Wednesday, May 1, 2024

 LÂM VĂN BÉ -

. . .
Sau khi từ chức, ông Thiệu ngày ngày đi đi lại lại qua các phòng trong dinh Độc Lập (tuy ông từchức nhưng ông vẫn còn ở trong dinh ), nghĩ đến cuộc phục hận. Ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông và cả em họ ông, Hoàng Đức Nhã đều khuyên ông nên ra đi, nhưng ông từ chối vì ông nghĩ là ông còn có một vai trò. Không chịu được cảnh nầy, bà Thiệu đã rời Saigon sáng 24 đi Bangkok trên một chuyến bay thương mại (Snepp, tr. 334)
TT Hương cũng muốn ông Thiệu ra khỏi nước vì sự có mặt của ông Thiệu tạo khó khăn cho ông (hay cho ý kiến) nên nhờ Martin can thiệp. Martin cũng không muốn ông Thiệu bị ám sát càng rắc rối hơn nên Martin tổ chức cho ông Thiệu rời khỏi nước. (theo Snepp, tr. 334, Trần Văn Đôn cũng khuyên TT Thiệu trưa ngày 25 là nên ra đi vì Nguyễn cao Kỳ sẽ tổ chức ám sát)
Lúc 20 giở rưởi, Polgar và tướng Timmes đón ông Thiệu ở nhà ông Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Đoàn xe 3 chiếc gồm ông Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác . Martin đợi sẵn ởphi cơ để tiển đưa.
« Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp lễ: Thưa Tổng Thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd tr.339).
Phi cơ trực chỉ Đài Loan (và sau đó ông và gia đình sang tị nạn ở Anh Quốc cho đến thập niên 1980 mới sang Hoa Kỳ).
Theo Hoàng Đống: « ngày 22-4, Thiệu và Khiêm được Mỹ đưa ra phi trường Tân sơn Nhất bay qua Đài Loan. Trước đó 20 ngày, gia đình, của cải của hai vị nầy đã được an toàn chuyển ra ngoại quốc» (tr. 360).
Nhiều tài liệu Anh Pháp nói đến 16 tấn hàng hóa. Theo Lý Quý Chung, thân cận của tướng Minh, ông Thiệu trốn chạy ( Chung, tr. 362).
Cùng một sự kiện, 4 tác giả thuật lại bốn cách khác nhau.
TT. Thiệu rời khỏi nước yên ổn, Martin thở phào. Ông lên xe đến dựcuộc tiếp tân ở toà đại sứ Ba Lan.
Sau đây là câu chuyện giọng nhát gừng giữa 2 ông đại sứ:
-Martin: Cộng Sản Bắc Việt có chấp nhận Dương Văn Minh không ?
– Fijalkowski (đại sứ Ba Lan): Sẽ hỏi Hà Nội. Nhưng có câu hỏi của Hà Nội: Tại sao hàng không mẫu hạm Mỹ lảng vảng ngoài khơi hải phận VN.
– Martin: phải hỏi lại Hà Nội của các anh, tại sao có dàn hỏa tiển gần Saigon. Hà Nội có muốn gây khó khăn cho Hoa kỳ trong công cuộc di tản không? (Todd, tr.340)
Về dư luận ông Thiệu ra đi với 16 tấn vàng, Snepp, nhân viên CIA tường thuật rất rõ (tr.296)
«Một tháng trước, Thiệu đã gởi qua Đài Loan và Canada một phần lớn tài sản và bàn ghế bằng tàu thủy. Nhưng tài sản của quốc gia, 16 tấn vàng trị giá 220 triệu mỹ kim, tượng trưng cho một phần lớn kho bạc của Saigon cũng sẽ đi ra nước ngoài (à expatrier). Lúc đầu, ông Thiệu dự tính gởi lén lút số vàng này vô Ngân hàng Thanh Toán Quốc Tế Bâle (Banque des règlements internationaux de Bâle) ở Thụy Sĩ, nơi mà chánh phủ đã có gởi một số vàng bảo đảm trị giá 5 triệu. Ông Thiệu nói với các cộng sự viên là gởi vàng để mua trang bị cho quân đội. Nhưng vài ngày trước khi gởi, tình báo Mỹ biết được nên tin tung ra trên báo chí, hảng hàng không mà ông Thiệu đã thương thuyết hợp đồng rút lui. Để giải tỏa mọi nghi ngờ, đại sứ Martin buộc ông Thiệu gởi số vàng nầy ở Federal Reserve Bank of New York, ông Thiệu phải đồng ý. Ngày 16 tháng 4, Martin xin Washington một chuyến bay đặc biệt, có bảo hiểm để chở số vàng nầy đi New York. Nhưng Không Lực Mỹ cũng như Ngân Hàng không chấp nhận bảo hiểm chuyên chở một món hàng trị giá quá lớn như vậy từ một nước đang có chiến tranh. Câu chuyện đang dằng co thì 2 ngày sau, ngày 18 tháng tư, 16 sư đoàn Cộng Sản đang hướng về Saigon, chuyện chở vàng bị quên đi và 16 tấn vàng vẫn ngủ yên trong Ngân Hàng Quốc Gia»
Đến ngày 25, sau khi giải quyết vấn đề bảo hiểm, vàng được đưa lên phi cơ để chở đi New York, nhưng giờ chót bị Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo (nội các Nguyễn Bá Cẩn) chận lại nói là theo lịnh của TT Hương chờ cho tân nội các được thành lập. Số vàng nầy vẫn còn nằm trong phi cơ đậu ở phi trường khi quân CS tiến chiếm Saigon. Cũng theo Snepp, tuy không hẳn là theo CS, Nguyễn Văn Hảo đã được CS móc nối hồi đầu tháng tư là sẽ được chế độ mới đối xử tốt nếu bảo vệ kho bạc VNCH. (Snepp. tr.328).
Chuyện ông Thiệu muốn tẩu tán vàng là một tin đồn, nhưng chuyện vàng bị các lãnh tụ đỏ sau nầy bu vào đục khoét là chuyện thực !
-Ngày 26: Lúc 10 giờ sáng, TT Hương đến hợp với lưỡng viện Quốc hội để được báo cáo tình hình quân sự và quyết định người thay thế ông Hương. Có 183 trên 219 người đến tham dự (Darcourt) nhưng theo Lý quý Chung thì chỉ có 136 vì nhiều người đã chuồn ra nước ngoài (LQC, tr.366).
Trong diễn văn, ông Hương không gọi đích danh Dương Văn Minh mà gọi là «người ấy» (cette personne):
« Trước hết tôi đã đề nghị với người ấy chức vụ Thủ Tướng với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại dinh Độc Lập, ông ta cũng từ chối. Với thiện chí muốn giải quyết vấn đề, tôi không kể nghi thức và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi phải chấp nhận đến nhà một người bạn chung để gặp người ấy. Tôi đề nghị với người ấy chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng một lần nữa, chẳng những người ấy từ chối mà còn nói với tôi là: Phải có tất cả không thì thôi, có nghĩa là chỉ có Tổng Thống. Tôi lưu ý làm như vậy là vi hiến, ông ta trả lời rằng: đó không phải là việc của ông ta. Sau đó tôi có đặt cho ông ta một câu hỏi: Có gì bảo đảm là phía bên kia chấp thuận thương thuyết với ông thì ông ta trả lời ngắn gọn là: Tôi đã nhận được từ phía bên kia những cam kết cần thiết để làm tròn vai trò.
Mặc dù tôi nhấn mạnh nhưng ông ấy không có thêm một lời giải thích nào khác ngoài những lời úp mở mà tôi không tin vào những lời đó. Tôi sẽ không bao giờ muốn chịu trách nhiệm về việc trao quyền một cách bất hợp hiến, vì vậy, hôm nay, tôi yêu cầu quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người ấy bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc hội. Đó là phương thức duy nhất vừa để cứu Saigon khỏi bị một thảm họa mà không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ.»
Tuy nhiên,theo bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, cựu Tổng Trưởng Thông Tin Chiêu hồi trong nội các Trần Văn Hương ghi âm lại, đăng trong Đặc San Pétrus Ký 1966, thì T/T Trần Văn Hương đề cập đích danh tên Dương Văn Minh:
«…Với ý nghĩa đó, nghĩa là ý nghĩ thương thuyết, tôi đã ra công dò xét tìm bên này, tìm bên nọ, hỏi thăm dò ý kiến mọi nơi. Tới bữa nay cũng nói với quý vị là tôi có dịp đã gặp được Đại tướng Dương Văn Minh, bởi vì theo lời một số người, thì Đại tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện làm việc này. Trong các cuộc gặp gỡ, trong một tư thất của một người bạn chung – bởi vì họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung
– Sau khi nói chuyện, tôi nói rằng: “Theo dư luận, một số người nói rằng Anh – xin lỗi, bởi vì giữa Đại tướng với tôi cũng còn cái thâm tình nhiều – người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm qua, mọi chuyện không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phía bên kia.” Đại tướng, lẽ cố nhiên đối với tôi lúc nào cũng giữ thái độ chẳng những là người bạn thân mà giữ cả thái độ, xin lỗi, như thể một người học trò của tôi vậy, mặc dù Đại tướng không phải là học trò của tôi, Đại tướng nói: “Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi.” Nghĩa là trao cái quyền tổng thống cho Đại tướng…»
Nếu bài viết của Nguyễn ngọc An là trung thực, sự khác biệt các tài liệu ngoại ngữ viết về VN lại còn phát xuất bởi sự diễn dịch và phiên dịch của tác giả ngoại quốc và tác giả người Việt.
Sau khi TT Hương rời trụ sở Thượng Viện, cuộc thảo luận kéo dài từ 14 giờ đến 22 giờ mà kết quả là đi đến một quyết nghị lửng lơ: Quốc Hội nhìn nhận TT Hương có đầy đủ tư cách để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy nhiệm để xúc tiến cuộc thương thuyết. Tên của Dương Văn Minh không được ghi trong bản quyết nghị này (Darcourt, p.151).
Nhưng theo Lý Quý Chung, trong Hồi ký của ông thì hoàn toàn khác: «Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20giờ 54… Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở Thượng Viện trước và sau biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chết đuối là các dân biểu nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không bắt kịp cơ hội cuối cùng »(LQC, tr.367, 368).
Theo ông Đôn, cũng trong Hồi Ký thì «đa số nghị sĩ dân biểu nghiêng về biện pháp trao quyền cho ông Hương chỉ định Thủ Tướng toàn quyền vì cho rằng ông Minh xem thường Quốc Hội» và sau đó ông Hương gọi điện thoại với ông và nói:«tôi sẽ chỉ định anh làm Thủ tướng» (Đôn, tr. 468,469)
Trong khi lưỡng viện Quốc Hội đang họp, lúc 12 giờ, Võ đông Giang, đại diện cho Mặt Trận trong Ủy Hội Kiểm soát ở Camps Davis (Tân Sơn Nhứt) tuyên bố: Đạo quân chúng tôi tiếp tục tiến công, không có ngưng bắn.
– Ngày 27 tháng tư:
*4 giờ sáng, nhiều tràng hỏa tiển bắn vào Saigon: thiệt hại: 9 người chết, 36 bị thương, những đám cháy nhà cửa và hảng xưởng khiến 2000 người không nơi cư trú.
* 12 giờ: TT Hương gởi văn thư hỏa tốc cho Chủ tịch Thượng Viện: Theo hiến pháp Quốc Hội phải ra quyết nghị người thay thế tôi rõ ràng.
* 15 giờ: «Đại sứ Pháp điện thoại cho tôi [Đôn] biết: 6 giờ chiều nầy nếu không có gì thay đổi thì Hà Nội sẽ pháo kích vào Saigon bằng súng cối 130 ly có tầm bắn xa 30 km» (Đôn, tr.471)
* 19 giờ:Trước khi dân biểu nghị sĩ bắt đầu thảo luận, tướng Trần Văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc phòng (nội các NBCẩn) thuyết trình tình hình quân sự:
«14 sư đoàn Bắc Việt được trang bị võ khí hùng hậu đang bao vây Saigon. Biệt kích và đặc công đã xâm nhập vòng đai. Không quân của ta đã hành quân liên tục từ nhiều ngày qua nên các phi công và phi cơ đã quá sức chịu đựng, ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng bởi phòng không của địch. Căn cứ Không quân Biên Hòa gần như đã bị tê liệt vì pháo lực của CS. Trong vài ngày, cũng có thể trong vài giờ, có thể Saigon sẽ bị tàn phá bởi đạn pháo 130 ly tầm xa của CS. Nhứt định ta phải thương thuyết với họ để ngưng bắn càng sớm càng tốt»
Các dân biểu nghị sĩ la ó, phản đối tướng Đôn: Đồ hèn nhát, chủ bại, bị bán đứng rồi, Tướng phòng ngủ. Tướng Đôn và các quân nhân tháp tùng rời phòng hợp trong nhục nhả (Darcourt, p.154).
Hồi ký của tướng Đôn không đề cập gì đến sự kiện nầy.
Sau 4 giờ thảo luận sôi nổi, Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (120 phiếu thuận, 32 phiếu chống, 20 phiếu trắng theo Darcourt ; 136 phiếu thuận, 2 phiếu trắng theo Todd.
Trong lúc đó, chuyến máy bay do Polgar tổ chức chở Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Khắc Bình, Hoàng Đức Nhã và một số nhân vật đi Phi luật Tân.
Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (AP Photo/Errington)
*20 giờ, con đường nối liền Saigon-Biên Hòa bị cắt đứt, 700 quân nhân của Sư đoàn 18 bị mất liên lạc và quốc lộ số 4 nối với miền Tây cũng bị gián đoạn ở nhiều nơi. Saigon trở nên cô lập như một hòn đảo.
Trong khi đó, cuộc di tản tuy chậm, nhưng diễn tiến trong trật tự . Đến 12 giờ trưa ngày 27 đã có 35.245 người đã được Mỹ bốc đi. Các tòa đại sứ, trừ tòa đại sứ Pháp, cũng bắt đầu đóng cửa và di tản nhân viên bằng đường hàng không.
Ngày 27 cũng là ngày Bắc Việt đổi ý về chiến lược. Theo đại sứ Martin, tuy là hồi tháng ba, ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự, nhưng những tin tức khác tử Mặt Trận giải phóng ở Paris cũng cho biết là họ cũng muốn có một giải pháp chính trị, và Martin cũng suy luận là CS dùng giải pháp chính trị để có thể tiếp tục được viện trợ của quốc tế khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng không hiểu vì lý do gì, theo Martin thì đêm 27 tháng 4, CS đã dứt khoát chọn chỉ giải pháp quân sự ( Martin Graham. Vietnamese evacuation: testimony of Ambassador Graham Martin. International relations, January 27, 1976 , p. 609, trích dẫn bởi Nguyển Tiến Hưng, tr.391).
3.Phần kết
-Ngày 28
Saigon đã thật sự hấp hối. Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, người di tản ố ạt đến tòa đại sứ Mỹ tràn ngập sân sau, trèo tường, song sắt để xin được di tản. Từ sớm tinh sương, trực thăng của hảng Air America đáp xuống nóc tòa đại sứ để tiếp tục đưa các chánh khách và tướng tá VN đến Tân sơn Nhứt hay ra hạm đội, trong số có Cao Văn Viên.
Trong khi lực lượng Cộng Sản đang tiến về Saigon từ nhiều hướng, thì « tại tư dinh ở số 3 Trấn Quý Cáp, suốt buổi sáng, Dương Văn Minh vùi đầu vào việc chọn lựa các nhân vật thất sũng trong chánh giới Saigon để tìm người cho nội các. Các ứng cử viên lần lượt đến tư dinh ông để xin chức, ông lạnh lùng tiếp đón, gật đầu chào rồi bảo họ ra vườn lan ngoài sau mà chờ. Nhưng ông không bằng lòng các ứng viên bởi lẽ người này là diều hâu, người kia là bồ câu, nên sau cùng ông chọn trình diện nội các với 3 người»(Snepp 355)
Lúc 17 giờ, lễ bàn giao giữa TT Trần Văn Hương và Dương Văn Minh diễn ra tại dinh Độc Lập với các ông Nguyễn Văn Huyền Phó Tổng thống, Vũ Văn Mẫu ThủTướng.
« Khi tân TT Dương Văn Minh vừa bắt đầu bài diễn văn nhậm chức của mình thì sét đánh ầm ầm, một trận mưa to chưa có trong nhiều năm ập xuống Saigon, thậm chí quan khách dự lễ không nghe được ông Minh nói gì. Cái không khí chung của buổi lễ nhậm chức thật buồn não» (LQC tr.354).
Ông Minh tuyên bố muốn điều đình với chánh phủ Mặt Trận Giải Phóng Giải Phóng và chánh phủ miền Bắc trên căn bản hiệp định Paris và một cuộc ngưng bắn.
Ông Minh chấm dứt diễn văn lúc 17giờ 48 phút. Một giờ sau, đài phát thanh Mặt Trận Giải Phóng lên tiếng:«Sau sự ra đi của tên phản quốc Nguyễn Văn Thiệu , những tên thay thế như Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ văn Mẫu muốn duy trì chiến tranh để kéo dài chế độ chư hầu của Mỹ. Nhưng chúng chẳng lừa được ai và quân đội giải phóng chỉ chấp nhận một cuộc ngưng bắn với hai điều kiện: ngụy quân Saigon buông súng và hạm đội Mỹ rời khỏi hải phận miền Nam VN.Các binh sĩ nào còn nghe lịnh của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm gương» (Todd, 355)
Khi ông Minh và đoàn tùy tùng từ Dinh Độc Lập trở về «dinh Hoa Lan» (nhà của DVM) thì nghe vang lên những tiếng nổ rung chuyển cả Saigon. Năm phản lực cơA-37 mà quân CS vừa mới chiếm được xuất phát từ Nha Trang, dưới sự chỉ huy của Trung úy Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt và vùng Hốc Môn. Tại Paris. tổng trưởng ngoại giao Pháp tiếp đại sứ Bắc Việt Võ văn Sung và đại diện Mặt Trận Phạm Văn Ba để bày tỏ sự ngạc nhiên về sự trở mặt của Cộng Sản. Vai trò trung gian mà Pháp nghĩ rằng mình có thể đóng góp trong cuộc giàn xếp chính trị vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đã hoàn toàn thất bại.
-Ngày 29 tháng tư
Saigon hôm nay bắt đầu thực sự đi vào cơn hỗn loạn.
*Từ 4 giờ sáng, đại bác của CS bắn vào bộ chỉ huy của Tổng Tham Mưu ở Tân Sơn Nhứt và bộ tư lệnh hải quân. Nhiều kho súng và kho săng bốc cháy, bùng nổ.
* 6 giờ sáng, Văn tiến Dũng ở Bến Cát nhận lời khen ngợi của Bộ Chính trị ở Hà Nội và yêu cầu Dũng tiến quân thần tốc.
*10 giờ sáng, đài phát thanh Saigon đọc bức thư của Dương Văn Minh gởi cho Martin:
«Tôi trân trọng yêu cầu ông đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi VN trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4, 1975 để vấn đề hoà bình của VN sớm được giải quyết» (Todd p. 362).
Bình luận về ông Minh, Kissinger đã viết:« Ông Minh làm Tổng Thống không tới 72 giờ, chỉ đủ làm được hai việc quan trọng: một là yêu cầu Hà Nội ngưng chiến và thương thuyết chính trị, điều mà Hà Nội đã từ chối thẳng thừng, và hai là ngày 29 tháng tư, ông yêu cầu tất cả người Mỹ rút ra khỏi VN 24 giờ. Bức thư này phù hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi, nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình» ( Hưng, tr.393).
Ông Hoàng ngọc Thành tiết lộ một chi tiết «ly kỳ» hơn: Tòa đại sứ Mỹ soạn một văn thư cho tuớng Minh yêu cầu người Mỹ rút đi trong vòng 24 giờ và bảo cho đọc trên đài phát thanh Saigon. Dương Văn Minh kể cho bà con và bạn hữu biết là ông đã làm như đại sứ Graham Martin bảo (Thành,tr. 568).
Nếu quả tình sự việc như vậy, VN đã đến hồi mạt vận vì một nhân vật luôn có mặt trong những cơn khủng hoảng chính trị lớn, chỉ vì muốn làm tổng thống mà hạ mình nhận lệnh của Pháp và của Mỹ.
Trong khi đó, Saigon bắt đầu một cuộc hỗn loạn không tả được. Từng đoàn người tràn vào chiếm kho hàng ở Tân Cảng, súng đạn tủa ra khắp nơi, người ta đạp trên xác chết quân sĩ và đặc công.
Thành phố không còn có chỉ huy: D V Minh đã cách chức tướng Bình, 60 000 cảnh sát và 10 000 cảnh sát dã chiến không biết nghe lịnh ai, quân đội cũng thay đổi tham mưu trưởng 3 lần trong 24 giờ: hôm kia là Cao Văn Viên, nhưng ông đã ra đi cùng với tham mưu phó, hôm qua là tướng Nguyễn Văn Minh và Vĩnh Lộc, nhưng mỗi người chỉ có vài giờ rồi cũng bỏ đi cùng với Chung Tấn Cang, Mai Hữu Xuân, Nguyễn cao Kỳ , Ngô Quang Trưởng, nói chung có 60 vị tướng lãnh.(Darcourt)
Theo tài liệu lưu giữ tại BảoTàng Viện ở San Jose thì vào thời điểm tháng 4-1975, VNCH có 112 tướng lãnh, 80 tướng đã rời VN vào cuối tháng 4.
Trường hợp của Đặng Văn Quang thì bi đát và nhục nhã hơn. Pierre Darcourt đã kể:
«Một cảnh tượng bi đát đã xảy ra ở cổng tòa đại sứ. Tướng Đặng Văn Quang mà nhiều người tố cáo là đứng đầu đường dây buôn lậu ở VN lại không có tên trong danh sách di tản của người Mỹ. Binh sĩ gác cổng đuổi ông đi. Ông phải chạy lại van nài nghị sĩ Nguyễn Văn Ngải giúp ông xin trực thăng bốc đi. Có ai ngờ, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, ngạo mạn kiêu căng, tác oai tác phúc ở dinh Độc Lập suốt mấy năm trời thì nay chỉ là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết quỳ lạy cầu khẩn rồi viện dẫn mạng sống của vợ con và của chính ông vì sẽ bị CS giết. Động lòng, nghị sĩ đưa ông ta cùng đi chung nhưng không nói tên ông ta là ai….» (Darcourt,194 ). Theo Snepp, thì Quang nhờ sự giúp đỡ của Polgar dù nhiều nhân viên CIA không muốn thấy mặt Quang ví Quang đã được CIA trả lương mà đã phản bội không báo cho CIA biết kế họach rút quân của TT Thiệu. Trong cơn hốt hoảng, Quang bỏ quên đứa con trai cùng đi với ông ở ngoài hàng rào sắt của tòa đại sứ. (tr.392)
Trường hợp của Trần Văn Đôn thì lại rất tàn nhẫn với thuộc cấp. Trước khi hối hả leo lên trực thăng cùng với con trai là một bác sĩ, ông Đôn nói với đoàn tùy tùng: « các anh ở lại, các anh không có chức vụ, không có gì nguy hiểm». Những quân nhân nầy vừa đau khổ, vừa khinh bỉ nhìn theo chiếc trực thăng cất cánh. (Darcourt, p. 194)
Lartéguy châm biếm: «Hôm qua là Phó thủ tướng, múa may, tưởng có thể thay thế Minh, bi đát hóa tình hình để đẩy Hương đi. Hôm nay, hối hả bỏ chạy, không thông báo cho cả viên đại tá chánh văn phòng khiến ông này sau đó tự tử .Ông Đôn chỉ là kẻ thừa hành của chánh phủ Pháp.» (Lartéguy , p.129)
Trong khi đó, cuộc di tản đang đến hồi lên cơn sốt.
*10 giờ 40: từ phi trường Tân Sơn Nhứt, tướng Homer Smith, chỉ huy trưởng DAO điện đàm với đô đốc Noël Gayler, tư lịnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương ở Honolulu là phi trường TSN không còn sử dụng được cho cho phi cơ C-130 nữa. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Gayler áp dụng «Giải pháp số 4» tức di tản bằng trực thăng.
* 12 giờ 30: 36 trực thăng vận tải khổng lồ được yểm trợ bởi các trực thăng chiến đấu Cobra rời hàng không mẫu hạm Hancock.
* 15 giờ: Thủy quân lục chiến thiết lập 3 bãi đáp trực thăng ở khu quân sự trong sân bay TSN.
Có 3000 người chờ đợi di tản. Trên không phận Saigon, trực thăng của Đệ Thất hạm đội, của CIA, của Air America bay rà rà trên nóc các cao ốc tụ điểm, lên xuống phi trường được phi cơ chiến đấu Phantom sẵn sàng can thiệp khi cần thiết. Lực lượng hải lục không quân được huy động như chưa bao giờ có sau trận đổ bộ Dunkerque năm 1940.
* Buổi chiều, trước cửa tòa đại sứ Mỹ có độ 20 000 người chen chúc nhau, hàng ngàn người đổ về bến Bạch Đằng để tìm bất cứ phương tiện nào bằng đường biển, xe cộ vật liệu vất bừa bãi trên đường phố, người dân nhốn nháo, thất thần. Martin áp dụng phương thức di tản người Việt: người đến trước, được di tản trước (premier arrivé, premier servi). Đây là dịp cho các người Mỹ làm tiền các nhà giàu người Việt bằng cách mạo nhận là thân nhân để đưa đi, bán thẻ lên tàu của nhân viên dưới quyền cho người Việt chịu mua với giá từ 5000 đến 10 000 mỹ kim. «Tướng Cao Hảo Hớn, cố vấn TT Thiệu thay vì phân phối 50 thẻ di tản cho bộ tham mưu, đem bán mỗi vé 1000 mỹ kim» (Terzani, p.61)
* 10 giờ đêm (10 giờ sáng Washington): báo cáo từ Saigon về Ngũ Giác Đài cho biết cuộc di tản người Mỹ ở Cần Thơ và ở Vũng Tàu tốt đẹp, trong lúc ở Saigon hỗn loạn.
– Schlesinger điện cho Martin: còn 400 nhân viên tòa đại sứ phải di tản hết và gấp rút.
– Martin trả lời giọng giận dữ: Hãy chỉ cho tôi phương pháp ép những người Mỹ ra đi khi phải bỏ vợ con ở lại [vợ VN và con lai Mỹ]. Đã 4 giờ rồi, tôi đã báo cho Gayler biết là tôi cần 30 phi vụ CH-53, [chở được 50 người, chen chúc được 70] mà bây giờ tôi chỉ có một CH-46 [nhỏ hơn]
Một giờ sau, từ tòa Bạch Ốc, Don Rumsfield yêu cầu Martin di tản 150 nhân viên IBM còn kẹt ở Saigon. Martin lồng lộn: Hãy cút đi, để cho tôi yên ! Trong lúc đó, hải quân lục chiến hối hả tiêu hủy hồ sơ, các trang bị máy móc mà người Mỹ đã trang bị hùng hậu từ 10 năm qua (chỉ hồ sơ của CIA là 14 tấn).
*12 gìờ đêm: Martin điện cho Gayler: Chẳng nhận được gì 20 phút qua, chắc tôi phải ở lại đây ngày 30 tháng tư. Và điện cho Kissinger, Martin trêu cợt: Nếu không suôn sẻ, tôi sẽ qua tòa đại sứ Pháp xin tá túc, và chắc tôi sẽ được ngủ trong phòng của bà Mérillon, và hi vọng bà còn ở đó chớ không ở Paris» (Todd p. 378)
-Ngày 30 tháng tư
*2giờ 30 sáng, tại tòa đại sứ còn 1.000 người Việt, 53 nhân viên dân sự và 173 thủy quân lục chiến, trong khi ở phi trường TSN còn độ 2000.
* 3 giờ 45: Martin nhìn đám người trong sân và tuyên bố: những trực thăng đáp trên nóc tòa đại sứ chỉ dành cho người Mỹ.
* 4 giờ 42: chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 9 đáp xuống nóc. Viên phi công trình lệnh của Tổng Thống: Martin phải lên phi cơ. Nếu Martin không tuân lệnh, viên phi công còn có một lệnh khác của Gayler, tư lịnh Mỹ vùng Thái Bình Dương là áp giải Martin.
Bước xuống HKMH Blue Ridge Đại sứ Martin trong một tâm trạng chán nản và mệt mỏi
Theo Darcourt, Đại sứ Martin đánh giá cuộc di tản không ra gì, muốn ở lại và chết ở đó. Với một tâm trạng rối loạn, mệt mõi (ông đã thức suốt 72 giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm Blue Ridge, vào phòng đóng cửa lại để không ai thấy nỗi thất vọng của ông.
* 7 giờ 53: chiếc trực thăng cuối cùng chở những binh sĩ cuối cùng (thực ra còn 2 xác thủy quân lục chiến ở Tân Sơn Nhứt), yểm trợ bằng 6 trực thăng võ trang Cobra rời tòa đại sứ. Họ ném hơi cay trên đầu 420 người Việt còn đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác.
Lá cờ Mỹ đã cuốn đi mang theo nỗi thất vọng, cay đắng, oán hờn, sung sướng, của người Việt bắt đầu một trang sử mới.
*8 giờ sáng, tại dinh Phủ Thủ Tướng, ông Dương Văn Minh họp cùng các nhân vật quan trọng của nội các mới như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu để trình bày tình hình quân sự và chính trị đã đến hồi tuyệt vọng, cuộc thương thuyết với chánh phủ Mặt Trận Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua trung gian của Pháp kể như không có trong khi thành phố Saigon đã hỗn loạn cực kỳ.
«Nhiều toán quân sĩ VNCH lang thang trong thành phố, họ vứt bỏ vũ khí, quân phục. Bọn cướp bóc tràn ngập trong thành phố, súng bắn loạn xạ» (Todd, p.390).
* 9g30: sau phiên họp, nội các Dương Văn Minh đến dinh Độc Lập dự định theo chương trình để bàn giao với Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng cuộc bàn giao không xảy ra mà họ chờ quân giải phóng đến.
*11g30: «tiếng chân người vang dội trong đại sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô từ phía đại sảnh: Mọi người đi ra khỏi phòng… Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống DVM… Có tiếng hô to: Mọi người giơ hai tay lên. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi sau đều nhất loạt giơ tay…Một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: Anh hãy viết một bản tuyên bố đầu hàng. Ông Minh trả lời rằng sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng…Ông Minh vẫn đứng yên lặng.
Fall of Saigon
Viên chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng…Trước khi rời dinh Độc Lập đến đài phát thanh, ông Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: Vợ tôi vẫn ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm. Viên chỉ huy đáp: Anh hãy yên tâm…Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của bộ đội…Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát lúc 13 giờ 30…» (LQC, tr.410-412).
Trần Văn Đôn thuật dựa vào những điều nghe biết sau 30 tháng tư (vì ông đã ra đi): «Sau đó họ mời ông Minh, ông Mẫu và một người nữa lên xe jeep đi. Sau này tôi biết họ chở lại gặp tướng Trần Văn Trà. Tướng Trà nói: Tôi mời mấy ông về đây để uống trà với tôi. Tôi là Trà đây. Chiến tranh đã kết thúc rồi. Không có ai thắng ai bại» (Đôn, tr. 485). Và cũng với luận điệu ấy, Đôn đã viết: «Ai cứu dân chúng Saigon khỏi đổ máu. Không phải Kissinger, không phải đại sứ Mỹ, không phải đại sứ Pháp. Saigon không đổ máu là nhờ Dương Văn Minh».
Pierre Darcourt kể lại với nhiều chi tiết sống sượng hơn:
«Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng đỏ bao quanh dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng lớn, cán lên trên rồi tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một chiếc xe vận tải chạy đến, qua mặt các chiến xa. Tất cả mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miên Nam…
Vị sĩ quan cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp nên nói:
– Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông từ sáng để trao quyền cho ông.
– Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có quyền nào để trao cho tao cả. Chúng tao đạt được quyền bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy không được ngồi xuống. Gương mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh miệt của người sĩ quan khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ bình tỉnh và nhẹ nhàng nói:
– Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua.
Viên trung tá xẳng giọng
– Tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản cho tụi bây. Chúng tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một hôp thịt mặn.
Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam trong một phòng. Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí» (Darcourt, p.209).
*Lúc 16 giờ 30, tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng dưới dinh Độc Lập. Một phóng viên của nhật báo Quân đội giài phóng hỏi ông
– Ông nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua?
Ông Minh ngập ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường sử dụng:
– « Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng thực hùng mạnh, quân đội Saigon không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu hàng không điều kiện mà thôi…
Chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi đâu có đem cả gia đình chúng tôi đến đây để đón các ông. Các ông đã đạt được chiến thắng một cách nhanh chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi bình yên, thật là may mắn » (Darcourt, tr. 213)
Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH cũng lưu hậu thế với những câu nói bất hủ.
* Ông Nguyễn Văn Huyền thì dè dặt hơn: «Chúng tôi không chấp nhận cuộc di tản. Là người VN, mình phải ở lại sống trên quê hương mình chớ»
* Ông Vũ văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót: «Các anh đánh hay lắm. Tôi rất sung sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng ta với chúng ta mà thôi. Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói: Kể từ hôm nay thì tôi sẽ để tóc lại được rồi»
* Ông Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói lớn:«Các anh thật đáng phục vì đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất nước sẽ được sửdụng để xây dựng đất nước chúng ta». (Darcourt, tr.213)
Trong khi các chánh khách 30 của VNCH đầu hàng CS và tranh nhau nịnh bợ chánh quyền mới, trên khắp các nẽo đường đất nước, quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng tá tử tiết thay vì đầu hàng. Chỉ cần đan kể một vài anh hùng liệt sĩ: các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai…
Trong lịch sử chiến tranh, không có cuộc chiến nào để lại một khối lượng sử liệu khổng lồ, đa dạng và phức tạp như chiến tranh VN. Tại Hoa Kỳ, có ít nhất 10 đại học danh tiếng có bộ sách về chiến tranh VN trong đó trung tâm Texas Tech University được xem như quan trọng nhất.Ghi lại những biến cố chỉ trong tháng 4 từmột số tài liệu mà độc giả có thể tìm được dễ dàng trong các thư viện công cộng hay nhà sách, chúng tôi muốn nói lên bản chất dị biệt của các tài liệu qua các nguồn tư liệu và tác giả.
Sự dị biệt ít nhiều và bàng bạc qua gần 20 tài lệu mà chúng tôi tham khảo, nhưng chúng tôi chú tâm đặc biệt vào hai biên khảo-hồi ký căn bản của biến cố tháng tư viết bởi hai cộng sự viên quan trọng của Tổng Thống Thiệu là Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH và Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cố vấn đặc biệt của Tổng thống. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, qua lời văn tuy ôn tồn nhưng quyết liệt, ông Viên đã dành một chương «Lời bạt» thêm vào quyển quân sử The final Collapse do ông soạn thảo cho Trung Tâm Quân sử lục quân Hoa Kỳ phổ biến hạn chế năm 1983 và Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ với tựa đề là Những ngày cuối cùng của VNCH, xuất bản năm 2003, để làm sáng tỏ và đính chính một số sai lầm, thiếu sót viết về ông và về Bộ Tổng Tham Mưu do ông điều khiển mà tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã viết trong quyển The Palace File xuất bản năm 1986 và ấn bản Việt ngữ tựa là Hồ sơ mật Dinh Độc Lập xuất bản năm 1987.
Đa số độc giả cũng như chúng tôi không am tường các chuyện bí mật chính trị và quân sự, cho nên chuyện đúng hay sai là chuyện của các chuyên gia và nhà sử học, do đó khi chúng ta đọc những tài liệu loại nầy, chúng ta thường đọc bằng cảm tính qua văn phong của tác giả. Chúng ta có khuynh hướng nghiêng (tin) về người bị chỉ trích, bị hạ bệ và phản kháng (không tin) người dao to búa lớn, đại loại, tôi đã khuyên tổng thống chuyện nầy, can thiệp với ông đại sứ nọ… Đó là điều mà chúng tôi gọi là đem tâm tình đọc lịch sử.
Ngoài việc viết thiếu trung thực lịch sử vì vô tình hay cố ý, một hiện tượng khác còn trầm trọng hơn là việc ngụy tạo tài liệu đã đưa độc giả đến những hiểu biết sai lệch mà điển hình là vụ quyển sách Saigon et moi của cựu đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon mà từ hàng chục năm nay, cứ đến tháng tư thì tái xuất hiện như một thứ «cá tháng tư» (poisson d’Avril).
Nhiều sách báo đã phổ biến, trích dẫn «con cá tháng tư» này như chuyện thật.
Cách đây một tháng, nhiều bạn hữu lại chuyển cho chúng tôi qua internet một bài đọc dưới dạng mp3 về một chương sách tưởng tượng trong quyển sách ngụy tạo Saigon et moi. Đại ý, Jean-Marie Mérillon đã dàn xếp được với Mặt Trận Giải Phóng để chấp nhận Dương Văn Minh thành lập một chánh phủ liên hiệp để thoát khỏi gọng kềm của CS miền Bắc nhưng Dương Văn Minh đã phản bội lời hứa, thay vì đi Trảng Bàng để gặp Trần Văn Trà trong toan tính này thì lại đầu hàng với hi vọng sự nhượng bộ này sẽ được CS tưởng thưởng.
Ngoài ra, bài đọc (từ bài viết) còn có những chi tiết giựt gân, cảm động, đánh trúng cái khát vọng của người di tản không muốn VNCH chết một cách tức tửi và oán ghét những chánh khách bất tài, xôi thịt, hèn hạ.
Tác giả của nguồn tin này (ông Vũ Hải Hồ) cho là quyển sách xuất bản năm 1985, được ra mắt ở khách sạn La Fayette với sự chứng kiến của Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing và nhiều nhân vật chính trị quan trọng của Pháp, nhưng sau đó mấy ngày thì bị Bộ ngoại giao tịch thu.
Lối giải thích quả tình phi lý vì chế độ kiểm duyệt sách báo ở các quốc gia Tây Phương là chuyện không có, còn chuyện thu hồi một quyển sách hồi ký đã xuất bản lại còn là chuyện thần thoại hơn.
Ngoài ra, trong việc phát triển bộ sách tiếng Việt và sách ngoại ngữ viết về VN cho thư viện thành phố Montréal, chúng tôi có theo dõi trong nhiều năm thời ấy trong các thư mục các nhà xuất bản trên thế giới như Books in prints, Livres disponibles để mua cho thư viện, nhưng không hề thấy tên quyển sách này.
Để chứng minh quyển Saigon et moi không có, GS Tiến sĩ Sử học Hoàng ngọc Thành và Bà Thân thị Nhân Đức trong tác phẩm «Những ngày cuối cùng của Ngô Đình Diệm», xuất bản năm 1994, nơi trang 622 và 623 (trang 574 ấn bản năm 1996, phụbản trong ấn bản năm 1999) có nói rõ về vấn đề này.
Nguyên là ông Hoàng Ngọc Thành khi sang Paris năm 1989 không tìm mua được quyển Saigon et moi, nên có liên lạc với ông Mérillon, lúc ấy làm đại sứ ở Moscou để hỏi rõ . Ông Mérillon đã phúc đáp GS Thành nguyên văn nhưsau:
République Française
Ambassade de France En URSS
L’Ambassadeur
Moscou le 12th November1990
Dear Dr Thanh,
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you.
As far as the book«Saigon et moi» is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it.
Should I visit California, I shall not fail to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain
Yours sincerely,
Jean- Marie Mérillon
merillonletter
Khi viết biên khảo, các tác giả có khuynh hướng sử dụng những tài liệu trích dẫn từ những tài liệu tham khảo cấp hai hay cấp ba mà không phải từ tài liệu gốc. Sự sai lầm, nếu có, tuy đáng tiếc, nhưng vẫn có thể hiểu được vì lẽ chúng ta không thể có được trong tay tất cà các tài liệu.
Tuy nhiên, khi đã biết một tài liệu ngụy tạo mà vẫn cố tình sử dụng vì một ý đồ, hành động nầy không thể nào nói khác hơn là một thứ bất lương trí thức. Đó là trường hợp bản dịch quyển « La mort du Viet Nam» của tướng Vanuxem của Dương Hiếu Nghĩa với tựa là «Nước Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử» (Nhà xb Đại Nam, 1997) có một phụ bản đặc biệt từ trang 194 đến trang 221 đăng lại từ tập san Đa Hiệu một chương sách ngụy tạo của Mérillon. Dịch giả đã có lời phi lộ như sau:
«Không ai tìm thấy tung tích quyển sách này ở bất cứ thư viện nào ở Pháp, kể cả Thư viện Quốc Gia Pháp ở Paris. Cũng như sau nầy, chính ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển Saigon et moi hay bất cứ quyển nào khác viết về VN» (sđd, tr. 195).
Đã biết như vậy mà vẫn tiếp tục phổ biến một tài liệu ngụy tạo, chúng tôi không hiểu tác giả có ngụ ý gì nếu không đã mất trí.
Kết luận
Hôm nay, đọc lại những tài liệu cũ về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không giữ được nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh hoàng của những ngày quốc biến của 34 năm trước. Người đọc lịch sử, nhất là lịch sử của tổ quốc mình không thể vô tâm như người ngồi ở ga xe nhìn đoàn tàu đi qua, mà tùy theo cảnh ngộ, người đọc xúc động với biến cố hay suy nghĩ về biến cố. Chẳng phải là sử gia cũng không phải là chính trị gia, đa số người Việt ngoài nước lẫn trong nước đều cảm nhận nỗi bất hạnh của quê hương mình và dân tộc mình đã từ hơn một thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để các cường quốc ngoại bang và các tậpđoàn người Việt, nhân danh những khẩu hiệu giả ân giả nghĩa, đã thay phiên nhau xâu xé, thống trị và bốc lột một dân tộc không ngớt gánh chịu điêu linh. Nhưng nghĩ cho cùng, khi con người đã quá khổ đau, con người chỉ còn biết bám víu vào định mệnh. Nếu nước VNcó một định mệnh thì định mệnh đã bắt VN của chúng ta gánh chịu quá nhiều bất hạnh từ 1945 đến nay mà cái bất hạnh lớn nhất, nguy hại nhất, là chiến tranh VN đã được điều khiển bởi một Kissinger ác cảm khinh miệt chế độ miền Nam và một tập đoàn chính trị miền Nam đa số bất tài, thối nát.
Hôm nay, lần giở lại gần hai mươi quyển hồi ký và biên khảo tiếng Việt và ngoại ngữ trong kho tài liệu khổng lồ về chiến tranh VN, nếu chúng tôi được soi sáng vàđược lãnh hội nhiều sự kiện và nhận định ghi lại với sự trung thực và thành khẩn đáng được xem như những sử liệu giá trị qua vài biên khảo và hồi ký, chúng tôi lại cảm thấy bùng dậy nỗi bất bình với những trang giấy viết để ca tụng mình, phe nhóm mình, nhục mạ chiến hữu mình, phe nhóm đối lập với mình. Tác giả những thiên hồi ký khoác lác nầy đa số là những người đã vinh thân trong cuộc chiến, và giờ đây, họ vẫn không còn biết giữ được chút liêm sĩ còn sót lại để im tiếng, để yên cho những người may mắn thoát chết tiếp tục sống với nỗi đau gặm nhấm. Lịch sử sẽ phải thực sự được viết lại bởi những người viết sử công chính và những quyển hồi ký man trá nầy sẽ phải bị chôn sâu dưới nấm mồ của những tác giả đã đánh mất lương tri.
Trong một cuộc mạn đàm với các bậc thức giả, chúng tôi có bày tỏ nỗi ưu tư là những người di tản thế hệ chúng ta không có cơ may đọc được một quyển chính sử viết về thời kỳ chúng ta đã sống. Một cụ già đã sang sảng trả lời: «Biết làm chi nhiều hơn cho thêm cay đắng. Chúng ta chỉ cần biết rõ ràng rằng chúng ta là nạn nhân của ba sự lừa dối và phản bội, thứ nhất là của đồng minh người Mỹ của chúng ta, thứ hai là của người lãnh đạo phe quốc gia chúng ta và thứ ba là của bọn Cộng Sản Việt Nam».
Chúng tôi chỉ biết gục đầu thấm thía lời phẩn nộ nhưng không dám gật đầu chấp nhận thái độ buông tay.
Chúng tôi vẫn tự hỏi, có thế nào lịch sử cận đại của một dân tộc đã phải hi sinh bao triệu người sẽ được viết bởi những kẻ lừa dối và phản bội?
© Lâm-Văn-Bé (Montréal)
© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam
Chuyển sang dạng text từ PDF files bởi ngv
Sách tham khảo chính yếu:
– Bùi Diễm. Gọng kềm lịch sử. Paris: Cơ sở xb Phạm Quang Khai, 2000. (expanded version of The Jaws of History).
– Cao Văn Viên. Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, dịch từ The Final Colllapse bởi
– Nguyễn Kỳ Phong. Centreville(Virginia):Vietnambibliography, 2003.
–Darcourt, Pierre. Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils. — Paris: Albatros, 1975.
– Hoàng Đống. Niên biểu lịch sử VN, thời kỳ 1945-1975.California: Đại Nam 2005.
– Hoàng ngọc Thành & Thân thị Nhân Đức. Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (ấn bản lần thứ ba).- San José: Quang Vinh, 1999.
– Karnow Stanley. Vietnam: a history.–New York: Viking, 1983.
-Kissinger, Henry, Ending the VN war.–New York: Simon&Schuster, 2003.
– Lartéguy, Jean. L’adieu à Saigon. — Paris: Presses de la Cité, 1975.
– Lý Quý Chung, Hồi ký không tên. — TpHCM: Nhà xb Trẻ, 2004.
– Nesson, Ron. It sure looks different from the inside. — Chicago: Playboy Press, 1978.
– Nguyễn Bá Cẩn. Đất nước tôi. –San Jose: Hoa Hao Press, 2003.
– Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng của VNCH. — Montréal: Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa,1979.
– Nguyễn Hữu An. Chiến trường mới. – Hanoi: Nxb Quân đội nhân dân, 2001.
– Nguyễn Tiến Hưng. Khi đồng minh tháo chạy. – San Jose: Cơ sở xb Hứa Chấn Minh, 2005.
– Nguyễn Tiến Hưng. Hồ sơ mật Dinh Độc Lập.
– Snepp, Frank. Sauve qui peut.– Paris: Éditions Balland, 1979 (dịch từ: Decent Interval.– New York:Random House, 1977).
– Terzani, Tiziano. La chute de Saigon, 30 avril 1975. – Paris: Fayard, 1977.
– Todd, Olivier. La chute de Saigon: Cruel Avril. Paris: Laffont, 2005.
– Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng. – California: Nam Việt, 2006.
– Trần Văn Đôn. Việt Nam nhân chứng. — California: Xuân Thu, 1989.

No comments:

Post a Comment