Friday, June 14, 2024

"Bỏ mẹ rồi," y hét lớn vào máy. "Ông đêk biết gì hết. Chúng tôi đang đụng nặng. Nếu ko có không yểm, chúng tôi sẽ bị tràn ngập!" — Đại úy Baird hét vào máy khi nói với trung tá tiểu đoàn trưởng.

                                

BẢN ĐỒ 11: HƯỚNG TIẾN CỦA Đ.Đ. D VÀ B
BẢN ĐỒ 12: ĐỊCH TẤN CÔNG Đ.Đ. D
BẢN ĐỒ 13: ĐỊCH TẤN CÔNG Đ.Đ. B



- Vì chỉ còn chưa tới 60 tay súng (lúc bắt đầu hành quân, đ.đ. Delta của TĐ 4/503 Dù có 65 lính), đ.đ. của y sẽ bị tiêu diệt nếu ko được không yểm. Đ.u. Baird, đ.đ. trưởng, đang bị thương ở cổ tay, chụp ngay com-bi-nê và nói chuyện với trung tá Johnson TĐ trưởng. 

- "Trời ơi," y hét lớn vào máy. "Ông đếk biết gì hết. Chúng tôi đang đụng nặng. Nếu ko có không yểm, chúng tôi sẽ bị tràn ngập!" (Goddamnit, Six," he screamed over the din of the gunfire. "You'd better get your fucking head outta your ass. We're in some deep shit down here. I we don't get some air we're gonna get overrun!)
Lúc đó TĐ trưởng trên trực thăng C-n-C ở cao độ 1.500 bộ, bên dưới là rừng núi rậm rạp, hơn nữa các máy bay đang yểm trợ cho đ.đ. Bravo ở đồi 823.
Đây đó trong rừng, những chỗ bị napalm đốt cháy có màu đen như dầu hắc hay nhựa đường. Kế đó, chỉ cách 20 mét từ vị trí của trung úy Allen, lính của đ.đ. Alpha thấy phần còn lại của 15 lính Bắc Việt toàn thân bị cháy đen thui. Những súng mà họ cầm cũng bị cháy sém (char). Quả bom napalm thả lầm đã cứu trung đội của Allen.

Lời nói đầu: Bài này chưa từng được đăng trên báo chí hải ngoại. 

Sau đây là phần chuyển ngữ.

...

"Đang hành quân ở Tuy Hòa, ngày 1/11/1967 TĐ 4/503 Dù, do trung tá James Johnson chỉ huy, được lịnh lên C-130 đi Kontum. Ngày hôm sau, họ được xe chở tới Dak To, sau đó họ di chuyển tới trại Ben Het ở khoảng 20 km phía tây của Dak To và đặt dưới quyền của ĐT Richard Johnson của lữ đoàn 1 sđ 4 bộ binh. Trong QĐ Mỹ, để tránh hiểu lầm lúc giao chiến, thay vì gọi là đ.đ. A B C D, các danh xưng này trở thành Alpha, Bravo, Charlie,  Delta hay Dog. Ở TĐ 4/503 (của lữ đoàn 173 Dù), Alpha chỉ huy bởi đ.u. Muldoon, Bravo bởi đ.u. Baldridge, Charlie bởi đ.u. Connolly, và Delta bởi đ.u. Baird - một cựu toán trưởng viễn thám (LRRP).

... 

Trung tá John TĐ trưởng trình bày kế hoạch hành quân, ông nói 1 toán viễn thám đã tìm thấy những dấu hiệu của hầm hố mới đào trên vài nhánh của sống núi phía nam Ben Het. Mục tiêu của 3 đ.đ. là tới đó và giao chiến. 

Đ.u. Connolly của Charlie nêu ý kiến. "Nếu chúng đào nhiều hầm hố, phải có đv lớn ở đó," y nói. Y lo âu vì 3 đ.đ. thiếu quân số làm sao có thể chọi 1 trung đoàn csbv, nếu tin tình báo đúng. (Vì trước đó ngày 2/11 trung sĩ Vũ Hương thuộc tr.đ. 66 csbv ra hồi chánh tại một tiền đồn VNCH ở ấp Bak Ri, phía tây của Ben Het. Y khai báo trong khi điều nghiên địa thế chung quanh Dak To, đã tình cờ nghe một trong các sq của y nói rằng tr.đ. 66 sẽ tấn công Dak To từ tây namvà tr.đ. 32 lập vị trí ở nam Dak To để ngăn mọi phản công nhắm vào tr.đ. 66. Tr.đ. đoàn 24 giữ 1 vị trí ở đồi núi đông bắc của Dak To sẵn sàng tấn công mọi viện quân từ hướng này. Tr.đ. 174 ở tây bắc của Dak To sẽ làm trừ bị hay tấn công khi có lịnh. Theo trung sĩ, cuộc tấn công lẽ ra thực hiện ngày 28/10, cùng lúc với cuộc tấn công bằng hỏa tiển 122 ly vào tỉnh lỵ Pleiku, nhưng tướng Nguyễn hữu AnTL của sđ 1 csbv, đã dời ngày vì pháo binh ở Dak To chưa sẵn sàng -- người dịch).

"Các anh sẽ có phi pháo yểm trợ. Tôi trông đợi các anh sẽ tới đó và làm tốt công tác,"Johnson nói với 3 đ.đ. trưởng. Họ lo lắng vì Charlie chỉ có khoảng 125 lính, Alpha 110 và Delta 65.

Để tăng quân, mỗi đ.đ. có 1 trung đội DSCĐ của trại Ben Het, dưới chỉ huy của một HSQ của LLĐB Nam Việt Nam. (Vì họ rành địa thế và địch quân ở vùng này hơn lính Mỹ -- người dịch). 

Sáng sớm ngày 4/11/1967, xe tải chở TĐ trừ (vì đ.đ. Bravo ở lại Ben Het), đến điểm xuất phát. Lúc 0845, họ vào vùng hành quân. Ngày đầu tiên 3 đ.đ. tiến về phía nam của Ben Het ngang qua thung lũng của Sông Dak Honiang, nằm ở đầu phía bắc của một cụm đồi phủ đầy rừng, mà tên địa phương là Ngọc Kom Liệt. (Ngọc hay Ngok núi theo tiếng Thượng -- người dịch). Họ ko thấy bất cứ dấu vết của csbv ngày đầu. Họ đóng quân qua đêm ở rìa phía đông bắc của cụm đồi này. Quân số lúc ấy của Alpha là 110, Charlie 125, và Delta chỉ có 65

Ngày kế 5/11, ba đ.đ. tiến vào địa thế hiểm trở của Ngọc Kom Liệt: Charlie dọc theo sườn phải, Delta ở phía đông của Charlie, và Alpha giữ sườn trái. Do rừng núi rậm rạp nên tiến quân rất chậm. 

Ngay trước buổi trưa, Charlie của đ.u. Connolly khám phá 1 căn cứ nhỏ bỏ hoang của địch. Chưa tới 1 g sau, chỉ cách đó 500 m, họ lại gặp một căn cứ khác, cũng bỏ hoang, nhưng có nhiều bunker và hố cá nhân. 

Đ.đ. trưởng Baird và đ.đ. trưởng Muldoon cũng ghi nhận tình hình này. Dù ko có dấu vết của quân csbv, mọi người đều biết họ đang ở sân sau của địch. Trung úy Allen của đ.đ. Delta nghĩ rằng họ sắp đụng độ. (Theo tổ chức QĐ Mỹ, trung úy chỉ huy một trung đội). 

Khoảng 1300 cùng ngày, TĐ trưởng Johnson ra lịnh cho Muldoon của Alpha gửi 1 trung đội tiến 1.000 m về phía đông để lục soát. Muldoon trả lời, ko thể để 1 trung đội đi lẻ loi, mà sẽ đi cả đ.đ., Johnson đồng ý. Alpha ko gặp gì hết và đóng quân qua đêm.

Đêm thứ hai cả ba đ.đ. tới hạn để nhận tiếp tế. Họ phải mất vài giờ để lập bãi đáp cho trực thăng. Tiếng chặt cây và tiếng trực thăng làm cho trung úy Allen của Delta lo lắng vì địch trong vòng vài km sẽ biết nơi ở của họ. 

Sáng ngày 6/11, TĐ trưởng ra lịnh Muldoon trở lại hướng tây và đi sau đ.đ. Delta. Ông còn ra lịnh ba đ.đ. tiến về Đồi 823, ở đầu đông nam của Ngọc Kom Liệt, bên kia cuả sông Dak Kal. Đồi sẽ là địa điểm của 1 CCHL mới. Ba đ.đ. sẽ bảo vệ địa điểm này và chuẩn bị đón pháo đội. 

Vì trung đội 1 của trung úy Allen đi đầu hôm qua, nên ngày 6/11, trung đội 2 của thiếu úy Burton đi đầu của đ.đ. Delta. 

Họ di chuyển lúc 0845. Theo sau trung đội 2 là trung đội dân sự chiến đấu (DSCĐ) người Thượng. Đ.đ. trưởng Baird và BCH đ.đ. đi kế; trung đội của Allen đoạn hậu. Họ hướng về đồi 823. Do cây cối rậm rạp và nhiều dốc đứng (steep terrain) nên đi rất chậm.

Tiểu đội đi đầu của trung đội của Burton, do trung sĩ (TS) Wertz chỉ huy, bắt đầu đi lên một nhánh núi (ridge finger). Khoảng 1130, chuyên viên bậc 4 Jorgenson, đi xích hầu, đột nhiên lạnh cẳng (freeze): một dây điện thoại màu xám chạy dọc theo hướng đi của y. Y nhanh chóng cắt dây và báo cáo trung đội trưởng Burton. Burton báo cáo đ.đ. trưởng và ông này bảo y đi theo sợi dây. 

Đ.đ. trưởng ra lịnh đ.đ. đứng lại và cho tiểu đội của Wertz tiến tới. Họ đi khoảng 200 m trước khi thấy 1 nón cối. Họ báo cho Burton.

Khi đ.đ. trưởng nhận thông tin này, y lập ngay chu vi phòng thủ và báo cáo TĐ trưởng và nói đi muốn đi theo dây điện thoại. TĐ trưởng đồng ý. 

Baird ko muốn sập bẫy của Bắc quân và cũng ko chắc dây này là một cái bẫy. Tiểu đội của trung sĩ (TS) Woods đi cuối đ.đ. dù ko thấy địch nhưng y nghe vài Bắc quân nói chuyện. Rừng rậm bao la, xen kẻ với các bụi tre rậm rạp, đã giới hạn tầm nhìn khoảng 20m, khiến y ko thể định vị đối phương. Y báo cho trung đội trưởng Allen. 

Trong khi đ.đ. Delta tiến dần lên sống núi, TĐ trưởng Johnson nghĩ rằng 3 đ.đ. này ko thể tới đồi 823 cùng ngày. Ông ra lịnh cho đ.đ. Bravo của Baldridge sẵn sàng tới đồi 823 ngay lập tức. (Bravo lúc đó làm trừ bị và ở Ben Het -- người dịch). Trong khi Baldridge thúc hối thuộc cấp, TĐ trưởng yêu cầu phi pháo bắn phá đồi này để dọn bãi.

Trên sườn núi của Ngọc Kom Liệt, trung úy Burton, đang theo dỏi lịnh lạc của TĐ trưởng, đã nghe đạn 105 và 155 ly từ Ben Het phóng tới đồi 823. Chẳng bao lâu tiếng nổ đã gầm thét núi rừng. Vì đứng gần đ.đ. trưởng nên Burton nghe Baird hỏi TS nhứt của đ.đ., "Anh nghĩ thế nào?" (Trong QĐ Mỹ, thường vụ đ.đ. là người thay mặt đ.đ. trưởng để điều hành những việc như tải thương hay tiếp tế hay nhận lính mới, thường là một TS nhứt nhiều kinh nghiệm chiến trường -- người dịch).

Đ.đ. trưởng rất coi trọng ý kiến của TS nhứt William Collins. Vì TS này đã chiến đấu 10 tháng ở VN, và có khả năng lãnh đạo chỉ huy của một HSQ tác chiến.

"Thưa xếp," Collins nói chậm và nghiêm nghị, "Tôi nghĩ tiến lên đồi cũng đụng, xuống đồi cũng đụng, và đứng lại cũng đụng."

Baird đồng ý, cũng như mọi người đều nghĩ Bắc quân đang chung quanh họ. 

Baird bảo trung đội của Burton tiến tới (move out) và dặn họ ko nên dồn cục hay giản ra xa. 

Họ tiến lên một con đường mòn mờ nhạt, do ít người đi, chạy dọc theo sườn bên phải hay sườn bắc của núi. Ở bên phải của đường mòn, mặt đất đổ xuống. Khi đường mòn hướng lên nhánh núi và gần đỉnh của sống núi, mặt đất lại trải rộng (flat out) và rừng ít rậm rạp hơn. Khi đường mòn đi tới đỉnh của sống núi, mặt đất trải rộng tới 30 hay 40 mét trước khi đổ dốc xuống sườn bên kia. 

Khoảng trước 1300, lính đi đầu của Burton đã thấy những dấu chân mới tinh trên mặt đất, một miếng tre hình chữ thập dùng để cuộn dây điện thoại, và cứt mới ỉa. Burton đã căng thẳng khi ra lịnh trung đội tiếp tục. 

Hai người lính đi đầu đi song song với đường mòn. Họ đi qua một yên ngựa hơi nông -- đây là một chỗ trũng của đường mòn -- và tiến lên một nơi mà sống núi mở rộng. Ở đây Burton gửi 1 tiểu đội tiến về phía trái; một tiểu đội khác tiến về giữa của sống núi và một tiểu đội ở lại gần đường mòn. Do địa thế, các tiểu đội ở giữa và bên phải giữ vị trí của họ; chỉ có tiểu đội của trung sĩ Worley ở bên trái tiến lên. 

Khi tiểu đội của Worley nhích từng chút một, chuyên viên bậc 4 Hobbs, thuộc tiểu đội ở giữa, chợt thoáng nhìn lên từ vị trí của y và thấy một lính Bắc quân ló đầu khỏi bụi cây trên đồi cách y khoảng 20 mét. Trước khi Hobbs kịp phản ứng, tên lính biến mất. 

Nói thêm: ngoài kiến thức quân sự thông thường, chuyên viên bậc 4, viết tắt SP4, cấp bực dưới hạ sĩ nhưng trên binh nhứt, có những kỹ năng đặc biệt như biết lái thiết vận xa hay điều hành mạng lưới truyền tin của một trung tâm hành quân hay làm hiệu thính viên (RTO), v.v... -- người dịch.

Tiểu đội của Worley tiếp tục tiến chậm chạp. Binh nhì Brangaitas, nghĩ rằng Bắc quân rất gần, nên gắn lưởi lê vào khẩu M16. Khi liếm đôi môi khô khốc của mình, y biết điều đó sẽ thực sự thay đổi nhanh chóng. 

Một người lính khác của Worley thấy một Bắc quân tiến về y, dọc theo một đường mòn xa hơn trên sống núi. Y nói nhỏ với đồng đội, "Tôi sắp hạ một tên da vàng". (Gook là tiếng lóng khinh miệt để gọi dân da vàng). Tên lính CSBV biến mất trước khi y hành động. 

Giây phút sau đó chuyên viên bậc 4 Charles Moss, cũng trong tiểu đội của Worley, phát hiện 1 Bắc quân khác. Thay vì cảnh báo cho đồng đội, y bắn 1 loạt M16. Tên lính địch phóng nhanh vào rừng. 

Khi Burton báo cáo cho đ.đ. trưởng Baird, ông này ra lịnh cho y lập tức rút các tiểu đội về 1 chu vi phòng thủ. Baird nghĩ rằng Burton hơi quá hăng máu (agressive); ông ko muốn y lâm vào tình huống mà y ko thể cán đáng. Một khi các tiểu đội của Burton trở về, Baird sẽ bắn phá khu vực trước mặt bằng phi pháo. 

Burton ra lịnh các tiểu đội trở lại vị trí của y. Y bắn một băng đạn M16 vào khu vực mà Hobbs thấy tên địch.

Từ nhiều vị trí, súng AK-47, đã bất ngờ trả lời Burton. Đạn (slug) địch đã xé nát một cây tre bên phải của Burton, xịt nước khắp nơi. Burton chạy nhanh tới một điểm thấp của đường mòn.

Binh nhì Brangaitas đã kịp thời tìm chỗ núp trước khi quân địch nổ súng. Một người gần y ngả xuống, ngực bị xé nát bởi đạn. Brangaitas nằm sát đất, đạn địch bay vun vút qua đầu y. Cành cây và lá rơi lả chả xuống y. Y ko thể nào tin được mình còn sống sót vì hình như đạn địch bay cách đầu y vài inch. 

Trong vài phút kế, Burton đã rút trung đội về. Phần lớn trung đội đang ở nơi thấp nhứt của yên ngựa mà họ vừa đi qua. Burton biết rằng đây là một vị trí tồi vì địch ở chỗ cao hơn, nhưng lúc này đây là điều tốt nhứt y có thể làm. 

Hai mươi lăm mét phía sau Burton, đ.u. Baird đang nằm sát đất với phần còn lại của BCH của ông khi nổ súng bắt đầu. Sau lưng ông, và phía trên của vùng đất cao dẫn đến yên ngựa thấp, trung úy Allen đã tức thời phản ứng khi súng nổ bằng cách cho trung đội lập một chu vi phòng thủ. Y bắt đầu bò tới đ.đ. trưởng Baird.

Burton cũng di chuyển tới Baird bằng cách cúi người rất thấp (crouch) để tránh đạn. Trong khi ấy, Baird cũng bắt đầu bò tới một cây lớn. Ngay sau ông là tiền sát viên, thiếu úy Clewly, thuộc pháo đội B của TĐ 3/319 pháo binh. Bò chưa được 5 mét, Clewly trúng đạn ở mông. Ai đó đã kéo y. Hiệu thính viên của y, chuyên viên bậc 4 Fulcher, lập tức bắt đầu gọi pháo trong khu vực bắn vào phía trước trung đội Burton.

Vào khoảng cùng lúc mà Baird tới gốc cây lớn, Burton cũng tới gần ông từ hướng khác. Kế đó một loạt đạn liên thanh của địch quét qua khu vực. Trung đội trưởng Burton đã nhận ra rằng y đã vô tình (inadvertently) làm lộ BCH của Baird cho một xạ thủ súng liên thanh của csbv đang theo dỏi y. Y vội chạy về trung đội.

Đ.đ. trưởng Baird cảm thấy một viên đạn trúng vào túi đạn trên dây ba chạc, viên khác trúng vào bá súng trường, và viên thứ ba trúng vào cổ tay trái. (Đ.đ. trưởng QĐ Mỹ mang M16 như khinh binh -- người dịch). Viên đạn này đã xé nát dây thần kinh xương quay (radial nerve), tạo những cơn đau buốc khắp thân thể y. Một y tá bò tới, chích ngay 1 mủi morphine vào cánh tay Baird. Dù tay đau như bị cắt, nhưng Baird vẫn chỉ huy lính.

Những người lính DSCĐ giữa Baird và Burton đã tìm chỗ núp ngay phát súng đầu tiên. Nay, hỏa lực địch nhắm vào Burton ngày càng tăng, nhiều đạn đã bay vào khu vực của họ khiến họ mất tinh thần (break up). Từng người một, họ đứng dậy, chạy qua vị trí của Baird, và hướng về khu vực của trung đội Allen.

Chuyên viên bậc 4 Jake Duffy thấy họ chạy ngược về phía sau. Y và tiền sát viên (FO), tức chuyên viên bậc 5 Mattingly vẫn điều khiển khẩu cối 4.2-in hay 106 ly. Duffy đã dự nhiều trận từ trận đánh ngày 10/7 và biết điều gì phải làm trong một trận đánh. Dù hỏa lực dữ dội hơn trận đánh ở đồi 830, y vẫn bình tỉnh, chuyển lịnh của Mattingly cho pháo đội cối. 

TS nhứt Collins đang đuổi theo những lính DSCĐ. Y biết rằng phải chặn những lính hoảng loạn (panicked) này trước khi sự sợ hãi của họ lan tới lính Dù. Dù y la hét gọi họ ngừng lại, họ vẫn chạy tới vị trí của trung đội Allen trước khi ngừng: vì họ ko còn chỗ để chạy. Trung úy Allen, đã trở về trung đội sau khi đ.đ. trưởng Baird trúng đạn, đã gửi một trong các tiểu đội của y chiếm các vị trí quanh BCH đ.đ.  Y đã đặt những lính DSCĐ sợ hãi giữa những lính Dù. 

Chẳng bao lâu sau khi trung úy Burton trở lại trung đội, địch đã bắn trở lại. Cường độ của hỏa lực lần này đã khiến Burton sợ. Thay vì những loạt đạn bắn từ vài súng, lần này vừa súng AK-47, và liên thanh. Tiếng ồn quá lớn đến nổi Burton ko thể nghe súng M16 của lính gần y bắn trả. Nhiều đạn trúng vào cây tre, làm nước xịt vào lính Mỹ. Lần đầu tiên, Burton đã bắt đầu nghĩ rằng mình ko thể sống sót trong trận này.

Tuy nhiên y ko có nhiều thì giờ để nghĩ điều này. Vài người lính ở phía trước đã thấy Bắc quân đang chuẩn bị tấn công và họ đang la hét cảnh báo. Burton đã di chuyển giữa họ, chỉ cho họ những chỗ có thể là đường tiến sát của địch. Và địch đã có mặt ở đó. 

Binh nhì Brangaitas thấy 3 hay 4 Bắc quân chạy ngang qua cây cối và tre, để lao tới anh. Y nổ từng loạt M16. Chúng ngả xuống. Các tên khác xuất hiện. Brangaitas tiếp tục nạp băng đạn để bắn tiếp. 

TS James Shafer đang quì gối giữa chỗ trống, dùng M16 bắn vào cả chục tên chạy đến vị trí y. Y đã bắn trúng 3 hay 4 tên trước khi ngả gục. TS nhứt Smith thay thế Shafer. Chẳng bao lâu là TS nhứt Plank và chuyên viên bậc 4 Rothwell. Cả ba đã hợp lực chận đứng địch (stop someone cold).

Dù hai chuyên viên Fulcher và Duffy đã cố gắng vượt bực để chuyển đi những hướng dẫn tác xạ cho các pháo đội 105 ly và cối, nhưng đ.u. Baird nghĩ rằng hỏa lực này ko hiệu quả do rừng rậm dầy đặc bao phủ trận địa. Y muốn oanh kích. 

Baird gọi cho TĐ trưởng Johnson, đang bay gần đó trong trực thăng C-n-C. TĐ trưởng từ chối. Ở độ cao 1.500 bộ hay 457 mét, ông ko thể nào nhận thức đầy đủ hỏa lực khủng khiếp nhắm vào đ.đ. nhỏ bé của Baird. Ông nghĩ rằng đ.đ. Delta không cần không quân trong khi các chiếc F-100 đang dọn dẹp đồi 823 cho đ.đ. B. 

Nhưng đ.đ. trưởng Blair ko nghĩ như vậy. Chỉ còn chưa tới 60 tay súng (lúc bắt đầu hành quân, Delta chỉ 65 lính), đ.đ. y sẽ bị tiêu diệt nếu ko được không yểm. Y chụp com-bi-nê và nói chuyện với TĐ trưởng.
"Trời ơi" y hét lớn vào máy. "Ông đếch biết gì hết. Chúng tôi đang đụng nặng. Nếu ko có không yểm, chúng tôi sẽ bị tràn ngập!" (Goddamnit, Six," he screamed over the din of the gunfire. "You'd better get your fucking head outta your ass. We're in some deep shit down here. I we don't get some air we're gonna get overrun!).
Sự tuyệt vọng trong lời nói của đ.đ. trưởng Baird đã khiến TĐ trưởng ra lịnh cho vài F-100 rời đồi 823. Ông nghĩ rằng cơn giận dữ (outburst) chưa từng thấy của Baird là do cơn đau của y và tác dụng của morphine mà y chích. Johnson cảm thấy Baird đã mất lý trí, nghĩa là y sắp hoảng loạn.
Nhưng đ.đ. trưởng Baird ko hoảng loạn. Ông vẫn còn chỉ huy lính. Ông vừa nhận ra rằng đ.đ. của ông đang bị cầm chân sẽ bị tràn ngập bởi đối phương vượt về quân số -- trừ phi có không yểm.
Chỉ trong vài phút những phản lực đầu tiên đã gầm thét ở ngọn cây trên đầu núi Ngok Kom Liệt. Trong đợt đầu tiên, máy bay thả bom 250 cân Anh ngay trước trung đội của Burton. TS Smith nghe bom rơi và nhào xuống sau một thân cây. Bom rơi gần đến nổi Smith cảm giác rằng y sẽ chết nếu y ko núp sau thân cây đổ ngả. Một bom khác gần đến nổi một y tá của Burton đã trúng miểng trong lúc y dùng thân để che chở một thương binh.
Dù máy bay thả bom chính xác, khi máy bay rời vùng, quân CSBV đã tấn công trở lại trung đội của Burton. Các lính địch mặc đồng phục, trang bị đầy đủ, tràn từ trên núi bắn vào lính Mỹ. Lính của Burton bắt đầu bắn gục chúng. Một lính bắn sẻ của địch đã nhắm vào binh nhì Brangaitas nhưng tên này kém may mắn. Ai đó đã bắn trúng tên này, khiến y trèo tòn ten (đầu chúi xuống đất) trên một bụi tre nhờ vào một dây cột ở mắt cá chân.
Sau khi tấn công bằng bộ binh thất bại, chúng chỉ còn bắn rải rác. Lính của Burton giữ vững vị trí. Những ai còn khỏe, đưa kẻ bị thương về một trạm cứu thương lập giữa Baird và Allen. Cuộc hưu chiến tương đối này chỉ kéo dài khoảng 20 phút, khi nổ súng lần nữa trong 5 phút trước khi dịu bớt. Tình hình này đã tiếp tục trong vài giờ kế.
Vị trí của trung đội của Allen ko có chạm súng trực tiếp trong 90 phút đầu tiên của trận đánh. Một đạn pháo của địch đã rơi vào vị trí, nhưng chỉ là đạn nhắm vào vị trí của Burton. Phần lớn thời gian của Allen là cổ võ tinh thần binh sĩ, và chuẩn bị họ cho trận đánh mà y nghĩ sẽ xảy ra. 
Khoảng 1500, đạn địch bay qua đầu họ gia tăng đáng kể. Vài phút sau Allen nghe rõ tiếng đạn AK-47. Chúng đang gần. Y kêu gọi lính chuẩn bị sẵn sàng. 
Rồi ai đó la to, "Chúng tới!". M-16 và M-60 khai hỏa. Do cây cối rậm rạp nên phần lớn lính của Allen ko thấy gì hết. Họ chỉ bắn vào bất cứ chuyển động hay ánh sáng lóe lên từ họng súng trước mặt họ. Phần lớn hỏa lực địch từ bên dưới của sống núi. Allen biết rằng đ.đ. Delta đã bị bao vậy và bị ép từ 2 phía. Rõ ràng, kẻ thù đi theo họ ngay trên sống núi và chỉ chờ cơ hội thích hợp để tràn ngập lính Dù.
TS. Woods nằm bên cạnh một gốc cây và một lính Thượng 15 tuổi bên kia. Khi đạn địch bắt đầu rơi chung quanh họ, người lính Thượng đứng dậy, chuẩn bị chạy. Woods đẩy y xuống. Woods đã làm điều này vài lần trước khi y chú ý đến 1 gốc cây gần đó. Khi Woods nổ 1 loạt M16 vào lính địch, người lính Thượng phóng chạy. Woods nắm thắt lưng tên lính trẻ và đẩy y xuống đất vừa khi một loạt đạn AK47 bắn vào cây mà anh lính trẻ ló đầu. "Thấy chưa!" Woods nói với người lính sợ hãi. "Núp xuống."
Trung đội trưởng Allen đang ném lựu đạn khói để đánh dấu vị trí y cho phản lực và trực thăng võ trang. Cách đó 1 khoảng ngắn, nơi lính bị thương nằm, trung úy Clewly thấy khói. "Ngừng ngay!" y la lên. "Địch sẽ biết vị trí chúng ta. Ngừng ngay! Anh muốn chúng ta chết hết hay sao!"
Clewly tiếp tục la cho tới khi Allen bảo y im miệng hay sẽ bắn chết.  
Đạn pháo binh đang rơi trước mặt vị trí của Allen, nhưng y ko biết ai đang điều chỉnh hỏa lực này; vì ko có tiền sát viên hay FO với y. Y hy vọng rằng bất cứ ai điều chỉnh pháo binh sẽ biết họ đang làm gì. Do rừng rậm dầy đặc, Allen ko thấy hết những nơi đạn nổ. 
Trận chiến quanh đ.đ. Delta tiếp tục. Địch mở tấn công thăm dò vào chu vi phòng thủ, nhưng dễ dàng bị đẩy lui. Gunship, F-100 và pháo binh đã tạo một hàng rào bảo vệ đ.đ này, nhưng họ vẫn cần giúp đỡ.   
===
Khi biết rõ rằng đ.đ. Delta ko thể rút ra được, TĐ trưởng Johnson ra lịnh đ.đ. Alpha và Charlie tiếp cứu họ.   
Trước đó trong ngày, trung đội DSCĐ tới phiên trực, phải đi đầu, đã nổ súng khi lính Thượng nói rằng họ đã thấy khoảng 10 lính Bắc quân hướng tới họ trong rừng. Lập tức đ.đ. trưởng Muldoon cho đ.đ. lập chu vi phòng thủ. Y bảo TS Thornton, chỉ huy trung đội vũ khí nặng, bắn 1 số đạn 60 ly quanh đ.đ. Lính sau đó phát hiện một vết máu và 2 AK47 nhưng ko thấy xác. Muldoon cho lịnh tiến. 
Khoảng 1400, Muldoon nhận lịnh từ TĐ trưởng phải tiếp cứu Delta. Đ.đ. Alpha của Muldoon khoảng 1500 mét đông của Baird, gần đồi 729.  Alpha sẽ phải xuống đồi, vượt qua một thung lũng có sông chảy qua, rồi lên đồi để tới vị trí của Delta. 
Để đi nhanh, Muldoon cho trung đội DSCĐ đi đầu vì họ đã làm tốt trong việc mà Muldoon giao cho. Y nói với chỉ huy của họ, "Tôi biết anh rành khu vực. Đưa tôi tới Delta nhưng ko sập bẫy của bắc quân. Nếu anh đưa tụi tui sập bẫy, tụi tôi sẽ ko cứu các anh. Giờ đưa tụi tôi đến đó nhanh." (Trong trận đánh này, mỗi đ.đ. Mỹ có 1 trung đội DSCĐ đi theo -- người dịch)
Viên TS của DSCĐ gật đầu.  
Muldoon dùng máy gọi TS Terrazas đến gần. (TS Terraza chỉ huy 6 lính viễn thám, đi riêng rẻ -- người dịch). Trong cuộc nói chuyện sau đó, rõ ràng rằng Terrazas ko biết y ở đâu, dù rằng y nghe tiếng súng. Muldoon bảo y tiến về nơi súng nổ; đó phải là đ.đ. Delta. Và Terraza sẽ gặp Alpha ở đó. Muldoon ra lịnh cho đ.đ. tiến. 
Lúc đầu, lính DSCĐ di chuyển vừa phải. Tuy nhiên, khi đ.đ. Alpha tới gần đ.đ. Delta và tiếng súng càng lớn hơn, lính Thượng bắt đầu đi chậm. Chẳng bao lâu, họ bắt đầu đi quanh co và vòng quanh các bụi cây càng lúc càng rậm rạp. Cuối cùng, đ.đ. tiến như rùa bò.
Muldoon liên tục hò hét (exhort) lính Thượng đi nhanh nhưng vô ích. Cuối cùng, y giận dữ bảo họ tránh đường và cho trung đội 2 của Denny đi đầu. Để đ.đ. đi nhanh, y ra lịnh bỏ lại ba-lô. tiểu đội đi đầu của trung úy Denny chặt cây để mở đường.
Trong lúc đó, TS Terrazas và 6 lính viễn thám đã bắt tay với đ.đ. Delta khoảng 1530. 
Khoảng 30 phút sau, các F-100 lần nữa đã thả bom nổ và bom napalm xuống vị trí tình nghi của địch. L-19 hướng dẫn 1 phản lực ném vài quả napalm trước vị trí của trung đội Burton. Thay vì bom rơi trước vị trí của Burton ở đầu phía tây của chu vi của Delta, phi công đã thả ngay bên ngoài của vị trí của Allen ở đầu đông nam của Delta. 
Allen nghe thấy nhiều tiếng người gào thét và nghĩ rằng bom sẽ nổ cách anh 100 m. Nhưng bom đã nổ ở bên kia của một cụm tre, chỉ cách anh khoảng 20 mét! Vì rừng rậm rạp đã giảm sự lan tràn của bom lửa, nên Allen ko biết thiệt hại thế nào của địch. Điều mà y biết là bom quá gần.  
TS nhứt Collins gọi cho đ.đ. trưởng Baird. "Lạy chúa tôi, đích thân," y nói hổn hển, " tôi suýt chết vì bom quá gần."
Baird ko hiểu Collins nói gì.
Đ.u. Connolly đã nhận lịnh của TĐ trưởng rằng phải tiếp cứu đ.đ. Delta.  Đ.đ. Charlie ở khoảng 1 km đường chim bay phía tây của Delta, cao hơn trong các rặng núi tạo nên dãy Ngọc Kom Liệt.
Connolly phải diệt địch quân quanh chu vi phòng thủ của Delta, giảm áp lực từ hướng tây. Con đường trực tiếp tới Delta là phải đi trên một sống núi cao. Y ra lịnh đ.đ. di chuyển. Ở gần đỉnh của sống núi, trung đội DSCĐ đi đầu, đột nhiên đã bị tấn công bởi Bắc quân trong hầm hào vững chắc. Yểm trợ bởi M60 của lính Dù đi phía sau, lính Thượng đã phá hủy vài bunker. Họ tiếp tục tiến lên cao và bị tấn công bởi một hệ thống hầm hào thứ hai. Lần này DSCĐ thối lui. Connolly ra lịnh họ phải trở lại phòng tuyến. Họ từ chối: Họ nói đã làm quá nhiều ngày hôm nay, nếu người Mỹ muốn thì tự làm. 
Connolly giận dữ. Y ra lịnh cho một tiểu đội, chỉ huy bởi thiếu úy Paul Jones 21 tuổi, tấn công phòng tuyến địch. Trong trận đánh Jones bị thương và đ.đ. ngừng tấn công. Connolly bảo tiền sát viên gọi pháo binh nhưng được trả lời rằng pháo phải yểm trợ cho Delta và Bravo ở đồi 823. (Như vậy mỗi đ.đ. tác chiến có một tiền sát viên hay FO, cấp bực trung sĩ hay thiếu úy -- người dịch).
Connolly gọi thẳng vào FDC hay trung tâm điều khiển pháo binh và được yểm trợ vài quả. Thế là đ.đ. Charlie đi tiếp viện mà ko được pháo yểm. Họ đã cố gắng tiến lên, lần lượt phá hủy từng bunker. 
Tiến về phía đông vài km, đ.đ. Alpha đã đi xuống một thung lũng và tìm thấy đường càng dễ hơn khi họ đi vào chân núi của Ngọc Kom Liệt. Kế đó, sau khi nghỉ một lúc trong rừng, hai khinh binh đi đầu, chuyên viên bậc 4 Slaybaugh và Ridders, phát hiện ba Bắc quân đang đi trước họ. Hai người này bắt đầu bám sát 3 tên này. Từ đằng sau, vì thấy đ.đ. di chuyển quá chậm nên trung úy Denny dùng máy gọi họ. Vì hai người này ko trả lời, Denny gọi to. 
Ba tên lính địch, nghe tiếng người nên bỏ chạy. Hai khinh binh liền nổ súng nhưng chỉ hạ một tên. (Khi một đv di chuyển, luôn luôn có 2 người lính đi đầu và song song với nhau -- người dịch). 
Trên sống núi, trung đội trưởng Allen và TS Terrazas nghe súng nổ ở hướng của Alpha. Họ dùng địa bàn để đo hướng và báo cho đ.đ. trưởng Muldoon hướng của Alpha.
Đ.đ. tiếp tục tiến bước. Chẳng bao lâu khinh binh Slaybaugh thấy một dây điện thoại màu xám. Y đi theo sợi dây. Khi lính Dù của Alpha sắp tới địa điểm trận đánh, họ bắt đầu nghe tiếng kêu la và rên rỉ của lính Bắc Việt từ rừng rậm bao quanh họ. Đây đó trong rừng, những chỗ bị napalm đốt cháy có màu đen như dầu hắc hay nhựa đường. Kế đó, chỉ cách 20 mét từ vị trí của trung úy Allen, lính của đ.đ. Alpha thấy phần còn lại của 15 lính Bắc Việt toàn thân bị cháy đen thui. Những súng mà họ cầm cũng bị cháy sém (char). Quả bom napalm thả lầm đã cứu trung đội của Allen.
Lúc 1700 trung đội của Denny đã thế chỗ cho trung đội của Allen. Đ.đ. trưởng Muldoon cho phần còn lại của đ.đ. Alpha ở bên ngoài phòng tuyến của Allen và đi gặp đ.đ. trưởng Delta. 

  Nói thêm về bom napalmNăm 1966, một phi công đã giải thích cho tôi về một số điểm đáng giá: "Chắc chắn chúng tôi rất hài lòng với mấy cậu ở nhà máy hóa chất Dow. Sản phẩm đầu tiên không hấp dẫn lắm – nếu bọn địch nhanh tay nhanh chân, chúng có thể phủi nó đi. Nên mấy cậu bắt đầu cho thêm polystyrene – bây giờ thì nó dính như phân dính mền. Nhưng khi đó, nếu bọn địch nhảy xuống nước thì nó sẽ hết cháy, cho nên họ bắt đầu cho thêm phosphor trắng để làm nó cháy tốt hơn. Giờ thì nó cháy ngay cả ở dưới nước. Và chỉ một giọt là đủ, nó sẽ làm bỏng vào tận xương nên đằng nào thì chúng cũng chết vì nhiễm độc phosphor."  (lượm lặt trên mạng).
Trong buổi chiều, trung úy Burton đã đẩy lui vài tấn công thăm dò của csbv. Trong một tấn công, chuyên viên bậc 4 Jorgenseon đã chết khi bảo vệ vị trí của y. Một HSQ đã bị thương nặng trong khi kéo xác y.    
Bắc quân đã đưa thêm súng liên thanh tới gần vị trí của Burton. Do vậy mọi di chuyển của lính Dù đều bị bắn bởi đối phương. Burton và đồng đội rất thất vọng vì ko có cách trị những súng này. 
Những giờ của buổi chiều qua đi chậm chạp. Burton lo âu vì viện binh ko thể tới họ lúc trời còn sáng. Lúc đó dựa vào bóng đêm bắc quân sẽ tràn ngập họ. Lúc đó 20 tay súng còn lại của Burton làm sao có thể cầm cự nếu trung đội vừa tăng viện (của trung úy Denny của Alpha) cũng tan hàng trước hỏa lực địch. 
Khi đ.đ. trưởng của Alpha tới vị trí của đ.đ. trưởng của Delta, y thấy tình hình của đ.đ. này tệ hơn y đã nghĩ. Y ra lịnh cho y tá của Alpha chăm sóc những thương binh của Delta. Kế đó y đẩy các trung đội của y ra phía trước để tăng cường cho Delta. Khi lính của Alpha đến gần chu vi phòng thủ, súng liên thanh của địch từ trên sống núi bắn xuống khiến mọi người cuống cuồng tìm chỗ núp.  
Máy bay ném bom tới và địch im tiếng súng. Muldoon, giờ đây thay thế Baird, nắm chỉ huy của Delta. Y ra lịnh cho trung úy Denny đi xuyên qua vị trí của Burton để lục soát khu vực. 
Khi Denny chuẩn bị di chuyển, Burton cảnh cáo, "Đừng đi. Súng liên thanh ở trên đó."
Denny nhìn Burton và cười. Sau đó y ra lịnh cho một tổ M60 của Burton đi theo trung đội của y. Họ bắt đầu đi nhưng chưa được 5 mét thì súng đại liên của CS nổ. Xạ thủ M60 của Burton chết lập tức và phụ xạ thủ bị thương nặng. Burton nổi giận vì hai lính của anh đã chết vì hành động bất cẩn (impetuous) của một sq khác.  
Hai trung đội giữ vững vị trí.
Vì bóng tối tăng dần thì súng địch cũng giảm. Muldoon gọi trực thăng tản thương. Mọi cố gắng tản thương trước đó đều hủy bỏ vì hỏa lực địch. Nay máy bay có thể đáp xuống bãi đáp dọn dẹp vội vả bởi trung đội cối của Alpha. Từ 1830 đến 2200, các thương binh nặng bốc hết. Theo yêu cầu của ông, đ.u. Baird là người cuối cùng lên máy bay. (Ông bị bắn trúng cổ tay vào lúc sáng).
Khi tải thương xong, Muldoon ra lịnh cho Burton, Allen và Denny dời vào giữa của chu vi; y muốn có một chu vi càng nhỏ càng tốt. Địch quấy rối quân Dù suốt đêm, bằng cách ném lựu đạn hay pháo cối. Các AC-47, trang bị minigun, đã nhả đạn như mưa xuống các vị trí tình nghi của súng địch. Pháo binh từ Ben Het cũng bắn quấy rối suốt đêm chung quanh 2 đ.đ.  
Đ.đ. Charlie qua đêm khoảng 1 km cách vị trí của Alpha. Sau khi quét sạch tên địch cuối cùng, đ.đ. Connolly nhận ra rằng y ko thể gặp Delta trước trời tối. Vì ko muốn đụng địch khi di chuyển ban đêm, và vì Alpha đã gặp Delta, y đóng quân đêm tại chỗ, và vô sự.  
Khi bình minh của ngày 7/11 ló dạng, bắc quân đã rời bỏ chiến trường. Muldoon tung quân lục soát nhưng ko gặp địch. Muldoon tập trung chăm sóc thương binh.
Tuy nhiên, TĐ trưởng Johnson có kế hoạch cho Alpha. Ông ra lịnh Muldoon phải bắt tay với Charlie và cả 2 tiến tới đồi 823, nơi Bravo đã chiến đấu suốt đêm. Nhưng ông lại đổi ý: Charlie sẽ gặp Alpha và Delta. Một khi đã bắt tay, Alpha sẽ thu hồi những ba-lô mà họ đã bỏ và sau đó ba đ.đ. này sẽ di chuyển hướng đông nam tới đồi 823. 
Trong khi chờ Charlie tới, Muldoon gửi các toán nhỏ thám sát chiến trường. Trước vị trí của trung đội của y, trung úy Burton thấy tám xác Bắc quân và 1 số võ khí. Y rất ngạc nhiên khi thấy vũ khí, đồng phục, trang bị của địch đều mới mẻ. Điều ấy chứng tỏ y đã chiến đấu với một quân đội trẻ trung và kỷ luật tốt.
Sau đó, khi xem xét xác của các Bắc quân bị cháy bởi bom napalm, Burton đã rút 1 khẩu súng lục từ thắt lưng của một sq csbv. Y giao nó cho TS Collins và dặn chuyển tới cho đ.u. Baird như một kỷ vật. 
Tổng kết có tổng cộng 28 xác Bắc quân và 34 võ khí, bao gồm 6 súng liên thanh và hai súng B-40. Delta chết 5 và bị thương 18; Alpha chết 1 và bị thương 2. 
Sau khi duyệt xét trận đánh, Allen và Burton nhận ra rằng Bắc quân đã chiếm vị trí dọc theo sống núi, chỉ chờ đ.đ. Delta đi qua để tấn công vì Bắc quân đã biết rõ vị trí của đ.đ. này khi hoạt động tiếp tế vào tối 5/11.  
Tin tức tình báo thu thập từ xác địch cho thấy Delta đã di chuyển hướng về BCH của TĐ 2 của trung đoàn 66 csbv. Có lẽ Bắc quân nghĩ rằng Delta có thể ko thấy nơi đóng quân của họ và có thể đi ngang qua. Nhưng một khi dây điện thoại được tìm thấy, số mạng của Delta đã được an bài. Đ.đ. thiếu quân số của Baird đã bị ép chặt trong một ê-tô, và một lực lượng khác đã kềm chân Charlie.
Allen và Burton đã nghĩ rằng họ đã được cứu bởi việc tiến quân lên đường mòn khá cẩn thận của đ.u. Baird, cũng như yêu cầu không yểm của ông một khi giao chiến bắt đầu. Nếu đ.u. Baird ko yêu cầu quyết liệt về không yểm, họ đã bị tràn ngập giống như Alpha của 2/503 đã bị trong tháng 6. 
Hai sq trẻ cũng đã rất hãnh diện về các lính Dù phần lớn là thiếu kinh nghiệm chiến đấu của họ. (Như đã viết, mọi quân nhân từ binh nhì đến TĐ trưởng đều phục vụ chỉ 1 năm ở VN, trừ phi họ xin gia hạn thêm 6 tháng hay 1 năm -- người dịch). Các quân nhân tình nguyện (enlisted) đã thi hành lịnh lập tức, ko chút ngại ngùng. Dù bị tấn công dữ dội, họ vẫn giữ vững vị trí, ko bao giờ mất tinh thần trước các tấn công liên tục của Bắc quân. 
Đ.đ. Charlie của Connolly đã tới vị trí của Alpha vào khoảng trưa. Trong lúc họ bảo vệ chu vi và giúp việc tái tiếp tế, Alpha trở về đường cũ của ngày trước để lấy lại ba-lô. Trung đội 3 đi đầu, trung đội DSCĐ đi cuối. Khi họ gần tới chỗ để ba-lô, một lính DSCĐ nổ súng. 
Muldoon lập tức dừng quân. Y cho gọi người lính DSCĐ đó và TS của y. "Bây giờ, hai anh phải đi đầu," y nói một cách giận dữ. "Nếu phát súng là báo động cho VC, hai anh đáng chết. Di chuyển ngay lập tức!"
Vài phút sau Alpha đã thấy chỗ mà họ bỏ lại ba-lô. Đều còn nguyên. Đ.đ. trở lại vị trí của Charlie vô sự. 
Dù TĐ trưởng Johnson đã dự định 4 đ.đ. sẽ gặp nhau ở đồi 823 vào chiều 7/11. Một trực thăng tiếp tế đã rơi khi cất cánh từ Ngọc Kom Liệt. Máy bay đã rơi trước vị trí của binh nhì Brangaitas. Y nghĩ rằng trực thăng bị bắn nên chuẩn bị tác chiến. Tuy nhiên, hóa ra là hư hỏng kỹ thuật khiến nó bị rơi. 
Vì cần tháo gở các máy truyền tin, súng M60 và các trang bị khác của trực thăng, lính Dù đã ở tại chỗ thêm 1 đêm cho tới khi xong. Vào buổi sáng hôm sau, vì nghĩ rằng trực thăng ko thể thu hồi an toàn, nó đã được phá hủy. 
Chiều hôm đó, ba đ.đ. này cuối cùng đã đến chân của đồi 823. Họ đã đi tuần chung quanh đồi này ngày hôm đó; ngày kế họ được đưa về Ben Het và CCHL 12. TĐ trưởng đã có ý muốn đuổi Bắc quân về phía tây, nhưng cấp cao hơn đã quyết định TĐ ông phải dưỡng quân và nhận lính mới./.
Chuyển ngữ từ trang 131 đến 148 của quyển Dak To của Edward Murphy.
SJ ngày 18/6/2024.
Tài Trần.
=========================

PHẦN ĐỌC THÊM: 

If someone tells you to "Get your head out of your ass," it means that you have to start paying more attention to what's going on around you. Nếu ai đó nói với bạn câu này, có nghĩa bạn phải bắt đầu để ý nhiều hơn cái gì chung quanh bạn(It could also mean that you have to stop being so consumed with yourself, and your own well being, stop being so conceited.
John: I am so good at painting, I must be like Michelangelo! John: Tôi vẽ rất tốt, I phải là Micheangelo!)
Matt: Get your head out of your ass, John! (Matt: Đừng có nằm mơ, John!)

Jack: (Runs into someone at store, cause he's texting)

Man: Get your head out of your ass, and start paying more attention!
by cowboymatt1 October 24, 2014
                     
2/ Goddamnit: (Ông giết tôi rồi) Goddamnit is an informal and sometimes offensive interjection1that is used to express anger, perplexity, amazement, etc.1It is often a reaction to a serious mistake made by an incompetent person2The word is a contraction of "God damn it", which is a curse that invokes God's wrath on something or someone1.