Giải cứu Huế Tết Mậu Thân (10) * Triệu Phong chuyển ngữ
CHƯƠNG SÁU
Trực Diện Vô Tri
Sau ngày thứ nhất tình hình ở MACV có phần nào lắng dịu nhưng lực lượng địch vẫn kiểm soát hoàn toàn khu vực chung quanh.
Từ trạm gác ở tầng lầu hai của tòa nhà MACV mà bây giờ được TQLC đặt cho biệt danh ‘Alamo’ (Tên của khu nhà thờ ở San Antonio, Texas, nơi cố thủ của 180 dân quân Texas bị một lực lượng hằng ngàn quân Mexico do Tướng Santa Anna chỉ huy tấn công và bao vây vào Tháng 2 năm 1836. Họ bị tiêu diệt sau một tháng kháng cự.), tôi thấy toàn cảnh của vùng trời bên trên Thành Nội của đêm 31 tháng Giêng; dù trời có âm u nhưng trông vẫn tuyệt vời.
Phi cơ bay ở cao độ thấp thả trái sáng biến đêm đen thành ban ngày, và cứ thế suốt đêm. Trái sáng lặng lờ trôi xuống đất theo chuyển động hình trôn ốc cho đến khi tắt ngúm rồi lại tiếp nối bằng trái khác loé lên để rồi cũng bắt đầu xoáy dần vào nỗi chết không dứt. Những bóng đen in lên đám mây thấp vẽ nên những hình ảnh quái dị trên toàn cảnh của hai bờ sông Hương. Khi trái sáng đến gần mặt đất hơn những bóng đen ấy di chuyển giữa các tòa nhà khiến các xạ thủ đại liên đang giữ tay trên cò súng càng thấy ngứa ngáy thêm.
Đang mãi mê nhìn hỏa châu, tai tôi bỗng nghe âm thanh của đại liên, súng trường M-16 lẫn AK. Thỉnh thoảng có tiếng của đạn cối vừa ra khỏi nòng, tiếp đó là tiếng nổ chỉ cách vài mét. Có lần lúc ban ngày tôi nhìn lên trời thì vừa thấy một trái đạn cối đang bay xuống nóc nhà kế cận. Các viên cố vấn lăng xăng chạy tới chạy lui chòi canh này đến chòi canh khác để trấn an mọi người. Họ thông báo tin tức, phát thêm đạn lẫn khẩu phần lương khô ration C. Tôi phải tập nuốt ration C nguội lạnh cho quen vì suốt trong một tháng sẽ không có đồ nóng mà ăn.
Trong khi dân cố vấn vẫn ở nguyên vị trí thì TQLC Mỹ từng nhóm 2 hoặc 3 người lo đóng chốt ở đầu đường và trên các cao ốc. Họ còn tăng cường phòng thủ cả trong khu vực cơ quan. Sự hiện diện của họ làm mọi người cảm thấy nhẹ nhỏm hơn. Nhưng không vì thế mà đạn cối ngưng rơi và cũng không lấy gì bảo đảm là địch sẽ không tấn công.
Trong khi ban tham mưu TQLC lo thảo kế hoạch hành quân cho ngày mai thì binh lính của họ lo tranh thủ ngủ được chút nào hay chút đó; họ ý thức được rằng khi ánh dương lên họ sẽ xông pha ra ngoài kia, một vùng đất không quen thuộc với họ. Lính TQLC chưa từng được huấn luyện tác chiến trong thành phố, lính Nam Việt ở trong Thành Nội cũng thế. Lần sau cùng TQLC nếm mùi này là trận ác chiến ở Hán Thành (Seoul) trong cuộc chiến Triều Tiên vào năm 1951. Trận chiến hồi đó là đối đầu với sự đánh tập hậu của địch, còn ở Huế thì khác, hoàn toàn khác. Lực lượng địch ở Huế cố thủ kiên cường, trang bị tối tân và đầy đủ, sẳn sàng bám trụ tới cùng.
*
Phía TQLC nhanh chóng nhận chân ra rằng cuộc hành quân mang tên ‘Operation Hue City’ như họ mệnh danh cho sứ mệnh giành lại Huế, sẽ kéo dài hơn dự liệu nhiều. Sẽ lâu hơn hai, ba ngày. Có thể một tuần hoặc lâu hơn nữa.
TQLC cần nhất trước mắt là nghỉ dưỡng vì họ cần lấy sức để sống còn trong những ngày sắp đến. Vậy mà hỏa châu và pháo cối vẫn không chịu buông tha khiến họ chỉ có những giấc ngủ chập chờn như giấc ngủ của mèo. Ngủ không được mà ngồi hút thuốc cũng không hay ho gì hơn vì những tay bắn lén của địch sẽ nhân đó mà làm họ toi mạng như chơi.
Quyết định tiên khởi của Bộ Chỉ Huy Quân Đội Đồng Minh là chia Huế ra làm hai vùng ảnh hưởng. Tái chiếm Thành Nội và những khu vực thuộc phía Bắc sông Hương là việc của quân đội Miền Nam; vùng phía Nam, còn gọi là khu Hữu Ngạn thì giao phó cho TQLC HK.
Thoạt đầu, chưa ai nghĩ đến việc sử dụng thêm những lực lượng quân Mỹ khác dù rằng thành phần của Sư Đoàn 1 Kỵ Binh và Sư Đoàn 101 Dù đang hiện diện ở căn cứ Evans cách Huế 25 km về phía Bắc. Tướng Westmoreland miễn cưỡng không muốn dùng những đơn vị đó vì ông thấy không cần thiết. Ngoài ra họ mới dọn về chưa quen địa hình địa vật. Nếu có dùng chăng thì ông sẽ gởi ra tăng cường vùng Phi Quân Sự (DMZ), đặc biệt là Khe Sanh, vì ông vẫn tin đó mới là mục tiêu chính của địch.
TQLC sử dụng CLB SQ của MACV làm BCH hành quân. Họ hội ý với Đ/tá Lục Quân Adkisson và ban tham mưu của ông ta trong vấn đề hành quân truy quét địch chỉ là phép xã giao mà thôi chứ thật ra mọi quyết định về chiến thuật chiến lược là của họ hết. Sau này Adkisson nói:
“Khỏi phải thắc mắc mọi sự đều do TQLC lo hết, họ lo đánh nhau và chịu tổn thất nặng nề. Trận đánh Huế hoàn toàn của họ cả.”
*
Tr/sĩ Gonzalez gia nhập TQLC được khoảng 3 năm nhưng thăng cấp nhanh chóng vì anh vốn con nhà lính. Ai nhìn anh cũng đều nễ phục. Việc anh được đặc cách lên làm thường vụ trung đội trưởng trong cuộc hành quân tăng viện cho MACV không làm ai trong Trung Đội 3 ĐĐ Alpha 1/1 ngạc nhiên.
Dù chỉ mới 21 tuổi nhưng hành động của anh già trước tuổi mình. Những binh sĩ khác phần đông chưa tới độ đôi mươi cũng già dặn như thế; họ thành nhân trong một thời gian kỷ lục. Hằng tháng trời sống thao thức, mắt luôn nheo để lấy tầm nhắm, thường xuyên cảnh giác mìn bẩy, hầm chông, buộc họ phải già dặn nhanh nếu không thì khỏi sống để mà già thêm. Có điều chắc chắn là họ sẽ già nhiều hơn nữa trước khi chiến dịch này chấm dứt.

Sự bố trí của quân đội Đồng Minh trong trận đánh tái chiếm Huế suốt tháng 2 năm 1968. Khởi đầu quân Mỹ chịu trách nhiệm lấy lại vùng Hữu Ngạn còn Tả Ngạn giao cho quân Nam Việt. Về sau TQLC Mỹ kiêm nhiệm thêm khu vực B và D của Thành Nội, tức là vùng quanh cửa Đông Ba và cửa Thượng Tứ như thấy trên bản đồ. (Courtesy of army.mil)
Tr/tá TQLC Gravel nhận chỉ thị phải đẩy địch ra khỏi khu Nam sông Hương. Khu vực trách nhiệm của ông rộng 11 khu phố và bề sâu là 9. Để thực thi công tác này ông chỉ có 2 đại đội trừ (đại đội trừ là đại đội có có quân số dưới cấp số qui định.) Alpha 1/1 và Golf 2/5; một lực lượng gồm có 300 tay súng, 4 chiến xa M-48, 2 quân xa có trang bị đại liên 50 bốn nòng, và 2 chiến xa hạng nhẹ M-41 của quân đội Miền Nam để lại.
Tuy còn căm hận về vụ bắt Đại Đội Golf hành quân qua bên kia cầu ngày trước, Gravel vẫn là người biết tuân thượng lệnh tuy ông thuộc ‘týp’ sĩ quan hay cự nự và ưa nạt nộ ồn ào. Với tâm niệm ‘tôi làm được’ (can-do), ông đã cho lính của mình lao ra trận địa hôm 1 tháng Hai mà không hề biết tình hình ngoài ấy ra sao mà cứ thây kệ tới đâu hay tới đó, cứ nghĩ rồi ra mình sẽ vượt qua các chướng ngại.

Tr/tá Mark Gravel, TQLC Mỹ. Chú ý ông mang lon theo lối quân đội Nam Việt. (Marines.mil)
Gravel hội ý với ban tham mưu của ông gồm Th/tá Frank Breth và Wayne Swenson, Đ/úy Jim Coolican, cùng tất cả sĩ quan liên lạc và cố vấn TQLC. Sự thiếu vắng của Th/tá Murphy là nỗi xót xa cho ông. Trong suốt buổi họp hầu như chỉ mình ông phát biểu và la lối. Ông không cần phải giấu giếm sự khinh miệt ra mặt đối với sĩ quan cao cấp của MACV là Đ/tá Adkisson, người mà ông đã hai lần đụng độ nẩy lửa. Đường đường là TQLC thì không bao giờ xài đến con cái thuộc các binh chủng khác. Không phải bởi lý do cá nhân mà thường là như vậy.
Không những thế Tr/tá Gravel còn dám xỉ vả cả cấp trên của mình ở Phú Bài vì đã ban lệnh mà không dựa theo một nguồn tin tình báo đáng tin cậy nào. Hơn ai cả chỉ ông mới thấu hiểu tình huống của mình ở Huế: Ông vững tin rằng không có yểm trợ bằng pháo binh và phi cơ thì tấn công trực diện chỉ là tự sát. Điều duy nhất ông học được hôm qua khi cho quân xung phong qua cầu là lực lượng địch đông đảo và mạnh gấp bội khác với suy nghĩ của mọi người. Ông cần có thêm người, thêm vũ khí nặng, và ông cứ tiếp tục la lối đòi hỏi với các cấp chỉ huy cao hơn cho đến khi được các thỉnh cầu được thỏa mãn.
Giọng oang oang của ông người ta có thể nghe ở khắp cơ quan MACV.
“Bộ mấy người dưới đó không biết chuyện gì đang xảy ra trên này sao?” Gravel la om sòm đi tới đi lui trong phòng chỉ huy. “Trước tiên nhờ hên lắm tôi mới lên được tới đây. Bây giờ họ lại muốn tôi thanh toán cho xong trong hai ba ngày. Nếu tôi không có thêm quân và trang bị, địch sẽ thanh toán hết chúng tôi trước.”
BCH muốn Gravel phải đánh về hướng Tây để giải cứu một đơn vị quân chính phủ Miền Nam đang đồn trú ở nhà Lao Thừa Phủ; mục tiêu này cách MACV 1.200 mét hay 8 khu phố.
Với nghiệp dĩ TQLC, Gravel không chống thượng lệnh nhưng trong thâm tâm, ông dư biết sứ mệnh sẽ không thành. Ông ban lệnh xuống để rồi không mảy may ngạc nhiên khi biết quân của mình bị cầm chân cách MACV chỉ 50 mét.
TQLC không vượt qua nổi khu phố đầu tiên.

TQLC Mỹ Đại Đội A TĐ 1/1 hành quân ở khu vực trường Đại Học Huế đưa một đồng đội bị thương ở chân từ trên mái xuống. (DoD/MarineCorps)
“Mỗi cao ốc là một pháo đài; từng căn như thế đan kết với nhau thành một mạng lưới đạn,” một binh sĩ kể lại với tôi. “Anh chỉ cần chường mặt ra một tích tắc thôi là ăn đạn liền. Chúng tôi tiến từng chút một nhưng rồi đến tối thì buộc phải kéo về.”
Ưu tiên một là lấy cao ốc chính của trường Đại Học Huế nằm ở đầu cầu Trường Tiền trước; tòa nhà này chỉ cách MACV một khu phố về hướng Bắc, nó nhìn ra bãi đáp trực thăng và bãi đổ hàng của Hải Quân. Đến trưa mọi người thật sự cảm nhận được tình huống nghiêm trọng đến chừng nào. Cứ mỗi TQLC tiến tới lại một người được khiêng về bệnh xá với một vết thương kinh khiếp.
“Y hệt như mình chiến đấu với bầy ong vỡ tổ,” Một binh nhì kể cho một đặc phái viên. “Chúng tôi chịu hỏa lực từ mặt đường, từ cửa sổ, từ nóc nhà; phải bò lết mà tiến quân; có khi phải gọi chiến xa yểm trợ để kéo mấy người bị thương đến chỗ an toàn. Hình như địch được lệnh cố thủ vị trí của mình và giành lấy từng tất đất không để cho mất. Chắc họ có nhiều đạn lắm.”
*
Một số viên cố vấn cũng bị buộc phải ra chiến đấu. Lính ngành Jim Mueller, một thư ký văn phòng, cùng với đôi ba lính bộ binh nhập chung với tiểu đội TQLC để giải cứu một số thường dân đang bị kẹt trong một căn nhà gần bên MACV.
Sau này Muller viết thuật lại: “Tôi sợ té đái luôn. Suốt đời tôi chưa bao giờ làm chuyện đó. Viên trung sĩ nói với tôi địch sẽ bắn chỗ nào có màu sắc rực rỡ; thế là tôi phải loay hoay lo xé hết phù hiệu lon lá trên cầu vai xuống. Tôi nhét thêm vào bộ đồ trận vài băng đạn carbine và lựu đạn; kế đó phụ với TQLC chất lên chiến xa càng nhiều đạn càng tốt.”
Chiến xa với tiểu đội tùng thiết theo sau tiến ra khỏi cổng và từ từ rẽ lên QL1 men theo bờ tường bên phía đối diện cơ quan.
“Đột nhiên tôi lọt vô tầm đạn của một tên bắn lén nào đó núp trong căn nhà bên kia đường,” Mueller kể.
“Đạn bắn ra từ một khung cửa sổ có mành gỗ trên gác lửng. Tôi chưa bắn trả vì tôi phải xin phép viên trung sĩ trước, bởi thế tôi lên tiếng, “Trung sĩ à, có người ở trên kia mới bắn tôi đó.” Y hỏi lại, “Ở đâu?” Tôi chỉ tay rồi đáp, “Kia kìa.” Y liền nói, “Bây giờ thì chúng không có bắn anh đâu.” Tôi đáp lại, “Không phải vậy, à mà tôi có được bắn trả lại không?” Y trả lời, “Lần sau nếu hắn bắn anh nữa thì cho tôi biết rồi bắn.” Tôi ngẫm nghĩ: chiến tranh gì mà quái chiêu, một người lính muốn tự vệ cũng phải xin phép.
Một lát sau họ tiến vào một căn nhà giống như được dùng để làm bệnh xá.
“Trong phòng không có bao nhiêu giường nhưng chính giữa có đặt một chiếc có màn phủ chung quanh,” Mueller viết thêm.
‘Phận sự chúng tôi là đánh chiếm căn phòng; bởi thế chúng tôi phải bảo đảm là không có ai trong chiếc giường đó. Tôi bắt đầu nghĩ tới chuyện mình sắp bắn một người khác. Mình bắn trước rồi hỏi sau hay sao đây? Hay chờ họ vén màn ra đã rồi trong khoảnh khắc đó mình sẽ quyết định là ai để bắn? Hay là mình cứ đừng bóp cò? Tất cả những ý nghĩ đó hiện ra trong đầu khi tôi đang tiến gần lại chiếc giường, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Một người rón rén lại gần rồi bất thần giật mạnh chiếc màn. Không có ai cả. Tôi thở phào nhẹ nhỏm.’
*
Đến trưa ngày 1 tháng Hai thì trạm xá của Bác Sĩ Bernie đã quá đầy. Người chết bọc trong bao ny-lông nằm la liệt trên sàn, một hàng thương binh còn đứng vững đang chờ được gọi tên. Ngay bên ngoài có khoảng hơn hai chục binh sĩ với thương tích trầm trọng đang nằm sẵn trên băng ca chờ được không tải về quân y viện. Trợ y lăng xăng chạy vào chạy ra suốt ngày. Lâu lâu có một trái đạn cối rớt vào cơ quan MACV vậy mà ai cũng tĩnh queo.
Nói đến kẻ đã vượt quá giới hạn thì phải nói đến BS Bernie. Ông là bác sĩ chuyên khoa mắt, tốt nghiệp y khoa trường Ohio State University khóa 1966. Từ lúc đến phục vụ ở Huế vào mùa Thu năm 67 công việc thường nhật của ông chỉ là chủng ngừa và theo dõi các đơn phép xin nghỉ bệnh. Phòng trạm xá tí hon của ông không có trang bị đủ để thực hiện những ca giải phẫu quan trọng, không đủ tiện nghi cần thiết để điều trị cho người bị thương nặng. Chỉ mới vài ngày thôi ông đã bắt đầu cạn kiệt băng, chỉ, kim chích, mọt-phin, và bao đựng xác.
Đứng trên tiêu chuẩn vệ sinh và tinh thần thì tình trạng của bệnh xá coi như quá nghiêm trọng ngay từ ngày đầu.
Mueller người thư ký đánh máy vừa mới thử lửa với súng xong bây giờ được giao cho công tác phụ việc ở trạm xá. Ròng rã suốt ba tuần lễ anh ngồi ghi sổ bệnh nhân, phát thuốc lá cho thương binh hút và nói chuyện với họ để động viên tinh thần. Thì giờ còn lại anh viết hồi ký.
‘Tôi nhớ lúc đầu có một quân nhân TQLC bị trúng đạn AK được mang vào trạm xá. Vết thương trên đầu anh ta trông thật ghê rợn, máu cứ chảy mãi không ngưng. Bác sĩ tạm băng bó rồi làm thủ thuật thông khí quản (tracheotomy) cho anh, họ chỉ làm được có vậy thôi. Họ bảo tôi giữ chắc chân anh ta vì toàn thân anh bị co giật liên hồi.
‘Một hôm có một thường dân người Việt được mang vào với dương vật gần bị đứt lìa. Ông ta cũng được cứu chữa tận tình như bất kỳ ai. Bác sĩ giải phẫu may lại hoàn hảo với hứa hẹn sẽ phục hồi chức năng như xưa. Lần đó chưa hề thấy ai tỏ lòng biết ơn nhiệt thành như ông ấy.
‘Một chiều khác người ta khiêng vào một binh sĩ TQLC bị thương trầm trọng. Mảnh đạn cứa đứt gần hết bàn chân anh chỉ còn dính vào chỗ mắt cá bằng vài sợi dây chằng. Các bác sĩ tiêm mọt-phin rồi cắt lìa bàn chân còn nằm trong đôi giày trận, xong quăng vào túi đựng xác. Trong khi giải phẫu, anh ta được một cha tuyên úy ngồi cạnh bên. Sau khi xong rồi anh ngước nhìn ông cha hỏi: “Thưa cha làm cách nào Chúa vừa thương kẻ địch vừa thương chúng con được?” Vị tuyên ý không nói gì.’
*
ĐĐ Golf 2/5 vừa thoát chết khi tiến quân qua cầu nay phải lao vào một sứ mạng không hiện thực. Sáng ngày 1 tháng Hai họ xuất quân đi giải cứu một đơn vị lính Nam Việt người ta cho biết đang cầm cự trong khu nhà lao Thừa Phủ. TQLC băng qua con đường ở ngoài chu vi của MACV; vừa tiến được 15 mét thì bị chận đứng vì địch bắn sẻ; tất cả phải rút lui. Suốt một ngày họ tiến chỉ cách điểm xuất phát nửa khu phố.

Cuộc hành quân trên QL1, bên phía đối diện của MACV. (mca.marines.org)

Các binh sĩ thuộc Đại Đội Golf TQLC Hoa Kỳ vào những giờ phút huynh đệ thân ái bên nhau. Nào ai biết sau trận đánh Huế, ai mất ai còn. (USMC Photo)
Tr/tá Gravel ngồi trong phòng chỉ huy vừa theo dõi diễn tiến cuộc tiến quân trên máy vô tuyến vừa liên lạc với Phú Bài; ông không thể ngờ rằng TQLC chỉ tiến được vỏn vẹn có 15 mét. Ông la hét đông đổng nhưng cuối cùng phải chấp nhận sự kiện là mình đã đòi hỏi những người lính quá mệt mỏi phải làm một việc bất khả thi. Ông có thể nhận thấy sự bất khả thi đó qua mức độ thương vong tải về từ chiến địa; tuy nhiên, thượng cấp của Tr/tá Gravel ở Phú Bài lại không nghĩ vậy họ vẫn một mực hối thúc ông phải tiến tới.
Giá như Gravel có được phi pháo yểm trợ thì có gì phải nói. Đằng này cả phi cơ lẫn pháo binh đều bị từ chối vì nào là thời tiết âm u, mây thấp, nào là Phe Đồng Minh thỏa thuận tránh gây thiệt hại tối đa cho thành phố cổ kính và biểu trưng này.
Sau giờ ngọ, Phú Bài lại ra lệnh cho Gravel phải đem trả các quân xa dùng để chở quân từ dưới đó lên ngày hôm qua; họ cần có để gởi lên thêm quân và đạn dược. Biết QL1 vẫn chưa tái lập được an ninh ông thấy cần phải có quân bảo vệ đi kèm. Gravel giao cho Tr/úy Bill Rogers dẫn theo một trung đội để lo việc đó. Ngoài ra Rogers còn lãnh thêm một nhiệm vụ nữa đó là khi về đến Phú Bài anh phải tả oán cho thật bi thảm với thượng cấp về tình hình ở trên này, sau đó theo về với đoàn xe để lo phòng thủ thành phố.
Chỉ mới 24 giờ chiến đấu, Tr/tá Gravel nhận thấy hiệu năng của 2 đại đội, Alpha 1/1 và Golf 2/5, đã bị giảm xuống còn phân nửa. 150 binh sĩ đã hoặc bị thương hoặc chết, nhiều người chỉ cần băng bó xong là có thể trở lại chiến đấu nhưng có chừng 75 người cần được tải thương lập tức vì vết thương trầm trọng, một số thì đã chết.
Tr/tá Gravel dặn dò với Tr/úy Rogers qua nỗi xúc động, rằng sinh mạng của mọi người ở trên này tùy thuộc vào ba tất lưỡi của anh ta trước thượng cấp, rằng thì là Huế đang ở trong tình trạng khẩn trương, tình trạng phải nói là tồi tệ gấp bội phần so với các báo cáo trong những cuộc họp báo quân sự.
Rogers cho chất lên xe những người bị thương nặng nhất và dặn dò các tài xế cứ xả ga mà chạy nhất định không dừng lại vì bất cứ lý do nào. Sự táo bạo cộng với vận tốc đã gây một bất ngờ cho địch quân. Đoàn công voa vượt qua cánh đồng dài 600m và cầu An Cựu mà chỉ bị bắn theo lẻ tẻ vài phát súng. Một chiếc bị chết máy nhưng họ nhanh chóng sang qua xe khác để rồi về đến Phú Bài mà không bị thương vong nào.
Đang mang nặng trọng trách, lại đứng chào nghiêm trước mặt Tướng LaHue, Rogers thấy lạnh cẳng. Anh đem hết khả năng ra để thuyết phục với thượng cấp TQLC của mình rằng Huế cần được quan tâm nhiều hơn vì sự hiện diện đông đảo của địch quân; đồng thời xin được tăng viện quân bị dồi dào hơn những gì họ đang có. Rogers được lệnh về báo với Tr/tá Gravel rằng từ rày về sau mọi sự sẽ khác.
*
Xế chiều hôm ấy Đại Đội F thuộc Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 (Fox 2/5) được không vận đến Huế bằng trực thăng CH-46 Sea Knight của TQLC. Ngày hôm sau, Đại Đội H thuộc 2/5 (Hotel 2/5) lên Huế trên đoàn xe 12 chiếc. Có đoạn đường họ phải chạy giữa hai lằn đạn. Đoàn quân xa còn chở theo 5 xe Onto, mỗi chiếc có gắn đại bác 106mm không giật sáu nòng. Đây là loại vũ khí phá cao ốc (building buster) mà TQLC đã yêu cầu đặc biệt với mục đích để tống khứ địch ra khỏi Huế.
Phải đợi đến ngày 3 Tháng Hai TQLC mới bắt đầu hoạt động ăn khớp với nhau vì hôm ấy Đ/tá Stanley Hughes, trung đoàn trưởng Trung Đoàn 1 TQLC và Tr/tá Ernest C. Cheatham, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2/5 mới lên đến Huế. Đ/tá Hughes nắm chỉ huy tổng quát và thảo kế hoạch từ từ quét sạch địch quân khỏi vùng Nam sông Hương nội trong tuần tới.
Cùng tháp tùng đến Huế với ĐĐ Fox 2/5 chiều 1 Tháng Hai còn có đợt nhà báo đầu tiên. Trong số này có Gene Roberts của nhật báo New York Times, Skip Stroelstrup của tạp chí Time, George Syverste của đài truyền hình CBS. Ngày hôm sau có thêm Al Webb, Dick Oliver, và Dana Stone của hãng thông tấn United Press International (UPI), George McArthur và John Lengle của hãng thông tấn Associated Press (AP), Jack Lawrence và Don Webster của CBS, Bill Brannigan của đài truyền hình ABC, Wilson Hall của đài truyền hình NBC, và Bill Tuohy của nhật báo Los Angeles Times.
Lúc đoàn xe công-voa tiếp tế chuyến đầu tiên từ Phú Bài đến, những người mới đến đã có dịp được nghe kể những chuyện đẫm máu kinh hoàng xảy ra ở Huế rồi; trước đó họ đã có dịp tiếp xúc với những người bị thương được đưa về nằm ở trung tâm điều trị Phú Bài. Những gì họ nghe kể, những vết thương họ nhìn thấy khiến họ cảm thấy kinh khiếp.
Michael Herr đặc phái viên của nguyệt san Esquire, người đi theo chuyến xe đầu tiên từ Phú Bài lên Huế, đã ghi nhận đúng tâm trạng của người chiến binh TQLC trong cuốn sách được độc giả nồng nhiệt ca ngợi ‘Dispatches’ như sau: ‘Mấy người lính ngồi trên xe ai cũng luôn miệng huýt sáo nhưng không có đến hai người thổi cho ăn khớp cùng một điệu; hệt như thể trong phòng thay đồ trước giờ thi đấu mà không ai có vẻ muốn ra sân.’
Cơ quan MACV muốn nổ tung vì sự gia tăng dân số quá mức; nào là viện binh đổ thêm, nhà báo kéo tới, dân tị nạn tràn vào. Người ta thấy cần có chỗ tạm cư khác dành cho dân tị nạn trong đó có cả lính tráng quân đội Miền Nam bị kẹt ở nhà trong khi nghỉ phép Tết. Thế rồi cuối cùng cũng giải quyết tạm ổn bằng cách chuyển họ qua khuôn viên trường đại học Huế; duy còn đám nhà báo sau khi đăng ký tạm trú ở MACV họ túa ra khắp mọi nơi theo chân các cuộc hành quân của các đơn vị TQLC; phải nói là họ hoàn toàn tự do vào ra cơ quan bất kỳ khi nào.
Nhiều nhà báo trải lên nền nhà phòng ăn tập thể để ngủ. Chung chạ với họ cũng có nhiều quân nhân TQLC. Có một số khác kiếm tôi nhờ sắp xếp chỗ ngủ, tôi chỉ biết nhún vai. Đây quả là trường hợp điển hình khi mà ngòi bút phải chào thua cung kiếm.
*
Đ/úy Mike Downs chỉ huy đợt bổ xung cho Đại Đội Fox 2/5 bắt đầu đổ quân ở công viên Dốc Lão lúc 3 giờ chiều ngày 1 tháng Hai. Hai giờ sau trực thăng mới chuyển vận xong đủ quân số cho đại đội. Loại trực thăng lớn Sea Knight có khả năng vận tải 25 binh sĩ với đầy đủ trang bị chiến đấu hoặc 5.000 cân Anh hàng hóa. Phi cơ đáp xuống dưới hỏa lực bắn sẻ của địch khiến các TQLC phải khum mình chạy. Mặc dù thân máy bay bị trúng nhiều đạn nhưng cuộc đổ quân được coi như hoàn tất mỹ mãn vì không có một tổn thất nào được ghi nhận.
Ra khỏi phi cơ xong các TQLC lập tức chạy đi kiếm chỗ tránh đạn; có người ngoảnh lại nhìn cánh chim sắt bay lên, buồn lòng tự hỏi sao đành bỏ mặc mình ở chốn đây. Các trung đội trưởng ra hiệu cho các binh sĩ đứng lên chạy ra hướng chu vi phòng thủ. Đến MACV, Đ/úy Downs và ban tham mưu chào trình diện đại đội với Tr/tá Gravel; Họ được gởi qua khuôn viên đại học để tiếp sức với Đại Đội Golf 2/5. Golf 2/5 từng chịu 64 thương vong gồm 7 người chết lúc mới đến Huế trong 24 giờ đầu tiên, không bao lâu nữa những người mới đến sau rồi cũng sẽ ôm đầu máu như họ thôi.
Tiểu Đội 2 của Fox 2/5 vừa vượt qua trước Golf 2/5 thì lập tức người dẫn đường bị trúng đạn, trợ y James Gosselin 26 tuổi nguyên là lính mũ xanh (green beret) liền tức tốc xông ra để kéo người bị nạn vào nhưng anh này liền bị trúng đạn chết tươi. Năm phút sau đó có thêm hai người bị đốn ngã nữa.
Hai chiến xa được gọi đến yểm trợ để có thể cứu những người bị trúng đạn. Con quái thú 50 tấn khạc từng tràng đại liên 50 vào những cao ốc hai bên đường trong khi TQLC vội vàng phóng ra đường lôi mấy xác chết vào. Các xác người được kéo đi hoặc chất lên lưng chiếc chiến xa thứ nhì để chở về. Ngay lúc chiếc này bắt đầu chuyển động đi trở lui thì một trái B40 bay đến trúng hông xe làm tung hai thương binh xuống đất. Trợ y chạy đến chất họ lên cán khiêng về, thế là tất cả lại rút lui về điểm xuất phát.
Chỉ chưa đầy hai tiếng, Tiểu Đội 2 Fox 2/5 thiệt mất 4 chết , 16 bị thương, kể cả trung đội trưởng là Th/úy Rich Horner.
Chào mừng quí khách đến Huế.
TQLC chưa kịp chấn chỉnh lại sau một ngày ròng rã chiến đấu thì nay phải thi hành lệnh khác. BCH ở Phú Bài rõ ràng là chưa thấu triệt tình hình bi đát ở đây mới đòi hỏi Tr/tá Gravel phải cử ĐĐ Fox mới tăng phái của Đ/úy Downs mở cuộc hành quân đêm tiến lên nhà lao Thừa Phủ. Gravel kinh ngạc trước một lệnh lạc như thế, ông liền nỗi cơn cuồng nộ. Làm sao cấp trên lại trông mong họ có thể vượt 1.200 mét lúc đêm tối trong khi họ chưa tiến được hơn 15 mét giữa ban ngày? Lời thỉnh cầu xin được cứu xét của ông được chấp thuận. Lệnh hành quân hủy bỏ nhưng chỉ đêm này thôi.
Hôm sau có thêm viện binh và đồ tiếp liệu tới do Đ/úy Ron Christmas dẫn ĐĐ Hotel từ Phú Bài lên bằng quân xa; trong số này có hai xe Duster và hai Onto. Quá giang theo đoàn công-voa còn có thành phần còn lại của ĐĐ Alpha 1/1, vốn bị kẹt ở Quảng Trị hai ngày trước đó rồi được trực thăng vận về Phú Bài. Đ/úy Christmas về sau được thăng cấp dần đến chức trung tướng trước khi giải ngủ.
Quân chi viện lên Huế với một tâm trạng tan thần hồn nát thần vía; số là họ đã được nghe truyền miệng về những nỗi kinh hoàng ở Huế, tệ hơn nữa họ từng chứng kiến tận mắt những đoàn xe chất đầy binh sĩ bị thương trầm trọng chuyển về từ ngày đầu tiên. Trung tâm điều trị ở Phú Bài chật ních người bị thương trong đó có bè bạn của họ. Lời truyền miệng lan nhanh rằng Huế là cửa vào địa ngục.
“Charlie (tiếng lóng ám chỉ quân CS) trên đó dán đít chặt vào nhau,” một thương binh cảnh cáo cho quân tăng phái biết. “Chúng ở khắp nơi và trang bị với mục đích cố thủ. Chôn chặt đít xuống đi đừng dại làm anh hùng.”
Những hoài nghi về lời cảnh cáo đó lập tức tan biến sau khi họ vượt qua cầu An Cựu và cánh đồng dài 600m; xác người và xe cộ để lại dọc đường đó đây, khói tỏa ra từ những căn nhà lỗ chỗ đầy vết đạn. Những cao ốc hai bên QL1 biến nó thành con hẻm chật hẹp và xạ trường lý tưởng cho những tên bắn sẻ. Quân tăng viện như đánh hơi được nỗi hiểm nguy đó; họ cảm thấy sự chết gần kề.

Đoạn đường 600 m qua đồng An Cựu đầy cạm bẫy. Một xe Onto đang giữ an ninh mạn sườn cho đoàn xe từ Phú Bài lên Huế. (USMC Photo)

Xác một người còn nằm trên QL1, gần một xe Jeep của cơ quan MACV bị hư hại vì lọt vào ổ phục kích trên đoạn đường đi qua đồng An Cựu. (USMC Photo)
Đoàn công-voa khởi hành khá trễ vì Đ/úy Christmas hy vọng sẽ có phi pháo yểm trợ. Tuy nhiên, trời mù và mây thấp vẫn không đổi nên họ phải lên đường lúc 2 giờ trưa; một giờ sau thì đến khu nhà ở giáp ranh thành phố, nơi đây họ bắt đầu thọ địch với hỏa lực mạnh.
Ở đoạn cách MACV 300 mét địch cho nổ mìn làm thành một hố lớn trên mặt đường; chiếc quân xa đầu tiên lọt vào đó làm cả đoàn xe phải đứng lại. Hàng loạt đại liên 50 và AK từ trên các cao ốc rót túa xuống, TQLC bắn trả không kém. Họ nhảy vội xuống xe; ý thức được rằng nếu không di chuyển lẹ thì chết nên họ chạy thẳng về MACV bằng bộ.
Cuối cùng thì đám con cái lạc đàn Alpha 1/1 lại nhập về với đơn vị mình và lần đầu tiên kể từ lúc đến thành phố này họ mới có một sĩ quan đến bổ xung. Th/úy Ray Smith nhận quyền chỉ huy đại đội thay cho Tr/sĩ Canley xạ thủ đại liên. Hai ngày trước đây trong cuộc tiếp cứu đầu tiên, Đ/úy Batcheller vì bị trọng thương nên đã giao phó chức vụ này cho anh đến bây giờ. Đại Đội Hotel của Đ/úy Christmas được lệnh thay thế Alpha 1/1 có phòng chỉ huy ở trường Đại Học Huế. Đến Huế chưa đầy nửa giờ, Hotel 2/5 liền bắt tay vào sứ mệnh càn quét địch dọc theo đường Lê Lợi.
*
Đối với binh nhì Peter Hogan, thành viên của Alpha 1/1 lạc loài, cuộc hành trình đến Huế xảy ra đúng như anh đã được cảnh giác trước. Hoban 19 tuổi con dân của Milton, Massachusetts, đến Việt Nam đã được hai tuần; anh kẹt lại ở Quảng Trị trong khi cả đại đội anh đã bay về Phú Bài từ hôm 30 tháng Giêng, sau đó họ triển khai tiếp lên Huế vào ngày hôm sau. Đến ngày 1 tháng Hai anh mới về tới Phú Bài, từ đó anh chỉ có vài giờ để chuẩn bị đi tái nhập với đơn vị.
“Trên đường lên Huế, tôi thấy có nhiều thường dân chết nằm bên vệ đuờng,” Hogan kể. “ Lần đầu tiên tôi được mục kích tổn thất của TQLC khi vào đến MACV. Có khoảng 30 đến 35 xác bọc trong túi đựng xác đặt ở ngoài sân. Họ nằm đó đôi ba ngày rồi vì người chết không được ưu tiên tải thương.”
Hogan và những người lạc bầy khác sau khi nhập lại với ĐĐ Alpha 1/1 thì được cử đi hành quân chung quanh cơ quan MACV, đồng thời yểm trợ cho ĐĐ Hotel 2/5. Anh đến Huế vỏn vẹn mới được một tiếng. Hogan kể tiếp:
“Bạn đứng không được đâu, bạn phải bò để mà tiến nếu bạn không muốn bị ăn đạn. Trong đơn vị tôi có một nhóc tì tóc đỏ mà tôi chưa biết tên, y có một cây súng phóng lựu M79. Y chết vì trúng một viên đạn vào giữa hai mắt và ông đại úy bảo tôi lấy cây súng đó mà dùng. Khi tôi cúi xuống lấy thì tay y cầm chặt cứng không thể gỡ ra được; tôi phải nạy từng ngón tay ra mới xong. Cho tới bây giờ không ngày nào tôi không nghĩ tới TQLC và Huế.”
Ngay sau 6 giờ chiều, con cái Hotel 2/5 có dịp thử lửa của Huế khi họ hợp sức đánh lại cuộc phản công ác liệt của địch có pháo từ Thành Nội bắn sang yểm trợ. Cuộc đọ súng làm rực sáng cả bầu trời như đêm hoa đăng mừng ngày Lễ Độc Lập 4 Tháng 7 và kéo dài suốt đêm, làm bà con lại thêm một đêm không ngủ.
Lực Lượng Đặc Nhiệm X-Ray ở Phú Bài lại ra lệnh cho Fox 2/5 thi hành sứ mệnh khác là đi giải cứu ở Lao Thừa Phủ. Lại một lần nữa đơn vị này chỉ tiến được nửa góc phố. Cay đắng thay, cùng đêm ấy, quân BV tràn ngập nhà lao, thả hết 2.200 phạm nhân mà sau này một số sẽ cầm súng chống lại quân Đồng Minh.
*
Ba ngày đầu tiên TQLC đã vận dụng nhiều công sức để chiến đấu đồng thời cũng hoàn tất được khóa ‘vừa học vừa hành’ tác chiến trong thành phố. Thời tiết xấu – mây mù và lạnh – làm giảm tối đa sự yểm trợ bằng phi pháo; địch tự do mặc sức tải thương, nhận thêm tiếp tế và viện binh từ hướng Tây mà không bị cản trở. Thêm vào những bất lợi đó TQLC bị trói tay bởi những can thiệp chính trị là không được sử dụng vũ khí hạng nặng hầu giảm thiểu thiệt hại cho Cố Đô. TQLC tôn trọng cái chính sách mà về sau phải bị hủy bỏ bởi lẽ nếu cứ khư khư giữ lấy nó phe Đồng Minh ắt sẽ gánh những tổn thất không thể chấp nhận được đang ngày càng leo thang.
TQLC rất chậm trong việc lượng định tầm cỡ và mục tiêu của địch; tin tình báo chỉ toàn đoán mò; mãi cho đến khi thẩm vấn được nhiều tù binh rồi họ mới vỡ lẽ.
Tư lệnh Quân Đoàn 1 của Nam Việt Nam, Tướng Hoàng Xuân Lãm, sếp lớn của Tướng Trưởng, mở một cuộc họp báo đầu tiên để thông báo về tình hình tại Huế vào đêm 31 tháng Giêng. Hiển nhiên là ông chẳng có tin nào chính xác trong tay nên mới tuyên bố rằng địch đã bị đẩy ra khỏi tất cả các thành phố trong phạm vi trách nhiệm của ông, ngoại trừ Huế, nơi còn sót lại chừng một ‘trung đội’ đang cố thủ ở khu vực phi trường Tây Lộc. Thật là lời tuyên bố quái gở vì Lãm phát biểu ở Đà Nẵng cách xa Huế hơn 100 cây số về hướng Nam.
Sự thật hoàn toàn ngược lại, địch có đến hằng tiểu đoàn ở cả hai bên sông Hương và không thấy dấu hiệu nào cho thấy họ sẽ chịu nhả những phần đất họ đã chiếm. Hơn nữa, hình như họ có quyết tâm phải ở lại càng lâu càng tốt và xuất hiện công khai càng nhiều càng hay.
Tướng LaHue thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm X-Ray ở Phú Bài cũng không khá gì hơn Tướng Lãm trong những thông tin về phía địch. Trả lời một cuộc phỏng vấn của một đặc phái viên hãng thông tấn UPI, hỏi về tình trạng đánh nhau ở Huế, ông đáp: “Thật rõ rành rành là chúng ta vẫn giữ khu Hữu Ngạn. Tôi nghĩ là địch chịu không nỗi. Tôi biết họ không thể chống lại nỗi. Tôi không tin là họ có khả năng tiếp tế; khi nào họ xài hết đồ mang theo thì họ coi như tàn.”
Khi ngày 2 tháng Hai gần qua đi với sự giao tranh diễn ra suốt đêm khiến đạn lửa loé sáng rực cả bầu trời, ta thấy rõ là TQLC phải chiến đấu thật khó khăn để giành lấy từng tấc đất. Những báo cáo tình báo sơ khởi đã đánh giá quá thấp về sức mạnh lẫn quyết tâm của địch khi cho rằng chỉ cần ‘một đôi ngày’ là giải quyết xong ‘chuyện nhỏ’ ở Huế.
No comments:
Post a Comment