Giải cứu Huế Tết Mậu Thân (1) * Triệu Phong chuyển ngữ
Kể từ ngày mồng một Tết Canh Tý (2020), thân tri bắt đầu khởi đăng tập bút ký chiến tranh “The Siege at Hue” của George W. Smith do Triệu Phong chuyển ngữ.
“Những trận đánh giải cứu Huế Tết Mậu Thân” là đề tựa của bản tiếng Việt.
Đối với nhiều sử gia, trận đánh Huế đánh dấu thời điểm quan trọng của cuộc chiến kéo dài 20 năm. Những tường thuật về những trận giao chiến ác liệt từng ngày tại đây khiến công luận Mỹ trở nên tin rằng cuộc chiến không thể đi đến một chiến thắng. Từ đó Mỹ bắt đầu tính đến chuyện rút khỏi cuộc chiến.
Tác giả George W. Smith đã vô tình bị kẹt ở Huế trong suốt thời gian xảy ra biến cố Tết Mậu Thân năm 1968. Là sĩ quan ngành thông tin và cố vấn quân sự cho một số đơn vị lính miền Nam thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tác giả có cơ hội thu thập được nhiều dữ kiện quí báu, được dịp phỏng vấn các nhân vật liên quan đến biến cố, nhờ vậy cống hiến cho chúng ta diễn tiến từng ngày từng giờ của trận Mâu Thân.
Đúng ra sách đã được dịch xong từ hồi năm 2004 và đã có giấy phép chấp thuận của nhà xuất bản nhưng mãi đến nay dịch giả vẫn chưa chịu đem in thành sách. Lần này thì dịch giả nhượng bộ khi bằng lòng để cho thân tri đem chia xẻ trước với bạn đọc qua không gian mạng lưới toàn cầu, dự trù sẽ được chia thành trên dưới 20 kỳ. Mong được sự đón nhận của bạn đọc.(tt)
~*~*~*~*~*~*~*~*~

Tựa của nguyên tác Anh ngữ
THE SIEGE AT HUE
LYNNE RIENNER PUBLISHERS . COLORADO
~*~*~*~*~*~*~*~*~
“This book is to be neither an accusation nor a confession, and least of all an adventure, for death is not an adventure to those who stand face to face with it. It will try simply to tell of a generation of men who, even though they may have escaped its shells, were destroyed by the war.”
Eric Maria Remarque, 1928
(In the forward to his book,
All Quiet On The Western Front)
~*~*~*~*~*~*~*~*~
LỜI MỞ ĐẦU
Mùi tử khí ập vào giác quan nồng như hơi nóng hực ra từ lò lửa. Một thứ mùi chua chua và hăng như mùi rác thối mục. Thoạt đầu hít phải thật không chịu nổi, để dể chịu phần nào tôi phải ráng thở bằng miệng.
Địa điểm nằm ở ngay bên ngoài khu tường thành Huế, nơi đó các phụ nữ lớn tuổi cùng con cái họ đang thận trọng bới từng vốc cát từ một nấm đất nằm trên một bãi đất rộng cỡ một sân banh. Những người đang đào áo quần tả tơi, mặt trùm bằng khăn mù soa.
Dần dần sau khi lớp cát trên mặt được dọn đi, một phần cơ thể con người lộ ra ngoài. Rồi một cái khác, lại tiếp một cái nữa. Nào xác đàn ông, xác đàn bà, và cả xác trẻ con. Họ được bới lên sau vài tuần nằm yên nghỉ dưới lớp cát mỏng. Có những xác có vết đạn ghim trên thân thể, có những xác tay bị trói quặt ra đằng sau bằng dây thừng hoặc dây kẽm. Nhiều người miệng vẫn còn mở há hốc vì tiếng thét lặng câm đã đông giá trên khuôn mặt họ.
Các xác chết đều đẫm ướt như thể họ đã bị trấn nước trước khi bị lấp xuống đất. Hình như nhiều người đã bị chôn sống.
Mấy người phụ nữ lớn tuổi quì xuống cạnh hố chôn, mặt ngước lên trời xanh miệng mở lớn lộ ra những hàm răng đen. Thân hình họ đong đưa chầm chậm qua về. Không gian bao trùm đầy tiếng khóc não nùng lê thê. Mặt họ choắt lại vì đau đớn cùng tột. Tiếng kêu gào chợt ngưng để thay bằng những tiếng nấc nghẹn ngào.
Cách đó không xa một tốp người khác đào được một xác nữa, như thế lại thêm những tiếng khóc nối tiếp lên. Rồi cứ thế thêm nữa và thêm nữa. Không mấy chốc, vùng đất khô cằn ngập tràn mùi tử khí và những tiếng kêu khóc thảm thiết. Tiếng gào rú thanh âm như tiếng sói hú dưới đêm trăng.
Mỗi xác chết cứ thế được đưa lên rồi đặt trên một khoảng đất bằng. Gia đình thân nhân tụ lại xung quanh và họ lại khóc lớn hơn. Các xác chết bị trói được cởi tháo cẩn thận rồi tay họ được xếp chéo ra trước ngực. Xe tải đến, các xác chết được chuyển lên để đưa về khu mộ gia đình. Sau khi lấy hết xác lên, người ta bỏ đi không ai màng đến việc lấp hố lại.
Buổi sáng không quên đó nhằm vào tháng Ba năm 1968, trời nắng ấm thật dễ chịu sau hai tháng ròng thời tiết xấu. Thật chua chát làm sao, người ta lại khám phá ra một việc rất đỗi kinh hoàng vào một ngày đẹp đẽ như thế.
Người tài xế và tôi dừng xe trông về phía những gia đình bất hạnh đang lủi thủi bước theo đoàn xe đưa xác đi về hướng thành phố. Chúng tôi đưa mắt nhìn những chiếc hố ở hai bên bây giờ trống không, không ai nói với ai một lời. Qua cuộc giao tranh kinh hoàng của trận đánh Huế suốt tháng qua, giác quan chúng tôi hầu như đã chai lì qua những gì đã thấy và ngửi thấy về mùi chết chóc.
*
Trận đánh Huế kéo dài từ 31 tháng Giêng đến 25 Tháng Hai năm 1968 là trận chiến dai dẳng nhất trong chiến tranh Việt Nam. Riêng cuộc chiến này đã lấy mất 5.713 sinh mạng, trong đó phía Mỹ có 142 thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), 74 bên Lục Quân. Nam Việt mất 384 còn phía Miền Bắc tổn thất lên đến 5.113. Ngoài ra, vào những tuần và tháng kế tiếp người ta lại đào thêm được gần 3.000 xác khác bị chôn dưới những hố nông tìm thấy rải rác chung quanh Huế. Hầu hết họ đều là nạn nhân bị thảm sát bởi tay của quân lính CS cùng các cảm tình viên của họ.
Khác với vụ Mỹ Lai, gây ra bởi lính Mỹ xảy ra vào khoảng cùng thời gian, thế giới hầu như ít quan tâm tới cuộc thảm sát này ở Huế. Người ta chỉ xem vụ này như là một chú thích nhỏ trong dòng lịch sử của một cuộc chiến không mấy ai ưa.
Các sử gia đều đồng ý rằng Huế là nơi mà giao tranh trên đường phố là khốc liệt nhất kể từ những cuộc giao tranh ác liệt ở Hán Thành (Seoul) trong chiến cuộc Triều Tiên. Các đơn vị quân Nam Việt và Mỹ đã một phen kinh hồn bởi lực lượng hùng hậu của đối phương làm họ phải vất vả trong nhiều ngày ở mức độ suýt bị tiêu diệt hoàn toàn. Trận tử chiến của Huế làm các cựu chiến binh thời Đệ Nhị Thế Chiến nhớ lại trận đánh ác liệt Bulge ở Bỉ.
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công Tết Mậu Thân, đặc biệt là trận đánh ở Huế, đã đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách can thiệp của Mỹ tại Việt Nam. Dầu rằng phe Cộng Sản đã chịu tổn thất nặng nề và không đạt được mục tiêu lôi kéo quần chúng miền Nam về phía họ nhưng họ đã tỏ cho thấy sức chịu đựng kiên cường trước hỏa lực hùng hậu của Mỹ. Sự chịu đựng vượt mức tưởng tượng và họ đã chịu đựng tới cùng.
Nhiều chuyên gia tin rằng sau trận Mậu Thân phe CS miền Bắc sẽ chủ động cuộc chiến vì rõ ràng quân du kích ở Miền Nam đã hoàn toàn bị quét sạch. Các cuộc công kích Tết Mậu Thân và cuộc vây hãm dai dẳng ở Huế đã khiến Hoa Kỳ phải xét lại chính sách can thiệp của họ ở Việt Nam và dần hồi đảo ngược lại sự cam kết của mình.
Đối với chúng tôi những kẻ tham chiến tại Huế, ít ai nghĩ đến những hệ lụy về lâu về dài. Chúng tôi chỉ nghĩ đến từng ngày một, mong sao được sống sót.

VIỆC TỪNG NGÀY

Tài Liệu từ Phía Đồng Minh
Ngày 31 Tháng 1 năm 1968
3 giờ 40 sáng: Quân Cộng Sản Bắc Việt bắn rocket tấn công khắp mọi nơi trong thành phố Huế. Địch tràn ngập hầu hết các nơi trong thành phố, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh nằm ở góc phía Bắc của kinh thành Huế, và cơ quan MACV của Mỹ ở phía Hữu ngạn sông Hương.
8 giờ sáng: Cờ Mặt Trận Giải Phóng kéo lên trên kỳ đài Phu Văn Lâu.
2 giờ 20 chiều: Hai đại đội Thủy Quân Lục Chiến Mỹ từ Phú Bài cách Huế 11 km về phía Nam đến được cơ quan cố vấn quân sự MACV.
Ngày 1 Tháng 2. Quân tăng viện quân đội Miền Nam từ phía Bắc của Huế đến được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Một đại đội TQLC Mỹ khác đến được MACV.
Ngày 2 Tháng 2. Đại đội TQLC thứ tư đến MACV.
Ngày 3 Tháng 2. TQLC Hoa Kỳ đặt bộ chỉ huy trung đoàn ở MACV. Quân Mỹ tiếp nhận tiểu đoàn của SĐ1 Không Kỵ ở mặt Tây Bắc thành phố Huế.
Ngày 4 Tháng 2. Cầu An Cựu trên Quốc Lộ 1 cách Huế 3 km bị giật sập.
Ngày 5 Tháng 2. Tiểu đoàn Không Kỵ thứ hai đến Tây Bắc Huế.
Ngày 6 Tháng 2. TQLC Mỹ chiếm lại Tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và nhà lao Thừa Phủ.
Ngày 7 Tháng 2. 5 giờ sáng: Đặc công CS phá sập Cầu Trường Tiền, cây cầu chính bắc qua sông Hương. Tướng Westmoreland bay ra Đà Nẳng đề thẩm tra tình hình.
Ngày 11 Tháng 2. Hai Đại đội TQLC Mỹ cùng 5 chiến xa tiến vào Thành Nội.
Ngày 12 Tháng 2. Những thành phần còn lại của tiểu đoàn TQLC Mỹ và 2 tiểu đoàn TQLC Nam Việt tiến vào Thành Nội. Ba tiểu đoàn Dù NV rút về Sài Gòn.
Ngày 13 Tháng 2. TQLC Mỹ bị chận đường tiến sau khi khởi sự cuộc tấn công. Tướng Creighton W. Abrams thiết lập văn phòng chỉ huy Bộ Chỉ Huy Tiền Phương MACV ở Phú Bài.
Ngày 14-15 Tháng 2. Oanh tạc ồ ạt vào các cứ điểm địch ở Thành Nội.
Ngày 16 Tháng 2. Tướng Trưởng, tư lệnh Sư Đoàn 1 (SĐ1) Bộ Binh bay về Phú Bài để hội kiến cùng Phó Tổng Thống Nam Việt Nguyễn Cao Kỳ. Một đại đội thuộc SĐ101 Nhảy Dù Hoa Kỳ nhận trách nhiệm mặt Tây Bắc thành phố. Một tiểu đoàn TQLC Nam Việt thứ ba đến nội thành.
Ngày 19 Tháng 2. Tiểu đoàn Không Kỵ thứ ba của Mỹ tiếp nhận mạn Tây Bắc.
Ngày 21 Tháng 2. Quân Mỹ tràn ngập BCH trung đoàn địch ở La Chử, phía Tây Bắc Huế.
Ngày 22 Tháng 2. Hai tiểu đoàn Biệt Động Quân Nam Việt đến Thành Nội.
Ngày 24 tháng 2.
5 giờ sáng: Quân Nam Việt thượng cờ lên Kỳ Đài Phu Văn Lâu.
3 giờ 15 chiều: Quân Hắc Báo càn quét địch ở khu vực Đại Nội.
Ngày 25 tháng 2. An ninh ở Thành Nội coi như chính thức hoàn toàn được vãn hồi. Tổng Thống Nam Việt Nguyễn Văn Thiệu vào Thành Nội để khen thưởng binh sĩ.

Tài Liệu từ Phía đối phương
(Trích từ tài liệu bắt được của phe Cộng Sản nhan đề ‘Hai Mươi Lăm Ngày Đêm Chiến Đấu Liên Tục Giành Lấy Thắng Lợi Thần Kỳ’)
Ngày 31 Tháng 1 năm 1968. 12 giờ 33 sáng: Ta mở cuộc tiến công vào Huế và làm chủ hoàn toàn thành phố. Mở 8 mũi tiến công; đánh và diệt một trăm tên địch.; Tiêu diệt 4 xe bọc thép M113 cùng nhiều máy bay.
Ngày 1 Tháng 2. Tấn kích phi trường Tây Lộc, hủy diệt 40 máy bay và đánh bật mọi cuộc phản công của địch; diệt được nhiều tên địch.
Ngày 3 Tháng 2. Tiếp tục đánh bật nhiều cuộc phản công và tiêu diệt hàng trăm tên địch. Hoàn toàn làm chủ thành phố.
Ngày 4-6 Tháng 2. Diệt 9 tàu tiếp tế của địch (Ngày 4, hai chiếc; ngày 5, hai chiếc; ngày 6, năm chiếc) tất cả đều đầy lính Mỹ và vũ khí đạn dược.
Ngày 7 Tháng 2. Tiêu diệt một tiểu đoàn và một đại đội địch ở cửa Chánh Tây và cống Thiếu Quan.
Ngày 8-10 Tháng 2. Đánh bật nhiều cuộc tiến công và tiêu diệt được nhiều tên địch.
Ngày 11 Tháng 2. Diệt 40 tên địch ở cửa Chánh Tây, phá hủy một tầu địch và bắt sống được nhiều tên khác, trong số có một đại úy của chính quyền bù nhìn Sài Gòn.
Ngày 12-13 Tháng 2. Đánh bật nhiều cuộc tiến công của địch và giải phóng thêm được nhiều khu vực.
Ngày 14 Tháng 2. Đánh bật 10 cuộc tấn kích ở cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Chánh Tây và đường Cường Để; diệt 400 tên địch, bắn hạ một máy bay, phá hủy 2 xe bọc thép. Một tổ du kích của ta đã kiên cường chiến đấu suốt ngày trường diệt được 50 tên địch, giải phóng thêm nhiều khu vực mới và phá hủy một tầu địch.
Ngày 17 Tháng 2. Đánh bật 5 đợt tấn kích, diệt hằng trăm tên địch; tám tên bị bắt sống.
Ngày 18 Tháng 2. Đánh bật 5 cuộc phản công, diệt 190 tên địch; phá hủy 2 xe bọc thép, bắn hạ 2 máy bay, tiêu hủy hoàn toàn 6 tầu tiếp tế (Tầu chở 40.000 lít xăng)
Ngày 19 Tháng 2. Đánh bật ba đợt phản công, diệt 200 tên địch; phá hủy một tầu.
Ngày 20-21 Tháng 2. Đụng độ lực lượng địch ở Bôn Tri và Bôn Phả ở hướng Tây Bắc Huế; diệt hai trăm tên giặc Mỹ xâm lược, bắn chìm ba tầu chiến đấu chất đầy quân địch và vũ khí.
Ngày 22 Tháng 2. Đánh bật 7 đợt phản công, diệt hằng trăm tên địch ở khu vực Thành Nội. Diệt 100 tên lính Mỹ (gồm cả 30 lính đánh thuê Pắc-Chung-Hy), phá hủy 2 xe quân sự, hai tầu chiến, diệt thêm 8 tên xâm lược Mỹ ở La Chử.
Ngày 23 Tháng 2. Ta mở cuộc phản kích và diệt được 50 tên địch, phá hủy hoàn toàn một tầu chiến đấu, hai tầu đổ bộ khác. Diệt 23 tên lính Mỹ ở cửa Thượng Tứ và cửa Đông Ba; tịch thu 25 súng cá nhân. Trong suốt 3 ngày (21-23) ta diệt được 400 tên giặc Mỹ xâm lược ở An Hòa (góc Đông Bắc thành Huế), bắn hạ và hoàn toàn tiêu hủy một máy bay lên thẳng.
~*~*~*~*~*~*~*~*~

Trong một phiên họp ở Honolulu vào tháng 2 năm 1966, TT Lyndon Johnson hỏi vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Mỹ ở VN, Tướng William Westmoreland, rằng ông sẽ quyết định thế nào nếu ông là địch quân.
“Chiếm Huế,” Tướng Westmoreland trả lời không chút do dự, ông giải thích rằng Huế là biểu tượng của một Việt Nam thống nhất. “Lấy được Huế sẽ đạt được một tác động tâm lý sâu xa trong lòng người Việt của cả hai miền; trong chiều hướng đó phe CSBV nhờ nắm được hai tỉnh cực bắc sẽ sử dụng để mặc cả trên bàn thương thuyết.”
Hai năm sau cũng khoảng thời gian này địch quân chiếm Huế và giữ được nó trong suốt một tháng. Đơn vị chiến đấu duy nhất để đối đầu với đợt tấn công đầu tiên chỉ là một đại đội biệt lập Nam VN trong khi đơn vị quân Mỹ đóng gần nhất lúc ấy cách Huế đến hơn mười cây số.
No comments:
Post a Comment