Sunday, November 17, 2024

TRẬN ĐỨC LẬP 1968: PILOT CHÁNH BỊ THƯƠNG, CƠ KHÍ PHI HÀNH THAY THẾ, ĐƯA TRỰC THĂNG TRỞ VỀ CĂN CỨ AN TOÀN




Lời nói đầu: Vì là một vị trí chiến lược ở tây bắc của tỉnh Quảng Đức VNCH, quận lỵ Đức Lập đã từng xảy ra những trận đánh nổi tiếng trong chiến tranh VN, đã làm tốn rất nhiều giấy mực của các cựu chiến binh Việt-Mỹ. Đồi 722, nay thuộc xã Dak Sak, huyện Dak Mil, tỉnh Dak Nông, năm 1968 là trại LLĐB Đức Lập hay Dak Sak. Hiện nay tại đây có 1 đài tưởng niệm cấp quốc gia của người CSVN, ghi nhớ những chiến binh của họ đã chết trong 4 ngày của tháng 8/1968, khi tấn công trại này và chi khu Đức Lập gần đó. Hôm nay tôi chuyển ngữ bài sau đây của một cựu phi công trực thăng Mỹ. 


"Trận đánh đã bắt đầu lúc 01:05 giờ sáng ngày 23.8.1968. Tại Đức Lập có 2 doanh trại, 1 là trại LLĐB và 2 là chi khu Đức Lập, trong đó có toán cố vấn Mỹ thuộc MACV (viết tắt của BTL Quân viện Mỹ tại Việt Nam -- người dịch). Hai nơi này ko xa nhau lắm, và đều gần biên giới Cam-bốt. Một lực lượng lính thiện chiến của Bắc VN đã tấn công 2 doanh trại trong đêm. Lính LLĐB đã chống trả mãnh liệt, nhưng chi khu (CK) có nguy cơ bị tràn ngập. (Theo sách của Shelby Stanton, tại đây có khoảng 6 cố vấn Mỹ và 1 đại đội ĐPQ -- người dịch). Toán trực thăng võ trang hay gunship của chúng tôi đã xuất phát từ sân bay Ban Mê Thuột (BMT) từ sáng sớm ngày 23.8. 

Chúng tôi hướng tới doanh trại của chi khu, để xem điều gì có thể làm để thay đổi tình thế. Chúng tôi là những người đầu tiên có mặt trên khu vực chiến sự khi hừng đông ló dạng, và đã gặp bất ngờ. Vì quân bắc VN đã đưa súng phòng không vào vùng trong đêm. Nhưng họ đã ko nổ súng trong đêm vì ánh sáng phát ra từ họng súng sẽ là mục tiêu ngon lành cho các oanh tạc cơ và AC-47. Đây là súng phòng không 12.7 ly bốn nòng đặt trên một xe kéo, với bánh xe có thể gập sát đất.

Bruce Chido làm lead của hợp đoàn trực thăng, và tôi, Gilbert Terry, làm trail. Trên máy bay của tôi, Fred Pratt là co-pilot, Bill Goodness là CE hay cơ khí phi hành, và Carey Arney là DE hay xạ thủ. (Trong một hợp đoàn máy bay, lead là trưởng của hợp đoàn, trail làm phó; người co-pilot có cấp bậc hay kinh nghiệm ít hơn pilot chánh -- người dịch). Trên đường tới Đức Lập, Bruce đã nhanh chóng phát hiện trục trặc về truyền tin: các máy UHF và FM của y ko thể liên lạc với quân dưới đất và quan sát cơ hay FAC. May mắn, y vẫn có thể liên lạc với chúng tôi bằng VHF. Do vậy chúng tôi đồng ý như sau; tôi sẽ làm lead và y làm trail.

Khi chúng tôi tới gần, tôi đã nhận thông tin mới nhứt từ FAC. Họ đã hướng dẫn chúng tôi đến 1 dãy những lều (hootch) gần BCH chi khu, nơi mà đạn từ đó bắn ra. Khi tôi xác định mục tiêu, chúng tôi bắt đầu nổ súng.

Trong vòng đánh hay pass đầu tiên, một loạt đạn súng nhỏ đã bắn lên, và đạn xuyên qua cửa kiếng. Một số mảnh vở của cửa kiếng văng vào mặt tôi và Fred. Chúng tôi luôn bay với kính che mặt hay visor, nên ko bị ảnh hưởng. Một viên đạn khác đã trúng radio FM. Tôi tách hợp đoàn, bay ra ngoài (outbound) và hỏi trên bộ đàm hay intercom, "Mọi người OK?" Mọi người đều OK, kể cả Bruce. Mọi đèn phi cụ đều màu xanh, nên chúng tôi lại nhập vào hợp đoàn.

Ở pass thứ hai, ống nhắm rocket biến mất. Một đạn 12.7 ly trúng ống nhắm. Có thể một miểng đạn 12.7 ly hay mảnh vở của ống nhắm, đã cắt quai của nón bay của tôi làm đôi. Đạn nhỏ bắn lên rất nhiều.

Một viên đã trúng vào bản lề của cửa máy bay và một mảnh vở đã trúng vào chân tôi. Tôi vì quá bận nên ko nghĩ đến nó. Hết vòng đánh thứ 2, tôi lại hỏi, "Mọi người OK?" Mọi người đều OK, động cơ bình thường, đạn vẫn còn, và Bruce vẫn OK. Chúng tôi đang bắn phá các túp lều ở trái và phải.

Chúng tôi đang bay ngang 1 hồ nhỏ, chuẩn bị vòng thứ ba, thì bị trúng nhiều đạn 12.7 ly. Máy bay rung nhẹ vì trúng đạn. Khi đánh vòng thứ 3, tôi lướt nhanh xuống các phi cụ thì thấy đồng hồ hiển thị dầu máy và lực xoắn (torque) đứng yên. Ú-Ồ! Tôi biết ngay rằng máy sẽ ko chạy lâu nếu ko có dầu. (Cơ khí phi hành sau này nói với tôi rằng dầu đã phun ra xuyên qua tường lửa, nghĩa là phần truyền động bị trúng đạn). 

Tôi vội tìm chỗ tốt để đáp. Tòa nhà của cố vấn ở bên phải tôi, do vậy tôi bắt đầu hướng về đó, cùng lúc máy bay mất cao độ. Tôi biết rằng nếu đáp xuống kế tòa nhà thì rất tốt. Copilot bình tỉnh nói, "động cơ đã tắt".

Tôi lập tức hạ cao độ để chuyển qua autorotation, xem hình, nhưng tốc độ của rotor cũng giảm. (Sau này chúng tôi biết bộ truyền động đã trúng đạn 12.7 ly, khiến ko thể quay được).               



Tôi và co-pilot đều biết ko thể đáp xuống tòa nhà cố vấn và cũng ko có nhiều thì giờ để đáp xuống. Do tác động của gió, trực thăng vẫn bay dù đồng hồ hiển thị rotor đứng im và chúng tôi tiếp tục mất cao độ. Và cánh quạt từ từ quay chậm và... đột ngột ngừng quay, đến độ tôi ko ngờ. Mủi máy bay hướng lên trời, và máy bay chạm đất; phần đuôi của trực thăng đụng đất trước và máy bay gần như ở thế lộn ngược xuống đất trên 1 sườn đồi. 

Trực thăng bắt đầu lăn long lóc trên đồi. Phần đuôi sút ra. Bụi đất tung tóe. Rồi máy bay đứng lại, im lặng hoàn toàn. Tôi nhớ lại mình vẫn ngồi trong ghế, nhìn 2 bàn tay, và nghĩ, "Mình vẫn còn sống."Tôi nhìn qua co-pilot thấy y OK. Nhưng máy truyền tin ở mủi máy bay đang nằm đè lên chân của y, và cửa máy bay đã sút ra.

Và 1 đạn cối đã nổ bên ngoài cửa, cũng có thể là 1 lựu đạn. Tôi vói tay để tháo đai an toàn và lập tức đập đầu vào trần của phòng lái và vào người của Fred. Hóa ra máy bay đang lộn ngược. Tôi bò ngang qua Fred và rơi xuống đất, và như 1 phản xạ tôi nói với co-pilot "Xin lỗi!", nhưng y trả lời lập tức, "Đưa tôi ra khỏi đây!" Tôi bắt đầu đẩy máy truyền tin ra khỏi chân của Fred, nhưng ko được.

Tôi lướt nhanh chung quanh và thấy 1 người, khoảng cách 50 mét, đang nhắm súng vào chúng tôi. Y bắn 1 phát, trúng vào trực thăng, nhưng ko trúng ai. Nhưng trước khi y bắn tiếp, xạ thủ của chiếc trail đã bắn trúng y.

Cùng lúc đó, vì ko còn bị máy truyền tin đè lên chân nên Fred đã rơi xuống đất. Y đứng dậy, và chúng tôi lập tức tìm kiếm cơ khí phi hành. Dây an toàn của người này đã sút ra, nhưng ko thấy y ở đâu. Tôi thấy 1 cái chân ló ra từ dưới trực thăng. Tôi nắm chân kéo ra, may mắn rất dễ dàng, vì trực thăng đã tì lên giá treo vũ khí (armament pylon), khiến máy bay ko đè lên y. 

Tôi thấy y bị trúng đạn súng nhỏ ở đùi trái, và bên dưới xương sườn và máu chảy nhiều. Lúc nảy, khi tôi kéo các máy truyền tin khỏi người của Fred, tôi nhận thấy xạ thủ nằm lắc lư trên ghế, bất tỉnh. Nhưng khi tôi kéo cơ khí phi hành khỏi trực thăng thì xạ thủ Arney tỉnh dậy. Chúng tôi lấy lại bình tỉnh và suy nghĩ "Điều gì sẽ xảy ra?"

Chúng tôi ngồi như vậy 1 hay 2 phút, nói rất ít. Chúng tôi kiểm tra đạn dược. Tôi và copilot vẫn còn nón bay và áo giáp, và còn súng lục. Nhưng súng M-16 và M-60 văng đâu mất. Rất may tôi vẫn còn máy truyền tin cứu cấp. Tôi thử gọi nhiều lần nhưng ko được. Nhưng còn may vì tôi còn đeo một la-bàn trên cổ tay. Tôi còn nhớ lúc đó la bàn hướng về BCH/chi khu. Thế là chúng tôi bắt đầu bò lên đồi, băng qua cỏ cao.

Tôi và Fred thay phiên cỏng và kéo cơ khí phi hành bị thương. Đạn bay khắp nơi, dù ko nhắm vào chúng tôi. Tôi biết địch gần đó, và đang kiếm chúng tôi. Cỏ bị trúng đạn văng vào chúng tôi.

Lát sau, 2 phản lực F-100 vào vùng, làm vòng chờ để tìm mục tiêu, và bắt đầu bắn phá bằng đạn 20 ly. Bắc quân tìm chỗ núp. Chúng tôi bắt đầu lạc quan nhưng niềm vui nhanh chóng vụt tắt khi một chiếc F-100 bị trúng đạn. Nó bay khỏi mục tiêu với khói từ sau đuôi, sau đó 1 cái dù bung ra. Chiếc thứ 2 bỏ đi và chúng tôi lại tự lo lấy mình.

Khi có máy bay thì chúng tôi đã di chuyển rất nhanh lên đồi. Nhưng khi máy bay đi xa, chúng tôi ko thể di chuyển vì sợ địch phát hiện. Tôi và copilot cố gắng giúp cơ khí phi hành im lặng, dù y đang bị đau nhiều. Chúng tôi nằm ngửa trên cỏ với súng lục cầm tay, mắt hướng về chung quanh.

Hai chiếc Phantom F-4 xuất hiện. Vì Phantom phát tiếng động rất lớn và đang tấn công, nên địch tìm chỗ núp. Chúng tôi lợi dụng điều đó, và bắt đầu bò lên núi và được 1 khoảng xa.

Chẳng bao lâu chúng tôi đã tới hàng rào ngoài cùng của chi khu. Chúng tôi nằm xuống nghỉ ngơi và nghĩ rằng đã thoát nạn. Nhưng giờ đây bị chi khu bắn.

Khi cố vấn của chi khu thấy máy bay chúng tôi biến mất trên đồi, cắm đầu xuống đất, họ nghĩ rằng chúng tôi đã chết (goner). Và điều ấy đã xảy ra trước đó khoảng 2 giờ.

Do vậy khi chúng tôi tới hàng rào, họ tưởng là Bắc quân và bắn chúng tôi. Chúng tôi la lớn bằng tiếng Anh và họ nhận ra. Một trung úy và 1 trung sĩ ra đón chúng tôi và dẫn qua bãi mìn.

Khi đã vào bên trong chi khu, tôi để cơ khí phi hành sau 1 bức tường cao ba bộ hay 0.91 mét. Copilot biết sơ cứu vì từng làm việc với LLĐB, nên giúp đỡ cơ khí phi hành, còn tôi vì quá mệt nên ngả vật (plop down) xuống tường. 

Tôi thấy 1 thiếu tá mặc đồ lót bằng vãi olive (olive drab hay OD), đội nón sắt hướng về chúng tôi. Ông ta là chỉ huy toán cố vấn. Chúng tôi nói chuyện rất nhanh. Tôi nói một phi hành đoàn bị thương còn ông nói về tình hình. 

Ông cho biết rất nhiều súng AK-47, M-16, và cạc-bin nằm rải rác khắp nơi. Cũng có 1 M-60 nhưng ko còn đạn. Tôi nói còn rất nhiều đạn 7.62, cũng là đạn của M-60, nằm cạnh khẩu min-gun trên trực thăng của chúng tôi. Ông yêu cầu tôi xuống đó, mang đạn về cho ông. Một trung sĩ của ông đi theo chúng tôi.   

Tôi có súng lục nhưng viên trung sĩ thì tay không. Chúng tôi băng qua bãi mìn và chạy nhanh xuống nơi trực thăng rơi. Chỉ tốn chưa tới 10 phút, ít hơn rất nhiều khi chúng tôi trèo từ đó lên đây. Máy bay đầy đạn, vì chúng đã bắn min-gun ko nhiều. Tôi lập tức kéo băng đạn 7.62 ra khỏi khẩu minigun.

Tôi quấn dây đạn quanh ngực và cổ, trung sĩ kia cũng làm như vậy.

Vì mang đạn lên núi nên đi chậm, nhưng ko gặp gì hết. Sau khi chúng tới chi khu, một trực thăng Dustoff hay tải thương đáp xuống giữa chi khu. Lính VN chạy nhanh tới và lấp đầy trực thăng, dù nhiều người ko bị thương. Họ tỏ ra hoảng loạn.

Tôi và copilot Fred rất khó khăn lắm mới tìm chỗ cho xạ thủ và cơ khí phi hành vì máy bay đầy người. Tôi đứng trên càng trực thăng và nghiêng người vào phòng lái nói với phi công Iley, "máy bay quá tải, và tôi và Fred đi chuyến sau." Y nhìn tôi và nói qua cửa sổ, "Bỏ cái tật khùng của ông đi, vì tôi sẽ ko trở lại".

Ko có thì giờ để cãi cọ, tôi cố gắng thu người, ngồi giữa 2 phi công, và Fred ngồi chen chút phía sau. Tôi đang nhìn đồng hồ phi cụ trong khi đại úy Iley kéo cần lái để cất cánh. Khi đồng hồ N1 vượt quá 100/100, tôi ko dám nhìn nữa. Tôi sợ rằng rất nguy hiểm khi đồng hồ N1 quá 100. Nhưng chiếc UH-1 H của y mạnh hơn chiếc gunship của tôi nên mọi việc ổn thỏa.

Ko có bịnh viện ở Ban Mê Thuột mà chỉ là một lều bạt lớn. Họ để chúng tôi nằm trên ghế bố xếp. Chẳng bao lâu người bị thương đưa về rất nhiều. Cả 2 chúng tôi rất đau lưng, hậu quả của vác đạn lên núi. Chúng tôi phải đi khom lưng (stoop over), và chúng tôi không thể xoay cổ hay lưng. Vì vậy, chúng tôi lăn mình ra khỏi ghế bố, quỳ xuống và thận trọng đứng dậy cho đến khi hết đau lưng. 

Khi chúng tôi định ra cửa, ai đó hỏi chúng tôi định đi đâu, chúng tôi nói rằng đến lều của mình. Sau đó trong ngày, chúng tôi gặp bác sĩ phi hành. Chúng tôi rất cần chiếu X-quang, để xem thương tổn mức độ nào, nhưng ko có máy này. Bác sĩ nói "ko sao, chỉ có các cơ bắp bị kéo căng." Nhưng ông ta ko cho chúng tôi bay. "Cho tới khi các cơ bắp tốt hơn," ông nói.

Chúng tôi trải qua vài ngày ko làm gì hết (goof off). Tôi còn uống rượu nữa. Tại sao ko? Vì chúng tôi ko được bay. Vào ngày thứ ba, copilot Fred ko còn kiên nhẫn nữa (chomp at the bit). Các anh em LLĐB của y đang chiến đấu, và y ko muốn ngồi chơi. Dù chúng tôi chưa khỏe 100/100 nhưng chúng tôi ko muốn ngồi chơi trong khi bạn bè đang bay bổng trong vòng lửa đạn. Chúng tôi gặp bác sĩ phi hành.

Lúc đầu ông nói,"Tôi ko cho phép ông bay vì ông ko thể đứng thẳng, và đi lại khó khăn."Tôi nài nỉ rằng các bạn trong phi đoàn rất mệt mỏi, có lẽ khắp kiệt sức, trong khi chúng tôi còn rất khỏe. Cuối cùng ông đồng ý và chỉ vào tôi với yêu cầu, "Anh phải là copilot." Ông chỉ vào Fred nói, "Anh ko thể bay cùng với Gilbert (tác giả bài viết)." Chúng tôi vội vả ra đi vì sợ ông đổi ý.

Chúng tôi đến phòng HQ của phi đoàn và nói cho họ biết được phép bay. Ngày kế, Fred Pratt là copilot với đại úy David Rutledge, trưởng hợp đoàn của chúng tôi và là một phi công xuất sắc (a heck of pilot). Tôi là copilot với Brad Jones trong chiếc cuối của hợp đoàn.

Chúng tôi đã đánh vài pass, và khi sắp hết đạn, chúng tôi nghe trên máy, "Pratt bị trúng đạn," Đ.u. Rutledge nói với chúng tôi rằng Pratt bị miểng của cửa kiếng plexiglass văng vào mắt, ko thấy rõ, và sắp đáp xuống BCH CK.

Tôi quay lại nhìn cơ khí phi hành và xạ thủ -- chúng tôi phải cứu Fred Pratt. Chúng tôi quăng các thùng đạn rỗng của M-60, lương khô ra ngoài để máy bay nhẹ và có chỗ trống. Chúng tôi vừa hết đạn và sắp hết xăng.

Tôi và đ.u. Brad Jones đáp xuống kế máy bay của đ.u. Rutledge. Xạ thủ của chiếc này đang đứng bên ngoài để bắn M-60, trong khi cơ khí phi hành kéo Fred qua máy bay tôi. Ngay khi Fred vừa vào, Brad kéo cần lái để cất cánh. 

Chúng tôi bay xuống sườn đồi, bay qua nơi mà máy bay chúng tôi đã rơi.

Ngay khi chúng tôi rời vùng, một hợp đoàn võ trang khác vào vùng để bảo vệ chúng tôi bay ra. Danh hiệu của hợp đoàn là Buccaner, và của chỉ huy là Buc 8.

Nhưng khi chúng tôi cách mặt đất khoảng 15 tới 20 bộ, chúng ta bay ngang 1 tên VC đang nả 1 băng AK vào cạnh phải máy bay. Tôi ko sao vì ngồi ghế trái, nhưng đạn đã xuyên qua bàn đạp trái, xuyên qua giày, trúng ngón chân, và trúng miếng giáp bảo vệ ngực của Brad.

Tôi đỡ y khỏi ghế và cho y quay ra sau, hướng về cơ khí phi hành. Khi đạn trúng áo giáp của y, những mảnh gốm bị bể nát và bắn vào cổ và mặt y. Máu văng đầy buồng lái, giống như ai đó quăng hộp sơn đỏ vào tôi. Brad nghĩ rằng y trúng ở cổ họng nên nói, 'bây giờ anh điều khiển máy bay'.

Tôi cố gắng đưa máy bay lên cao. Anh cơ khí kéo cần màu đỏ ở ghế phi công và kéo Brad về phía sau. Tôi nói với cơ khí Wusso, 'lại đây'. (Nói thêm: khi bay gunship để test hệ thống hỏa lực, lúc về tôi để  cơ khí phi hành lái. Họ rất thích điều đó. Tôi dạy họ cách đáp xuống và đậu hàng dọc trên phi đạo. Tôi ko dạy họ cách hover hay bay đứng 1 chỗ vì ko có thì giờ).

Khi y cố gắng để trèo lên ghế của phi công, chúng tôi bay lên cao. Trong khi cơ khí phi hành buộc dây an toàn, tôi nói, "Nếu điều gì xảy ra với tôi, hãy nắm chặt các cần điều khiển. Ko nên kéo cần mạnh quá vì vòng quay trên phút hay RPM sẽ tụt giảm. Tôi chuyển tần số qua số 3 và nói với y, nếu điều gì xảy ra với tôi, kẻ mà anh cần nói chuyện là Buc 8, y sẽ chỉ đường cho anh về và đáp xuống phi đạo. Ko nên quẹo trái hay phải, ko nên bay đứng một chỗ, chỉ cần đáp xuống phi đạo. Y ko nói một lời. Tôi rất bận, nhưng nhìn y và mắt y mở to. Có lẽ y đang nghĩ, "Ú-ồ, tôi có thể phải làm điều này." Nhưng y đã ko làm vì ko điều gì xảy ra với tôi.

Chúng tôi bay về Ban Mê Thuột càng nhanh càng tốt, tới thẳng bãi đáp của Hồng Thập Tự. Fred vẫn còn sống khi chúng tôi khiêng y ra khỏi máy bay. Chúng tôi bay về chỗ đậu của trực thăng (revetment) và tắt máy. Và lúc đó mới biết trực thăng đã trúng nhiều đạn. Hai trong số những ống điều khiển tới cánh quạt đuôi của máy bay bị cắt gần như làm hai khúc. Chúng ta đã may mắn trở về mà ko gặp tai nạn. 

Và một lát sau, chúng tôi được biết Fred đã được chở tới Pleiku, nhưng chết trên đường đi. Dù về căn cứ an toàn, nhưng chúng tôi đã mất một người tốt. Một ngày rất buồn.

NÓI THÊM:

Không thể tin được khi phi công máy bay F-100, bị bắn rơi vào ngày hôm đó đã được cứu thoát. Bốn người lính LLĐB Mỹ, trong khi chiến đấu cho sự sống còn của họ, để bảo vệ doanh trại chống lại địch quân áp đảo (overwhelming odds), đã thấy dù đã bung ra từ máy bay. Họ đã chạy nhanh khỏi doanh trại trên hai chiếc jeep, đánh nhau với 1 đại đội CSBV đang chiếm giữ 2 bên đường, cứu sống phi công và đánh nhau lần nữa với kẻ thù trên đường về trại. 

Vài tuần sau trận đánh, vị tuyên úy TĐ gửi cho tôi bản đồ trận đánh. Nhiều chỗ trên bản đồ được đánh số. Chú thích của bản đồ cho thấy số 15 là địa điểm máy bay của chúng tôi rơi, và số 15 là hầm của BCH của CSBV chỉ huy trận đánh -- hai nơi rất gần nhau. Chúng tôi đã rơi xuống 1 nơi rất xấu và đã sống để kể lại điều ấy.

Trở lại phi đoàn ở Trại Coryell ở BMT, sau khi Bắc quân rút sang Cam-bốt và tình hình lắng dịu, tôi nộp đơn xin đi phép (put in for R&R). Tôi lấy thư mỗi ngày để biết đơn xin được chấp thuận hay ko. Sau khi ba lần được biết đơn xin đi phép có thể thất lạc, tôi gặp chỉ huy phi đoàn. Ông nói tôi chưa thể đi phép.

Tôi không định nói điều này với ông, nhưng tướng Abrams sẽ đến đây để gắn huy chương cho ông. Tôi nhớ rất rõ suy nghĩ đầu tiên của mình khi nghe tin rất bất ngờ đó: "Họ không thể gửi nó qua đường bưu điện sao?"

Tôi không cần huy chương hay thăng thưởng, nhưng chỉ muốn được đi phép. Trên thực tế, tôi thậm chí còn không biết mình đã được cấp huy chương. 

Khi nói như vậy, tôi thực sự ko tự xem mình là anh hùng. Tôi chỉ làm những gì phải làm. Chúng tôi có rất nhiều người tuyệt vời trong Đại đội 155 trực thăng tấn công. Bất kỳ ai trong số những người khác cũng sẽ làm những điều tương tự như tôi đã làm. Chỉ tình cờ là tôi là người gặp nhiều điều xấu ngày hôm đó. 


Lời của ban biên tập: Gilbert Tery đã nhận một Anh dũng Bội tinh (Distinguished Service Cross) và Chiến  thương Bội tinh (Purple Heart) cho các chiến công ngày 23.8.1969 và một Phi dũng Bội tinh (Distinguished Flying Cross) cho hành động trong ngày 26.8.1969. 




Chuyển ngữ từ bài Shot down at Duc Lap của Gilbert Terry, cựu phi công trực thăng võ trang của đại đội 155 trực thăng tấn công, đồn trú ở ban mê thuột.




No comments:

Post a Comment