai từ đêm 17 đến 20/2:

Không chiếm được Phan Thiết như lời hứa với thầy giáo Thành dạy trường Dục Thanh, nên Việt Cộng tại Bình Thuận quyết tâm trả thù và lần này cũng với đám tàn binh của các Tiểu Đoàn Chính Qui 482, 840, các C pháo 485, đặc công 481.. đánh thẳng vào Tiểu Khu và Quân Trấn trong trại Quang Trung, cạnh Trường Nữ Tiểu Học, trước vườn hoa lớn, nằm cạnh bờ sông Mường Mán thơ mộng với những hàng phượng vỹ đỏ ối màu hoa mỗi độ hè về..

Một cánh quân khác tấn công Lao xá Phan Thiết, nằm kế Ty Công Chánh và Tòa Hành Chánh tỉnh, trên đường Huyền Trân Công Chúa, thả 700 tù nhân..

Theo Phạm ngọc Cửu, lúc đó là Chánh Văn Phòng cho Trung Tá Nguyễn khắc Tuân, Tỉnh Trưởng, thì sở dĩ mọi người trong Tòa Hành Chánh được sống sót khi một đại đội tinh nhuệ của chính qui Bắc Việt hiện diện trong Lao Xá, cách Ty Công Chánh chỉ một bức tường gạch và Tòa Hành Chánh đang nằm trong lần đạn sát tử, nhưng Việt Cộng không tấn công tiếp, mà chờ đại quân cùng vào thành phố với tướng Năm Ngà cũng như các cán bộ cao cấp trong Tỉnh Ủy Bình Thuận.

Cũng tại Lao Xá, nơi đặt BCH tiền phương Việt Cộng, với sự hiện diện đầy đủ của các cán bộ chính trị, chuẩn bị lễ tiếp thu chính quyền Tỉnh, có máy thu hình, quay phim mới toanh của Trung Cộng, chờ giới thiệu các nhân vật đầu não của cách mạng. Nhờ ơn đức linh thiêng của tổ tiên Bình Thuận, của Nam Hải Đại Tướng Quân hộ trì, nên Việt Cộng không có cơ hội để các nhân vật ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản quốc tế lộ diện như tại Huế với các hung thần ác quỷ Hoàng phủ Ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân, Trần quang Long, Phan chánh Dinh, Lê văn Hảo, Nguyễn Đọc, Nguyễn thị Doan, Nguyễn Khoa Điềm con Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, lúc đó từ Bắc vào..Năm 2005 Nguyễn Khoa Điềm là Trưởng Ban Tư Tưởng Trung Ương Đảng VC, theo phe Đổ Mười, Lê Đức Anh thờ Trung Cộng, còn Hải Triều thì được đảng thưởng công, cho đặt tên một con đường lớn tại Quận 1, Sài Gòn.

Và cũng như lần trước, Tiểu Đoàn 3/44/SĐ23BB cùng với Chi Đoàn 4/8 TVX từ Sông Mao đã về tiếp viện, giải cứu Phan Thiết.

Một hình ảnh hào hùng, ghi lại trong ký ức mù sương sau mấy chục năm biển dâu thê thiết nơi những người lính trận của TĐ3/44 và các viên chức chính quyền tỉnh Bình Thuận, vào lúc 16 giờ ngày 18/2/1968. Đó là Đại Tá Trương quang Ân (sau này lên Tướng), Tư Lệnh SĐ23BB kiêm Tư Lệnh Khu 23 CT, hào hùng không ai sánh kịp, từ trực thăng bước vào Tòa Hành Chánh, đầu trần, không áo giáp, không thuyết trình, không dự tiệc.

Ông đi khơi khơi trong đạn nổ, pháo gầm, giữa các chiến binh của Tiểu đoàn 3/44 đang bố trí dọc theo bờ tường tiếp cận với Lao Xá có đầy Việt Cộng, và đóng vai Tiểu Đoàn Trưởng thay Thiếu Tá Mai Lang Luông vừa bị thương nặng bằng cách đứng trên một chỗ cao, phất tay ra lệnh tấn công. Chiến cuộc kết thúc ngắn ngủi vào lúc 17 giờ 30 cùng ngày, Việt Cộng vì mãi lo chuyện tiếp thu ngày mai, nên không kịp chạy, để lại đầy xác chết với phim ảnh, máy quay tối tân Paillard Rolex của Swisszerland. Trong trận này, Việt Cộng hầu như có mặt khắp phố phường, và dù chiếm được Trường Nữ Tiểu Học, nhưng không dứt điểm được Tiểu Khu trong trại Quang Trung, nên cây cầu Nguyễn Hoàng vẫn còn, và là sinh lộ để các nạn nhân Tết của Việt Cộng chạy qua phố, xuống Cồn Chà lánh nạn. Cũng nhờ vậy, mà cái nguồn tin viết sẵn của Tỉnh Ủy Bình Thuận trước Tết, được đài phát thanh Hà Nội và Giải Phóng Miền Nam ra rả là Ngụy quân, Ngụy quyền Bình Thuận đã đầu hàng, không còn được ai tin tưởng.

3- Đợt ba cuối tháng 2/1968

Quyết lòng lập công với đảng, ngày 25/2/1968 Việt Cộng lại mở cuộc tấn công Phan Thiết, nhưng lần này không vào được trong nội thành vì chạm với các đơn vị Địa Phương Quân tại Ấp Kim Hải, Cổng chữ Y, Yếu Khu Phú Long và dĩ nhiên, thiệt hại cũng vẫn là người dân lành vô tội, cộng với các nơi chốn tôn nghiêm như chùa chiền, nhà thờ, Tượng Phật, Trường Học và nhà cửa của dân chúng.

4- Đợt bốn giữa tháng 3/1968:

Cuối cùng, ngày 12-3-1968, Việt Cộng tấn công Phú Long, giựt sập một nhịp trên chiếc cầu đúc ngang sông Cái, trên Quốc lộ 1 nhưng an ninh đã được tái lập trong ngày, chấm dứt bốn đợt tấn công Tết, theo lời nhắn gởi ra lệnh của Thầy giáo Thành, mà cũng là Chủ Tịch đảng Cộng Sản:

'..xuân qua thắng lợi vẽ vang,

xuân này tiền tuyến ắt càng thắng to

vì độc lập, vì tự do

đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào..'

B-PHAN THIẾT ĐIÊU TÀN SAU CHIẾN CUỘC:

Cuộc tấn công vào Phan Thiết đầu Xuân 1968 năm Mậu Thân, mãi mãi gắn liền với Bình Thuận, qua các trang sử đẵm máu từ khi có sự xuất hiện của người Cộng Sản tại địa phương, với thành tích phi thường: trên 100 người chết, 200 bị thương, 19.961 người vô gia cư, hơn 1/5 nhà cửa trong thị xã hư hại, nặng nhất là Phú Trinh, Bình Hưng. Riêng Đức Thắng và Vĩnh Phú không bị thiệt hại gì. Tất cả các Ty Sở đều hư hại, kể cả các Trường Nam Tiểu Học, Trường Đức Nghĩa A, Trường Đức Nghĩa B, Trường Nữ Tiểu Học, Trường Bán Công Phan Chu Trinh, Trường Trung Học Phan Bội Châu, Trường Phú Trinh A, Trường Bình Hưng B, nhà máy nước Phú Tài, Lò sát sinh..

Đặc biệt các cơ sở quân sự đều toàn vẹn, thì ra Việt Cộng chỉ nhắm vào dân chúng không có vũ khí và tự vệ mà thôi. Một đau thương khác, trong Tết Mậu Thân, nhiều chùa chiền vì Việt Cộng mà tan nát bởi bom đạn vô tình của cả hai phía, nặng nhất là chùa Bửu Quang, Cát, Giác Hoa. Nhà thờ Tin Lành trên đường Hải Thượng Lãn Ông và thánh đường Thiên Chúa Giáo, kế sân Vận Động cũng bị sập, nhà làng Đảng Bình trong khuôn viên Lao Xá, phía sau Ty Cựu Chiến Binh và Ty Công Chánh, thành bình địa.

Sau Tết Mậu Thân, Chính Phủ đã bồi thường và cấp đất cho nhà làng này tại Khu phố 2, Bình Hưng, đối diện Chùa Thanh Minh, khi làm chiếc cầu đúc Trần Hưng Đạo, xuyên qua Lao xá cũ, động Giá, đường Thủ Khoa Huân và đầu đường Nguyễn Hoàng trước nhà máy gạo trên quốc lộ 1 đi Nha Trang. Ong Nguyễn trọng Nghĩa, tức là Bộ Nghĩa, phụ thân của họa sĩ Nguyễn duy Huệ trong hội thân hữu Bình Thuận, giữ chức Hội Trưởng làng Đảng Bình mới từ đó, cho tới tháng 5/1975, Việt Cộng vào, chiếm đoạt tất cả đồ đạc thờ cúng bên trong, để làm nhà khách cho Cán Bộ.

Sau Tết Mậu Thân, Trung Tá Nguyễn khắc Tuân được thay thế bởi Đại Tá Đàng thiện Ngôn, làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận và tình trạng an ninh xấu đến nỗi nhiều viên chức ấp, khu tại thị xã bị ám sát, nhiều trụ sở chánh quyền như Đức Long, Phú Trinh, Đức Nghĩa, Hưng Long.. bị tấn công, đường bộ bị cắt đứt, liên lạc trong tỉnh với thế giới bên ngoài chỉ nhờ vào ghe thuyền mà thôi. Sau tháng 5/1975, các Vị Tỉnh Trưởng Bình Thuận như Lưu Bá Châm, Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân..đều chết thảm tại trại tù sát biên giới Hoa- Việt.

Tóm lại trong thời kỳ này, Bình Thuận đúng nghĩa là vùng xôi đậu, ngày thuộc về Quốc Gia, còn ban đêm là Việt Cộng, ngay tại Phan Thiết cũng không biết đâu là chốn an toàn, vì Trưởng Khu 5 nhà phía sau Kho Bạc và Tiểu Khu vẫn bị Việt Cộng vào ngay nhà ám sát. Trung Úy Bá Nhượng, người Chàm làm việc tại Chi Nhánh 2 Tuyển Mộ Nhập Ngủ, làm việc về nhà bị bắn chết ngay Chợ Phường, đường Nguyễn Hoàng, gần trường Trung Học Phan Bội Châu.. Riêng tại các Quận, 95% lãnh thổ là đất địch, nên khi chiều vừa xuống, thì hàng hàng lớp lớp viên chức xã ấp, có cả chỉ huy Nghĩa Quân, kéo về Thị Xã hay Quận Lỵ để tị nạn qua đêm.

Một điều mà các nhà viết sử về Bình Thuận không biết đâu mà mò, là tại vùng biển mặn, trước khi Việt Nam hóa chiến tranh, lực lượng quân sự ở đây rất hùng hậu, không kể Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát Dã Chiến còn có hai Trung Đoàn 44 và 53 của SĐ23BB thay nhau hành quân, một Chiến Đoàn thuộc SĐ101 Nhảy Dù Hoa Kỳ, một Chi Đoàn 4/8 TVX, các ĐĐ/DSCĐ tại Lương Sơn, Hải pháo Mỹ từ Hạm Đội 7 ngoài khơi và Lực lượng Viễn Thám/BTTM tăng phái. Vậy sao tình hình an ninh trong Tỉnh quá xấu, đến nỗi Việt Cộng đặt trạm thu thuế công khai ban ngày trên các trục lộ Ma Lâm, Mũi Né, Số 25, Cây Táo, Bầu Oc, Vĩnh Hảo"!

Thế rồi, cuối năm 1969, Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn II là Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa được chỉ định làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận, trong giai đoạn cực kỳ khó khăn vì sự nát bét lãnh thổ, nhưng trên hết là sự rút hết của các Đơn vị yểm trợ Hoa Kỳ và chính quy Việt Nam Cộng Hòa như Thiết Đoàn 8 và SĐ23BB. Từ đó công chức các cấp quen với bộ quần áo đen của Xây Dựng Nông Thôn, đích thân các cấp chỉ huy Tỉnh từ Tỉnh Trưởng, Phó Tỉnh trở xuống mang cấp Trưởng chỉ huy, làm gương ngồi trên quân xa hay theo Thiết Quân Vận hoặc trực thăng, xuống tận xã ấp xa lắc xôi đậu, để nhìn thảm cảnh đồng bào giữa hai làn đạn vô tình bắn hạ.

Các đại bàng cũng đã có mặt ngay nơi chiến tuyến, lúc đạn bom, lửa khói còn nguyên mùi, để cùng chia xẻ nỗi khổ đau, chết chóc với đồng đội, đồng bào. Đặc biệt, suốt thời gian làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận từ 1969 tới đêm 18-4-1975, Đại Tá Ngô tấn Nghĩa có thói quen xuống tận Xã Ấp, tiền đồn của Nghĩa Quân, các toán Bình Định Xây Dựng Nông Thôn, để sinh hoạt và ngủ đêm tại chỗ. Nhờ vậy đến cuối năm 1971, gần như 173 Ap trong 53 Xã tại 7 Quận của tỉnh Bình Thuận, chấm dứt cảnh ngày ta đêm địch, cảnh sống lưu vong của viên chức chính quyền hằng đêm. Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 8 và mật khu Lê hồng Phong về đêm, là địa điểm lý tưởng săn bắn của Tỉnh Trưởng, sau khi sinh hoạt với các đơn vị tiền đồn. Cũng từ đó, đường bộ được khai thông, xe đò có thể chạy suốt đêm trên quốc lộ, ngang qua lãnh thổ tỉnh Bình Thuận, từ Cà Ná về tới ranh giới Bình Tuy tại số 30, mà không sợ bị Việt Cộng chận bắt hay thu thuế ở cây số 25, Cây Táo, Bầu Ốc, Vĩnh Hảo.. vì có sự trấn đóng bảo vệ của các đơn vi tinh nhuệ Địa Phương Quân Tỉnh.

Theo lời Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa và Phó Tỉnh Trưởng Phạm Ngọc Cửu, những nhân chứng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa tới lúc tàn cuộc, thì Bình Thuận sở dĩ được quốc thái dân an từ năm 1971-1975, là nhờ Chính Quyền biết lấy dân trong tỉnh làm gốc để đối đầu với sự tuyên truyền trên trời dưới biển của Việt Cộng.

Những kế hoạch thần sầu trong việc sử dụng mìn claymore làm hàng rào ấp chiến lược lưu động, vừa ngăn giặc về quậy phá, vừa cản dân vào bưng tiếp tế cho địch ban đêm, hay chương trình ủi quang dọc theo hai bên bìa quốc lo, trong lãnh thổ tỉnh Bình Thuận mà giới quân sự gọi là 'cạo đầu bắt chí', dù lúc đó bị báo chí đối lập tố cáo là tham nhũng.. vì thực tế đã làm cho Việt Cộng không còn hang bụi, căn cứ núp lén bắn tỉa, phục kích.. nên an ninh trên các trục lộ hoàn toàn cả ngày lẫn đêm, chắc các nhân chứng của Bình Thuận may còn sống sót sau cuộc đổi đời, lúc đó ít ra cũng một vài lần phóng xe Honda hay ngồi xe đò ngược xuôi trên quốc lộ nhớ lại.

Đời sống của dân chúng từ sau đống tro tàn máu lệ Tết Mậu Thân 1968 theo gió thanh bình hồi sinh hạnh phúc. Trời lại thương vùng biển mặn, nên ngư dân làm ngành nào cũng trúng mùa, con nhà biển từ ghe nốt vào bờ, lên phố mua sắm, vào cao lâu kéo ghế còn tỏ ra sang trọng hơn người kẻ chợ, vì hai túi rổn rảng bạc tiền sau một mùa cực nhọc trên sóng nước.

Các xóm nhà chồ dọc theo hai bờ sông Cà Ty, cũng như Đức Thắng, Cồn Cỏ, Bình Hưng, Hưng Long, Vĩnh Phú, Thanh Hải, nhà ngói, nhà tôle inh ỏi tiếng nhạc phát ra từ những chiếc máy thu thanh. Trên bến dưới sông, thuyền bè hằng ngàn chiếc, sơn phết lòe loẹt đậu kín dòng sông, ai cũng vui đời thanh bình, tự do hạnh phúc vừa có được.

Tại nông thôn đã có nhiều thay đổi sau khi giặc rút kín vào rừng sâu núi thẳm, ngoại trừ một số nông dân có ruộng xa tận Cà Tót, Sông Quao hoặc bỏ, hoặc làm đóng thuế. Tất cả nông dân còn lại trước tình hình an ninh xã ấp, đã vui chuyện ruộng đồng, các loại lúa thần nông được khai thác triệt để, nhất là loại lúa ngắn hạn, làm bộ mặt thôn xóm tại Lại An, Phú Long, Tuy Hòa, Hòa Vinh, Tầm Hưng, Phú Lâm, Phú Hội, Long Hương, Sông Lũy.. thay hẳn với mái ngói đỏ au, máy cầy, xe Honda, chuồng heo nái, vườn cây ăn trái.

Đời sống hạnh phúc dưới chế độ nhân bản tự do của Miền Nam như thế đó, thì bảo là dân Bình Thuận theo Việt Cộng đố ai dám tin, họa chăng người đó mất trí.

Năm 1972, trước khi hoàn thành cái hiệp định bán miền Nam cho cộng đảng quốc tế của cặp Nixon-Kissinger, Hoa Kỳ chấp thuận điều kiện của Việt Cộng đưa ra, là giờ N ban hành lệnh ngưng bắn, vùng nào có cờ liềm búa là của Việt Cộng, và Hà Nội quyết định chọn Bình Thuận để 'CẮM CỜ' trong một kế hoạch tấn chiếm bằng quân sự do ba Tiểu Đoàn chính quy Bắc Việt làm mũi chính và hai Trung Đoàn tăng phái của quân khu 6 Việt Cộng. Bình Thuận lúc đó không có chủ lực quân, nhưng lực lượng ĐPQ, NQ, CS và Bình Định Nông Thôn lên tới 13.000 người.

Tất cả rất thiện chiến, nên dù bị trải mỏng để bảo vệ cho 173 ấp, trong số này có 34 ấp bao quanh thị xã Phan Thiết, cuối cùng đã bẻ gãy được âm mưu dành dân, lấn đất, khiến cho dân chúng phải khổ đau vì cách mạng như quá khứ đã minh chứng. Cũng vì Chính quyền đã thông báo trước, là ngày N, nếu ai theo Việt Cộng làm loạn, cắm cờ dành đất, sẽ bị không kích chết oan, cho nên qua kinh nghiệm Tết Mậu Thân, họ lo bồng bế tản cư vì phát hiện Việt Cộng kéo về rất đông.

Thế rồi, giờ N, đêm định mệnh ngày 27-1-1973, đồng loạt Việt Cộng tấn công 13 ấp nhưng vấp phải mìn bẫy, pháo binh, cuối cùng đã tháo chạy. Đại Nẫm, quê hương của anh hùng Từ văn Bé, Nguyễn Hội, Nguyễn văn Búp.. lần nữa thảm thê với những xác chết không người thừa nhận.

Sau đó là trò hề bốn bên, hai phía. Ngày 10-2-1973, những Võ thọ Sơn, Lê mạnh Tiến (CS Hà Nội) và Nguyễn trọng Xuyên (CS Hà Nội trong mặt trận Ma) đòi đất đã cắm cờ ngày N nhưng vì không có đất thật và dân chúng cũng không muốn về với cách mạng, nên cái phái đoàn KV4 bỏ phòng có máy lạnh và tiện nghi đầy đủ ở khách sạn Hồng Hưng, về trại David trong phi trường Tân Sơn Nhát, cho an toàn.

Nay lịch sự bị sang trang, nhiều người một thời Bình Thuận-Phan Thiết đầu trần chân đất, nay nhờ cơ hội ngàn năm do VC mang tới, được du học khắp thế giới bằng ghe chài và hơi hám của quân, công, cán, cảnh VNCH. Trong số này, nhiều người đổ cao làm tới phụ tá tổng trưởng tư pháp Mỹ. Một số khác thành khoa bảng, trí thưc, thương gia với hàm bác sỹ, luật sư, giáo sư, kỹ sư và đủ thứ chức vị trong xã hội..nên đã gần như quên hết lớp muối mặn của biển sóng và lớp bùn đồng nắng cháy chồn quê làng, để dửng dưng xếp hàng làm ông này bà nọ hay tàn nhẫn hơn khi về bưng bợ với VC để bốc lột chính đồng bào mình tại Phan Thành. Họ đâu cần biết về những ngày lao đao lận đận của quê hương, của những người đứng đầu làm bia đỡ đạn cho họ trốn giặc.

Xin hãy dành một chút lòng nhân ái, một chút danh dự của họ hàng và một chút tự trọng của con người, để hướng về quê hương miền biển mặn, mà khóc cho nhân thế và non sông đang chìm đắm trong vũng bùn ô nhục trong xã nghĩa thiên đàng, dù chúng đang cố sơn phết và đang được một ít bọn việt gian Bình Thuận lén lút tuyên truyền.

Rồi nghìn năm sau đó, không biết có ai còn nghĩ như ta, để tiếp tục viết về nghìn năm trước, đã có không biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ, từng đi qua những con đường của Bình Thuận, luôn đẫm đầy máu lệ, suốt ba thế kỷ thăng trầm.

' Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời

Mỗi số phận chứa một phần lịch sử '

Vì lịch sử do con người tạo nên , được sao chép lại để lưu danh và bôi bác, trong đó ai cũng có phần, cho nên đừng tưởng là lịch sử không nhắc tới mình là mọi sự sẽ qua như gió thoảng. Nên dù người sống có khoan hồng vì tính nhân từ của dân tộc Việt, nhưng ai cản được những oan hồn uổng tử của đồng bào, chiến sĩ VNCH đã chết trong chiến cuộc, tù ngục, chết vì đạn bom, chết bởi uất ức vì bị VC phản bội lý tưởng, cướp của đọa đầy sau ngày 30-4-1975..đội mồ sống lại đòi mạng, đòi của, đòi nhà ruộng ghe thuyền lều nước mắm và những người thân, bị lương bịp theo cọng sản lót đường, đỡ đạn cho tư bản đỏ của đảng làm giàu ngày nay -/-

Xóm Cồn

Chạp 2005

MƯỜNG GIANG

 

Tết Mậu Thân Năm 1968 Tại Phan Thiết

Theo: ukdautranh

https://i0.wp.com/www.congdongnguoiviet.fr/Images2/1110a/MauThan68b.jpg
Nhằm bổ xung thêm cho các bài viết qua nhiều tác giả nói về Tết Mậu Thân năm 1968 tại Thị xã Phan Thiết . Qua bài viết này, tôi xin mạn phép ghi lại đôi nét chính mà đơn vị tôi đã trực tiếp tham dự, trong hai đợt Tổng Công Kích do Cộng Sản phát động trên toàn miền Nam nói chung và Phan Thiết Bình Thuận nói riêng .

Vào thời điểm CS Tổng Công Kích đột I, tôi đang Xữ Lý Thường Vụ Đại đội 2/954/ĐPQ, có nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ Trung đội Pháo binh tại Đồn Trinh Tường . Trong đợt Tổng công kích lần II, Tôi chính thức là Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/954/ĐPQ, với nhiệm vụ bảo vệ vòng đai ngoài cho Tòa Hành Chánh Tỉnh Bình Thuận và Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Bình Thuận . Đơn vị tôi cũng tham gia hầu hết các trận đánh chung quanh vòng đai Thị xã Phan Thiết, như Cổng Chữ Y và Cầu 40, ấp Long Hải, ấp Đại Hòa, ấp Đại Thiện, Tường Phong, Tân Điền, Cầu Bến Lội (Cố Đại úy Nguyễn Vũ Chương đã tử trận tại chiến trường này) .

Trước khi mô tả hai đợt Tổng Công Kích của CS Bắc Việt đánh vào thị xã, chúng ta cũng nên nhìn sơ qua bối cảnh an ninh của Bình Thuận lúc bấy giờ . Sau khi tên Điệp Viên CS nằm vùng đầu tỉnh Bình Thuận là Trung tá Đinh Văn Đệ ra đi đã để lại cho Bình Thuận một nền an ninh tồi tệ nhất so với các đời Tỉnh Trưởng tiền nhiệm . Mặc dù lúc đó Bình Thuận được sự yểm trợ bởi một Lữ đoàn Kỵ binh Không vận của Hoa Kỳ đóng tại Phi trường Phan Thiết . Một Trung đoàn của Sư đoàn 23 Bộ binh và một Chi đoàn Thiết Vận Xa M113 tăng phái đóng tại Trung Tâm Huấn Luyện Song Mao . Một Trại Lực Lượng Biệt Kich Mỹ đóng tại Lương Sơn . Bên cạnh đó còn có Duyên đoàn 28 Hải thuyền, đồn trú tại Bến Thương Chánh . Thế nhưng lực lượng quân sự ĐPQ và NQ của tỉnh không đủ khả năng bảo vệ QL1 và các Xã, Ấp trong tỉnh, ngoại trừ Thị xã Phan Thiết có Tòa Hành Chánh Tỉnh và các Xã lớn được đặt BCH Quận/Chi khu . Tinh thần chiến đấu của các đơn vị ĐPQ & NQ có phần hoang mang dao động, và bị tổn thất nhiều trong hai năm 1966-1967 . Lúc Trung tá Đinh Văn Đệ làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng, Tiểu Khu Bình Thuận . Mãi sau năm 1975 chúng ta mới biết Đệ là tên Điệp viên nằm vùng (Xem bài Bình Thuận Những Ngày Tháng Khó Quên, trang 55, đăng trong Đặc san Ân Tình V của Bình Thuận năm 2011) . Cuối năm 1967, Trung tá Nguyễn Khắc Tuân về thay cho Đinh Văn Đệ làm Tỉnh Trưởng BT, thì Đồn MARA được xây dựng bởi Đại đội Công Binh Chiến đấu dưới sự yểm trợ trực tiếp của một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 44 Sư đoàn 23BB .

Đồn này nằm sát QL1 vùng Bàu Ốc thuộc quận Thiện Giáo, giáp ranh với xã Sông Lũy, quận Hòa Đa . Khi xây dựng Đồn xong, sắp sửa bàn giao cho Tiểu Khu, thì Cộng quân lợi dụng đêm tối trời và dịp cuối tháng, anh em Binh sĩ vừa mới lãnh lương, lơ là trong việc phòng thủ đã đồng loạt tấn công Đại đội Công binh và Tiểu đoàn Bộ binh làm cho hai đơn vị này bị tổn thất đáng kể .Về phía VC có 25 tên bỏ xác tại chỗ, nên ta phải dùng xe ủi đất chôn tập thể . Sau trận đánh này, Đại đội 2/954/ĐPQ do Trung úy Nguyễn Tư (Sau này là Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/275/ĐP) làm Đại Đội Trưởng, tôi là Thiếu úy Đại Đội Phó, được BCH Tiểu khu chỉ định lên nhận bàn giao Đồn Mara và đồn trú tại đây . Cũng cần nên nói thêm, Đồn Mara là cái gai trước mắt của bọn Cộng Sản địa phương, vì Đồn nằm ở một vị trí trọng yếu, chặn đường giao liên tiếp tế từ Lâm Đồng qua mật khu Lê Hồng Phong . Đồn còn có nhiệm vụ giữ an ninh cho QL1 nối liền hai Đồn Mara-Nora (ấp Long Hoa) và Đồn Sông Lũy, Hòa Đa .

Ngày đầu tiên Đại đội nhận bàn giao, tôi nhận thấy tinh thần binh sĩ trong đơn vị có phần hoang mang dao động . Vì trách nhiệm của một Đại Đội Phó, kiêm An ninh đơn vị nên tôi có theo dõi các cuộc nói chuyện giữa các Binh sĩ đơn vị tôi và Binh sĩ đơn vị bạn thì được biết đại ý như : – Khi mới đến, đơn vị bạn chỉ thấy có một Đại đội ĐPQ thay thế thì họ nói : “Chúng tôi ở đây cả Tiểu Đoàn và một Đại đội Công binh mà Việt cộng còn dám đánh thì nay các anh có một Đại đội thì tụi nó lấy đá chọi cũng chết” .
Những mẫu chuyện nhỏ như thế, nó thật sự tác động đến tinh thần Binh sĩ không ít . Quả thật như vậy, khoảng mười ngày sau tôi phát giác trong vị trí phòng thủ ở vành đai đồn có một số binh sĩ lén đào hầm bí mật ngay trong vị trí các lô cốt do Công binh vừa bàn giao, vì họ nghĩ rằng : Nếu đơn vị bị địch đánh chiếm thì họ có thể trốn vào hầm bí mật để thoát thân . Đương nhiên, Trung úy Tư và tôi phải có cách tác động tinh thần anh em trong toàn đơn vị để lấy lại hào khí của người chiến binh trong Quân đội VNCH nói chung và người chiến sĩ ĐPQ của Tiểu khu Bình Thuận nói riêng . Bằng chứng là trong Tết Mậu Thân 1968 và mãi về sau này, đơn vị tôi đã lập được nhiều thành tích đáng kể . Từ đó không đầy một tháng sau là anh em không còn sợ nữa, đã tổ chức đi săn bắn xa đồn, đôi khi chúng tôi phải bắn báo động gọi họ về .

Ngày 29 Tết, đơn vị được lệnh hoán đổi cho đơn vị bạn, không may cho Trung úy Tư, Đại Đội Trưởng, khi ra cổng thì vướng phải lựu đạn trước cửa đồn mà chính anh đã ra lệnh cho Binh sĩ phụ trách gài không được gở sớm như thường lệ khi chưa có lệnh của anh . Tản thương Trung úy Tư về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch để điều trị, tôi nhận trách nhiệm Xử Lý Thường Vụ Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/954/ĐPQ . Đoàn xe đưa đơn vị về phòng thủ Đồn Trinh Tường và bảo vệ Trung đội Pháo binh 105 ly tại đây .

Sáng ngày 30 tết, đơn vị tổ chức tiệc Tất Niên, đến chiều Thường vụ Đại đội tập họp phân công canh gác như thường lệ thì đơn vị chỉ còn 13 người kể cả tôi . Theo thông lệ, vào ngày tết cổ truyền của dân tộc, đơn vị nào cũng có một số ít Binh sĩ vô kỷ luật bỏ đơn vị về ăn Tết với gia đình, nhưng trường hợp của đơn vị tôi, mất hết 90% quân số thì không thể chấp nhận được . Xét về mặt tâm lý, tôi thấy có 3 lý do khiến Binh sĩ trong đơn vị đã trốn về ăn tết với gia đình quá nhiều .

1)Ở một tiền đồn nguy hiểm, nay được về đến nơi tương đối an toàn ngay trong thị xã nên tâm lý ỷ lại xem thường .
2)Quá tin vào thỏa thuận hưu chiến của Cộng sản đã ký kết với ta ngưng chiến trong ba ngày tết .
3)Thông thường Binh sĩ trong đơn vị sợ cấp trưởng nhiều hơn cấp phó . (Giả sử nếu có Trung úy Tư thì chắc không vắng mặt nhiều như vậy) .

Trưa ngày 30 tết, Phòng 3 Tiểu khu báo động cho các đơn vị biết là địch có thể bất ngờ tấn công ta trong dịp tết . Tôi nghĩ năm nào cũng vậy, thượng cấp luôn đề cao cảnh giác là lẽ đương nhiên, còn cấp dưới thì thường hay ỷ lại, đó là tâm lý chung . Lệnh cấm trại 100% được Tiểu khu ban hành ngay trưa hôm đó .

Khoảng 5 giờ chiều, tôi nhận lệnh từ Phòng 3/TK, bắt tôi cử một Trung đội đi tiền đồn . Trước hoàn cảnh quân số thiếu như đã nói trên . Sau khi dặn dò TVĐĐ không cho một Binh sĩ nào rời cổng trại nếu không có phép của tôi . Tôi lái xe về Phòng 3 để gặp Thiếu úy Trị, Trưởng Phòng 3/TK để nói rõ tình trạng quân số của đơn vị không thể thi hành lệnh được, và cho đơn vị khác thay thế, luôn tiện ghé về nhà ở gần trường Phan Bội Châu để dùng bữa cơm chiều với gia đình trong ngày cuối năm . Khoảng 7 giờ 30 tối, tôi lái xe lên Đồn Trinh Tường, lúc đó Thị xã đã lên đèn, nhưng khi qua khỏi đường rày xe lửa đến lò ấp vịt thì tối om . Tôi lại thấy có người ở trên cột điện, tôi nghĩ là nhân viên nhà máy đèn sửa điện . Mãi sau này mới biết đó là Đặc công VC cắt dây điện, nên toàn bộ khu vực từ Lò ấp vịt đến Đồn Trinh Tường hoàn toàn tối thui .

TỔNG CÔNG KÍCH ĐỢT I

Đồn Trinh Tường nằm sát Tỉnh Lộ 8, đường từ Phan Thiết lên quận Thiện Giáo – Di Linh, Lâm Đồng . Đồn được chia làm hai khu . Khu hướng nam là Hậu cứ của của Tiểu đoàn thuộc SĐ 23BB đảm trách . Khu hướng bắc, có Trung đội Pháo binh 105 ly và Đại đội 2/954/ĐPQ phòng thủ . Bốn góc có lô cốt làm bằng xi măng và một pháo đài cao làm từ thời Pháp rất kiên cố . Hai khu ngăn cách bởi một hàng rào kẽm gai nhưng có cửa liên thông được . Vì quân số quá ít nên mỗi vọng gác chỉ còn lại 3 người kể cả tôi và hai tuyền tin cũng đảm trách một vọng gác . Thường Vụ Đại Đội trách nhiệm thường xuyên đi tuần tra, đôn đốc và đổi gác . Để khích lệ anh em còn lại, tôi hứa sẽ cho đi phép khi quân số được ổn định .

Đúng giờ giao thừa, Cộng sản bắt đầu pháo kích, sau khi dứt pháo, chúng bắt đầu ào ạt tấn công . Mặc dù quân số của đơn vị còn rất ít, nhưng vẫn chia đều cho các vị trí phòng thủ trọng yếu . Có nơi một người phải di chuyển từ lô cốt này sang lô cốt khác, chủ yếu là có tiếng súng nổ khắp nơi để đánh lừa địch bên ngoài không biết được sự yếu kém của ta về quân số . Riêng Trung đội Pháo binh quân số cũng thiếu nhiều . Trung úy Trung Đội Trưởng cũng vắng mặt, chỉ còn được một Thiếu úy . Tôi yêu cầu Pháo binh chỉ để một khẩu bắn yểm trợ vòng ngoài, còn một khẩu phải hạ nòng để bắn trực xạ trong những lần địch tấn công theo chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của chúng .

Lợi thế của đơn vị phòng thủ của chúng tôi là nhờ có pháo đài cao chắc chặn Dùng lựu đạn, phóng lựu, đại liên từ trên cao vừa thủ vừa công và yểm trợ rất hữu hiệu nên đẩy lùi được nhiều đợt tấn công của địch quân . Mặt hướng bắc và đông bắc nhờ Pháo binh bắn trực xạ nên chúng không làm gì được . Lợi thế thứ hai là mặt trước đồn (hướng tây) là đường Tỉnh lộ 8, trống trãi dễ quan sát, vả lại bên kia đường là dãy phố, thỉnh thoảng mới có một đường hẻm, vì vậy mỗi lần địch muốn tấn công phải chạy vào các con hẻm độc đạo đó để vượt qua đường Tỉnh lộ 8, mới vào hàng rào phòng thủ đồn, cho nên chúng đã bị bắn hạ khi xuất hiện ở các đầu hẻm bởi hỏa lực của đơn vị phòng thủ canh chờ sẵn cứ khi thấy bóng người xuất hiện là tác xạ ngay . Biết được những điểm yếu của địch, nên chúng tôi dồn hỏa lực vào các con đường tiến sát của địch để tiêu diệt nên chận đứng nhiều đợt tấn công của chúng . Nhờ vậy mà chúng tôi cầm chân giữ được Đồn cho tới sáng . Sang ngày mồng một Tết, được Trực thăng Võ trang và Phi cơ A37 yểm trợ . Đồng thời Tiểu khu điều động các Đại đội 784/ĐPQ, ĐĐ 208/ĐPQ, ĐĐ Cảnh sát dã chiến, Trung đội Tình Báo TK và xe Commando Car yểm trợ chia làm hai cánh do Thiếu tá Trần Văn Chà sau này là Đại tá Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 45 BB . Suốt ngày mùng một Tết, đơn vị tiếp viện quần thảo với địch nhưng không giải vây được cho đồn . Chiều đến thì mỗi đơn vị phải về để lo phòng thủ vị trí của mình . Điểm yếu của Tiểu khu là quân số phải trải rộng để phòng thủ diện địa, không có lực lượng trừ bị . Biết được nhược điểm của ta, nên địch thường dùng chiến thuật công đồn để tiêu diệt và cầm chân các đơn vị bạn, hoặc công đồn đả viện để tiêu diệt đơn vị tiếp viện .

Khoảng 5 giờ chiều ngày mồng một Tết, từ trên pháo đài cao trong đồn chúng tôi thấy VC áp dụng chiến thuật hoán quân . Một số quân đánh chúng tôi từ nửa đêm và ngày mồng một Tết chạy về hướng ấp Đại Hòa và có số quân khác chạy ngược lại để thay cho quân vừa rút . Tôi yêu cầu bên Pháo binh cho bắn đạn nổ chụp, nhưng không ngăn cản được . Từ giờ phút đó, tôi cảm thấy lo nhưng không dám nói ra . Chúng tôi phải qua hậu cứ Tiểu đoàn bên cạnh để xin đạn dược bổ xung và thức ăn cho Binh sĩ . Anh Thiếu úy bên Pháo binh cũng lo lắng hỏi tôi phải làm gì trong đêm nay ? Tôi trả lời là phải tử thủ chứ không còn con đường nào khác . Một mặt tôi yêu cầu anh phải chuẩn bị hai quả đạn, nếu không còn con đường lựa chọn nào khác thì chúng tôi phải phá hai khẩu Pháo binh trước khi rút lui . Tôi hứa với anh :”Chúng ta sống cùng sống, chết cùng chết chứ không bỏ các anh đâu “ . Để trấn an anh, tôi cho biết lối phòng thủ như đêm rồi có hiệu quả, địch không thể làm gì được ta . Quả thật vậy, suốt đêm mồng một Tết, địch quân cũng bổn cũ soạn lại là “Tiền pháo Hậu xung” nhưng cường độ pháo lâu hơn và tấn công mãnh liệt hơn, nhưng cũng không làm gì được chúng tôi .

Sang ngày mồng hai Tết, Thiếu tá Chà một lần nữa lại trực tiếp điều động các đơn vị bạn để giải vây, lần này tăng cường thêm ĐĐ 443/ĐPQ do Thiếu úy Hải làm Đại Đội Trưởng (sau này lên Thiếu tá làm Xã Trưởng, Xã Châu Thành Phan Thiết) . Gần 2 giờ chiều ngày mùng hai Tết, đơn vị tiếp viện bắt tay được với đơn vị phòng thủ trong đồn . Nhờ vậy mà số binh sĩ vắng mặt đã về lại đơn vị hơn 2/3 quân số . Còn lại số khác bị kẹt lại ở các quận xa chưa về kịp . Tuy vậy áp lực địch chung quanh đồn vẫn không giải tỏa được . Cộng quân vẫn bám và tiếp tục tấn công đồn cho đến sáng ngày mồng năm Tết . Địch quân tăng cường tấn công mạnh vào Đồn Trinh Tường và Trại Đinh Công Tráng, làm Đại úy Nguyễn Hữu Chí Yếu Khu Trưởng bị tử thương .
Khoảng 10 giờ ngày mồng năm Tết, Chi đoàn Thiết Vận Xa M113 và một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 44 Sư đoàn 23BB . Từ Cầu Sở Muối nhận lệnh giải vây cho Đồn Trinh Tường . Có một điều làm tôi thắc mắc cho đến hôm nay là sau khi đơn vị bạn đã đẩy lui cộng quân ra khỏi vòng đai ngoài đồn, thì cả hai Chi đoàn Thiết Vận Xa và Tiểu đoàn Bộ binh yểm trợ lại dồn hết hỏa lực cơ hữu bắn thẳng vào đồn, đến nỗi khẩu đại liên đặt trên nóc lô cốt phía sau đồn bị bể khiến một xạ thủ bị thương nặng . Quân trú phòng hoảng hốt tìm chỗ tránh đạn, không dám phản ứng lại, cuối cùng phải dùng cờ vàng ba sọc đỏ đưa lên phất qua phất lại làm dấu hiệu thì các đơn vị bạn mới ngưng tác xạ . Chúng tôi hỏi tại sao, thì đơn vị bạn nói là Tiểu Khu báo là Đồn Trinh Tường đã bị VC chiếm rồi, nên họ nhận lệnh đánh lấy lại . Sau đó đơn vị tiếp viện tiếp tục xuống giải vây cho Trại Đinh Công Tráng, Yếu Khu Châu Thành Phan Thiết .

Một điều lạ khác nữa, là sau khi Đồn Trinh Tường được giải vây, khoảng một giờ trưa hôm đó, nhiều quả đạn Pháo binh 105 ly bắn rải rác chung quanh đồn, trong đó có hai quả rớt vào đồn, quả thứ nhất rớt gần cầu tiêu làm một Binh sĩ đang đi vệ sinh bị thương nhẹ . Quả thứ hai rớt giữa sân gần cột cờ, trong lúc đó tôi và anh Trung úy Pháo binh (ở nhà vừa lên cách đó một tiếng) bị trọng thương ở bụng . Hoi/ ra thì biết Pháo binh từ Mường Mán đã bắn . Họ đổ thừa Phòng 3 TK gọi . Lúc đó chẳng có ai quan tâm làm gì vì cứ nghĩ là do sự nhầm lẫn nào đó thôi . Riêng ở gia đình tôi có ai đó báo cho ba tôi là Đồn Trinh Tường mất rồi, làm ba tôi hoảng hốt chạy xe Honda lên Nhà xác Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch chờ suốt cả ngày mồng năm Tết .

Suốt đợt một tại Đồn Trinh Tường, đơn vị tôi thu được rất nhiều vũ khí AK và B40 . Chung quanh Đồn, địch bỏ lại nhiều xác chết sình hôi thúi không đếm được . Về phía đơn vị có 3 bị thương, trong đó có 2 Binh sĩ bị thương do đạn phe ta, một do Pháo binh, một do Thiết giáp, một do đạn địch .

Đợt II

Chiều ngày mồng năm Tết, đơn vị tôi được Phong 3/TK điều về phòng thủ và bảo vệ Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận và Tòa Hành Chánh Tỉnh Bình Thuận, Đơn vị được phối trí như sau :
Trung đội 1 và 3 được tăng cường một Phân đội Đại liên, phòng thủ từ Ty Cảnh Sát (hướng nam) dọc đường Cao Thắng xuống bắt tay với Liên Đội Nghĩa Quân của Đại úy Đài . Liên đội này phòng thủ dọc đường Cao Thắng đến góc đường Cao Thắng-Huyền Trân Công Chúa, Trường Tiểu Học Bình Hưng để bảo vệ hướng nam của Tòa Hành Chánh Tỉnh và Lao Xá cùng Ty Công Chánh .

Trung đội 2 cùng 2 Phân đội Đại liên và Súng cối của Trung đội Vũ khí nặng chịu trách nhiệm phòng thủ từ Ty Cảnh Sát (hướng bắc) dọc đường Cao Thắng giáp góc đường Thủ Khoa Huân với nhiệm vụ bảo vệ vòng đai ngoài cho Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Bình Thuận
.
Tiểu đội Viễn thám Đại đội làm tiền đồn, hoạt động từ Ga xe lửa qua Trường Trung Học Phan Bội Châu xuống đến Chùa Giác Hoa . Lúc này đơn vị quân số đầy đủ, ban ngày đi hành quân theo lệnh của Phòng 3/TK, đêm về phòng thủ khu vực trách nhiệm như đã mô tả trên .

Trưa ngày 17 tháng 2 năm 1968, Đại đội nhận được tin từ Phòng 2/TK và Phòng 3/TK, báo cho biết đêm nay (17-2-68) Việt Cộng sẽ Tổng công kích đợt II vào Thị xã Phan Thiết . Được tin báo, tôi cho tu sửa, bổ xung vị trí phòng thủ, tăng cường đạn dược . Vào khoảng 5 giờ chiều ngày 17-2-68, Phòng 3/TK điều động Liên đội Nghĩa Quân đi nơi khác, bỏ lại khoảng trống, và Phòng 3/TK ra lệnh cho đơn vị tôi đảm trách phòng thủ luôn . Như vậy là hai Trung đội 1 và 3 của Đại đội 2/954/ĐPQ, ngoài chịu trách nhiệm tuyến phòng thủ cũ, nay phải gánh thêm tuyến phòng thủ của cả một Liên đội Nghĩa quân giao lại, với chiều dài gần 500m . Trước tình hình đó, tôi buộc lòng phải rút Tiểu đội Viễn thám về tăng cường .

Khoảng 9 giờ tối ngày 17-2-1968, trước mặt tuyến phòng thủ của Ty Cảnh Sát và đơn vị tôi có tiếng súng nổ . Khoảng 15 phút sau, Tiểu đội Viễn thám bắn báo động và báo về BCH/Đại đội nói có đơn vị bạn nào đó xin vào . Tôi trực tiếp liên lạc về Phòng 3/TK, thì được Thiếu úy Trị, Trưởng Phòng 3/TK bảo tôi đó là Trung đội Tình báo của Phòng 2/TK đi tiền đồn chạm địch, cứ cho họ vào nhưng phải nhận diện xem có phải Trung Đội Trưởng nói tiếng Hòn hay không (Hòn chỉ Đảo Phú Quý), Nếu đúng thì cho vào, và đơn vị tôi phải giạt ra hai bên nhường khoảng giữa cho Trung đội Tình báo chịu trách nhiệm . Thi hành chỉ thị của Thiếu úy Trị P3/TK xong thì cũng là lúc Cộng quân bắt đầu tấn công và Đơn vị tôi và Ty Cảnh Sát rất ác liệt . Lúc này mỗi đơn vị tự lo chiến đấu không còn ai tiếp ai được nữa .

Không biết vì lý do gì mà Trung đội Tình báo lại bỏ vị trí phòng thủ rút về P2/TK, đơn vị tôi nằm cạnh bên không hề hay biết . Thừa cơ hội đó Việt Cộng vào Lao Xá thả khoảng 700 tù nhân . Khi tù nhân chạy ra thì đơn vị tôi mới biết báo về cho tôi, tôi ra lệnh cho Trung đội 3 bằng mọi giá phải đến trám khoảng trống đó . Trong lúc chuyển quân thi hành lệnh tôi, Trung sĩ nhất Cậy, Trung Đội Trưởng bị thương cánh tay trái (Một HSQ rất gan dạ có nhiều kinh nghiệm và có tinh thần chiến đấu cao), nhất định không chịu đi Quân Y Viện mà xin ở lại vừa chiến đấu vừa điều trị tại đơn vị . Để tưởng thưởng người HSQ can trường đó, sau này tôi đề nghị cho anh theo học khóa Sĩ Quan Đặc Biệt tại Trường BB Thủ Đức . Ra trường, chiến hữu Cậy chuyển về phục vụ tại Vùng II Chiến Thuật và đã anh dũng hy sinh tại chiến trường này . Viết những dòng trên cũng là để vinh danh và tưởng niệm một chiến hữu đã đóng góp mồ hôi và máu của mình để phục vụ bảo vệ quê hương Bình Thuận của chúng ta nói riêng và miền Nam tự do nói chung .

Cũng nhờ đơn vị phát giác và phối trí kịp thời nên đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch, giữ vững được phòng tuyến, ngăn chận được cánh quân ngoài muốn vào bổ sung, tăng cường phối hợp với toán quân đã vào trước trong Lao Xá, vì vậy toán quân trên không đủ sức đánh chiếm Tiểu khu để “Giải phóng Phan Thiết” đúng như mưu đồ mà chúng đã áp dụng tại thành phố Huế . Trong Tiểu Khu chỉ có một Trung đội công vụ phòng thủ và một số cán bộ hành chánh các ngành thuộc các Phòng, Ban tham gia chiến đấu bảo vệ vòng trong .

Khoảng 4 giờ chiều ngày 28-2-1968, sau khi Thiếu tá Mai Lang Luông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3/44 SDD23/BB bị trọng thương trong lúc chỉ huy Tiểu đoàn đánh chiếm lại Lao Xá . Vừa lúc đó Đại tá Trương Quang Ân, Tư Lệnh SĐ23/BB và Khu 23 Chiến Thuật, đáp trực thăng bước xuống một cách hào hùng, đóng vai thay thế Tiểu Đoàn Trưởng vừa bị thương . Ông đã trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn đánh lấy lại Lao Xá một cách ngoạn mục, nhanh gọn và oai hùng . Tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đơn vị Cộng sản cố thủ trong Lao Xá sớm hơn chúng định giải phóng Phan Thiết .

Qua hai đợt Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng quân đã điều động Tiểu đoàn 480, Tiểu đoàn 482 chính quy, C 481 Đặc công, C 430, C 450 Chủ lực tỉnh cùng C 485 pháo với các đơn vị võ trang địa phương Huyện do Tướng Năm Ngà, Tư Lệnh Quân Khu 6 đích thân chỉ huy, quyết tâm đánh chiếm thị xã Phan Thiết, nhưng chúng đã không đạt được mục đích mong muốn, mà còn nhận lấy một thảm bại nặng nề và nhục nhã vì sự chống trả mãnh liệt của lực lượng Quân đội VNCH tại Bình Thuận .

Nhằm tưởng thưởng và khích lệ cho các quân nhân hữu công trong hai đợt Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968 . Toàn thể Quân Nhân các cấp trong Tiểu Khu được ân thưởng một cách xứng đáng . Trong đó tôi là Thiếu úy Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/954/ĐPQ, Thiếu úy Nguyễn Văn Trị Trưởng Phòng 3/TK, Thiếu úy Nguyễn Thanh Hải ĐĐT/ ĐĐ3/443/ĐPQ được thăng Trung úy đặc cách . Thiếu tá Trần Văn Chà, Tiểu Khu Phó được đặc cách lên Trung tá và nhiều quân nhân hữu công khác được ân thưởng xứng đáng .

Điều làm tôi thắc mắc trong đợt Tổng Công Kích lần hai là không hiểu vì sạo Tiểu khu biết chính xác ngày giờ và mục tiêu địch sẽ tấn công đánh chiếm vào cơ quan đầu não của Tỉnh, mà giờ chót P3/TK lại điều quân rút bỏ trống vị trí phòng thủ như đã mô tả phần trên . Trong khi Tiểu khu lúc bấy giờ đã có thêm một Tiểu đoàn của Trung đoàn 44/SĐ/23 BB và Chi Đoàn Thiết Vận Xa M113 tăng phái mà không được điều động để truy kích đơn vị Cộng quân rút lui băng qua cánh đồng ruộng muối trống trải trước mặt Chùa Vạn Thiện .
Giả sử, nếu đơn vị tôi không phát giác, không điều quân trám kịp để giữ vị trí phòng thủ sau khi Trung đội Tình báo Tiểu Khu rút bỏ, để địch quân vào đúng như kế hoạch của chúng thì chuyện gì sẽ xảy ra cho Tiểu Khu Bình Thuận ? Cho Thị Xã Phan Thiết ? Tôi nghĩ rằng cho đến hôm nay tôi phải nói ra những điều này và có lẽ trong Ban Tham Mưu Tiểu Khu không ai biết được việc làm của Đại đội tôi lúc đó và lối điều binh Phù thủy của Phòng 3/TK qua lệnh của ai đó !

Nhắc lại quá khứ hào hùng lẫn bi thương cũng chỉ làm đau lòng người Chiến sĩ Quốc gia đã nặng lòng với quê hương, tô quốc, nhất là những kẻ ly hương như chúng ta đã không làm gì được nhiều để giúp đỡ anh em Thương Phế Binh và các Đồng đội đang chịu đói khổ, mất tự do nơi quê nhà . Mỗi năm chỉ có một ngày Đại Hội Ân Tình, để anh em có dịp ngồi lại tâm tình, vinh danh, tưởng nhớ về những Chiến hữu đã hy sinh và góp chút quà ân tình gởi về cho các anh em Thương Phế Binh, vậy mà “ cũng có kẻ đánh phá chụp mũ, xuyên tạc hết lần này tới lần khác (?) , mỗi khi có tổ chức giúp đỡ TPB tại quê nhà.. …Cũng cần nói rõ …Hội Tương Trợ Bình Thuận không dựa vào một tổ chức Chính trị hay bất cứ tổ chức Tôn giáo, Đảng phái nào . Không mưu đồ chính trị hay bè phái cá nhân để mưu cầu những lợi lộc nhỏ nhen nào, tất cả anh em tham gia vào Hội, chỉ biết đem hết nhiệt tình và khả năng ra để phục vụ . Chúng ta dù là cựu Học sinh Phan Bội Châu, Bạch Vân, Tiến Đức, Bồ Đề, Chính Tâm hay xuất thân từ những Trường Huyện xa xôi như Bán Công Phan Rí Cửa, Long Hương, Sông Mao , La Gi, Võ Đắc, Tánh Linh, Phú Quý.. Dù sau này có xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Bộ Binh Thủ Đức, hay Đồng Đế Nha Trang, hay bất cứ Quân Trường nào khác thì cũng là con dân Bình Thuận, hoặc đã Chiến đấu cho Bình Thuận được an vui, trong những năm chiến tranh khốc liệt do Cộng Sản Bắc Việt gây nên .

Cho dù phục vụ trong ngành nghề hoặc quân chủng nào, cũng vẫn là người chiến sĩ can trường của QLVNCH . Cùng mang trên vai dòng chữ : Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm cho hết một đời và luôn luôn sống trong tình Huynh đệ Chi binh . Chúng ta đã từng trải qua một thời binh lửa, cùng chen vai sát cánh chiến đấu với kẻ thù chung là Cộng sản bảo vệ miền Nam và Bình Thuận thân yêu . Chúng ta cũng đã cùng nhau chịu chung một số phận nghiệt ngã, đầy tủi nhục, phải làm kẻ bại trận, bị tù đầy khổ sai qua các nhà tù và bị đối xử dã man của những người Cộng sản không tánh người . Như vậy chúng ta không có lý do gì mà không đoàn kết lại để làm cái gì đó giúp người còn ở lại bên quê nhà .

Chúng ta phải tự hỏi chính lòng mình : Đã, đang và sẽ làm gì cho các chiến hữu đang sống lầm than cơ cực, mất tự do nơi quê nhà, nhất là các anh em Thương Phế Binh . Những hành động cụ thể của một số lớn anh em đã thể hiện qua 5 lần Đại Hội Ân Tình, dù không giúp được nhiều, nhưng cũng đã làm vơi đi bớt nỗi thống khổ và gởi đến niềm an ủi dù nhỏ nhoi đến các anh . Những hành động này ít nhiều đã nói lên tinh thần trách nhiệm của một Quân nhân mà Tổ Quốc đã một lần gia phó .

Tâm nguyện của kẻ ra đi là không bao giờ quên người ở lại . Nguyện cầu Anh linh Quốc tổ, Hồn thiêng Sông núi oai linh trừng phạt kẻ bạo quyền cho đất nước được tự do no ấm, cho người chiến bình VNCH mãi mãi có chỗ đứng trong lòng người Dân Việt . Và ước nguyện những lần ĐẠi Hội kế tiếp được thành công, anh em cùng tham gia đông đủ để cùng nhau giúp đỡ Thương Phế Binh ở quê nhà .

Thành Phố Boston ngày 25-9-2011
Huỳnh Văn QuýCựu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ249/ĐP/BT

 Posted in: 

Trả lời