Giải cứu Huế Tết Mậu Thân (16) * Triệu Phong chuyển ngữ
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Khơi mào (Phần 2)
Mike Morrow, một người bạn của tôi ghé vào chơi sau khi đi theo cuộc hành quân của một tiểu đoàn quân đội Miền Nam từ hôm trước Tết về. Hôm mở màn trận Tết Mậu Thân anh cùng với Tiểu Đoàn 4 Trung Đoàn 3 bị địch vây khốn và suýt bị tiêu diệt. Kinh nghiệm xương máu ấy đến giờ thỉnh thoảng làm anh giật mình. Suốt đêm chúng tôi ngồi trao đổi kinh nghiệm chiến đấu và cảm tưởng về chiến tranh. Bên ngoài địch đang pháo kích bằng súng cối, tiếng mảnh đạn rơi nghe leng keng trên mái tôn.
Cũng như nhiều đồng nghiệp trong ngành báo chí, Morrow hoàn toàn chống lại cuộc chiến tranh Việt Nam. Không phải anh chống lại quân đội hay đất nước mình nhưng anh không tin rằng quyền lợi của nước Mỹ ở Việt Nam đang bị đe dọa. Anh tin rằng đất nước mình đã lãng phí thế hệ thanh niên bằng cách đẩy họ vào một cuộc phiêu lưu không những điên rồ mà còn không thể chiến thắng được. Cái giá phải trả bằng mạng sống mà anh đã nhiều lần chứng kiến tận mắt làm anh cũng như bất kỳ ai khác phải bực tức. Anh lý luận rằng quân đội đã bị bọn hoạt đầu chính trị bịt mắt, họ đang lừa dối cả công chúng.
Chúng tôi tranh cãi nhiều đề tài có tính cách xây dựng, càng nêu ra chúng tôi càng thấy dễ chịu hơn.
“Morrow à, vấn đề rắc rối nơi anh là anh chưa bao giờ khoác áo chiến binh nên anh không có cái suy nghĩ như người quân nhân được,” Tôi phân bua. “Bộ anh tưởng bây giờ quân đội Hoa Kỳ thu lượm vũ khí rồi cuốn gói về nước thì chém giết chấm dứt chăng? Rất nhiều người quan niệm nếu chúng ta ra đi thì tình trạng sẽ rất bi đát. Một khi Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản rồi, thì ai sẽ đến lượt?”
Trình bày của tôi làm anh ta trở nên nóng tiết thêm. “Việc đó có mắc mớ gì đến chúng ta đâu?” Morrow cáu tiết quạt lại.
Hai chúng tôi lục lọi trong mấy thùng lương khô ration C kiếm gì lót lòng. Khổ nổi là không có gì để uống. Máy nước toàn thành phố không còn hoạt động, ngoài ra nước kiếm được đâu đó thì lại không dám uống nếu không có viên thuốc khử trùng.
Nhà vệ sinh thì hôi nồng nặc vì không ai có thì giờ để chùi dọn. Người nào cũng chỉ biết lo làm cách nào để đừng chết.
“Nếu chúng ta không đứng ra quyết liệt một phen thì vô tình khuyến khích Cộng Sản nổi lên ở nơi khác. Vậy chứ phải chận sự bành trướng này ở đâu bây giờ?” Tôi múc đào, vừa ngồm ngoàm ăn vừa nói.
Morrow lấy tay phủi vụn bánh mì dính trên râu phản pháo lại. “Thuyết Domino là đồ sọt rác. Nó có đáng để đánh đổi lấy những tàn phá và chết chóc như thế này không? Tôi nghĩ là không.”
Tháng 11 năm 1970 Morrow bị mất tín nhiệm đối với chính quyền Nam Việt Nam vì đã lên diễn đàn nói chuyện trong một buổi mít-tinh chống Nguyễn Văn Thiệu.
Ngày hôm sau chúng tôi đi ra ngoài để xem quân Đồng Minh tiến được tới đâu trong cuộc giao tranh ở Thành Nội, thật ra không cần phải đi xa tôi cũng đã tới ngay tuyến đầu rồi.
*
Đối với Tướng Westmoreland, tiến triển của cuộc giải tỏa Thành Nội có vẻ quá chậm trong khi những cuộc tấn công của địch ở các nơi khác đã được dẹp yên. Ông đang bị áp lực nặng nề từ Hoa Thịnh Đốn, làm sao phải sớm cho Huế không còn là tin hàng đầu trên các tờ báo nữa, hầu quân Đồng Minh có thể tiến tới giành lấy chiến thắng cuộc chiến tranh Việt Nam. Tướng Westmoreland đã đưa phụ tá của mình là Tướng Creighton Abrams ra nằm túc trực tại BCH MACV Tiền Phương ở Phú Bài hôm 13 tháng Hai để có thể báo cáo trực tiếp cho ông mọi tiến triển ở Huế.
*
Sang ngày 14, ai cũng thấy rõ là phải lấy cho được dãy tường thành ngay cửa Đông Ba thì mới có tiến triển khả quan được. Nơi đây bề dày của thành thay đổi từ 7 đến 14 mét, cửa Đông Ba đứng sừng sững nhìn bao quát được cả một vùng rộng lớn. Quân TQLC Mỹ tiến lên đánh chiếm thành nhiều lần nhưng phải dội lui vì hỏa lực quá gắt và địch từ vị trí cao ném lựu đạn xuống tới tấp. Nếu biết phối trí súng ở những vị trí kiên cố trên thành, chỉ vài tay súng có thể cầm chân cả một đại đội, vậy mà ở đây họ chôn chân được đến cả một tiểu đoàn.
Chiến xa không bắn hữu hiệu được vì nhà lầu san sát ở mọi hướng, đường xá chật chội khiến loại xe này chỉ vừa chen vào chứ không có chỗ để xoay trở. Các xe Onto có gắn đại bác không giật 106 mm cũng bị trở ngại tương tự. Đường chật còn tạo nên tiếng dội gây khó khăn trong việc phân biệt hướng đạn địch từ đâu bắng tới. Nguy hiểm khác nữa là đạn lạc, những đạn sau khi bắn ra đụng vật cứng dội ra ngoài đan chéo đi đủ các hướng. Nhiều binh sĩ còn bị thương vì mảnh vôi vửa hoặc bị chấn động não.
Địch bắn sẻ rất gắt khiến quân Mỹ không tài nào chạy băng qua đường Mai Thúc Loan được. Ngày nào địch còn án ngữ các cao điểm, có thể quan sát được mọi chuyển động của quân Mỹ thì việc tiến quân băng qua các nơi trống trải chỉ là tự sát. Lệnh hạn chế sử dụng hỏa lực hạng nặng làm việc giải tỏa Thành Nội càng khó khăn hơn so với khu Hữu Ngạn nơi mà nhà cửa trống trải hơn. Vật liệu xây cất các cao ốc ở đây có vẻ cứng cát; chung quanh khu nhà ở thường được bao bọc bằng tường cao phía trên có gắn miểng chai hoặc hàng dậu có rào thêm dây kẽm gai. Đường xá chật hẹp thuận tiện cho địch lật xe cộ hoặc dùng bàn tủ để làm vật chướng ngại. Dọc đường tiến quân toàn là gạch vụn, vôi vữa, và ngay cả mìn bẩy nữa khiến TQLC phải luôn để ý dưới chân, khó nhìn thấy vị trí ẩn núp của những tay bắn lén.
Quân BV có hai tuần lễ để thong thả bố trí hệ thống phòng thủ chống lại một cuộc phản công của quân Đồng Minh; họ ngụy trang khôn khéo các vị trí đặt súng trong các cao ốc, trên nóc nhà và cả trong các hầm hố bố trí ngang mặt đường. Nhờ những hàng dậu rậm rạp làm ranh giới giữa các nhà nên rất khó nhìn thấy chỗ ẩn nấp. Nhà cửa đủ kích cỡ chen chúc càng làm quân Mỹ thêm rối trí. Hơn nữa nhiều nhà có đào sẵn hầm trú ẩn vô tình biến chúng thành những công sự phòng thủ riêng biệt. Quân Mỹ chỉ còn cách là tiến quân chậm và thận trọng không để sót chỗ nào vì nếu không thì sau khi họ đi qua rồi địch sẽ từ chỗ nấp nhảy lên và tấn công từ phía sau.
“Khó mà thấy rõ cả bốn phía, ở đâu có được một khoảng trống là coi như hên lắm,” Th/tá Thompson nói. “Đánh nhau ở Thành Nội hoàn toàn khác lạ, tôi chưa hề thấy nơi nào như thế. Mình luôn luôn phải tiếp cận thật gần địch quân, nhiều khi không có đủ khoảng cách để bắn hoặc xoay trở. Giao chiến ở đây chủ yếu là tiêu diệt các ổ kháng cự mà thôi.”
*
Quân Nam Việt ở mặt Tây Thành Nội cũng gặp khó khăn tương tự nhưng còn tệ hơn nữa vì họ thiếu trang bị chiến xa và súng không giật 106mm. Còn về ưu tiên để được hỏa lực yểm trợ và tiếp tế thì quân Nam Việt bị xếp vào hàng ưu tiên chót. Hai tiểu đoàn TQLC NV đáng ra sẽ mở một cuộc tấn công phối hợp vào hướng Đông Nam Thành Nội phải bị hoãn lại. Quân địch vẫn còn khống chế mặt sau lưng họ. Thực ra thì một số đơn vị thuộc Trung Đoàn 3 của Tướng Trưởng đã bị địch cắt đứt từ hôm 13 tháng Hai, và bị bao vây. Họ phải kháng cự suốt hai ngày trời đồng thời nhờ nỗ lực anh dũng của ĐĐ Hắc Báo mới phá vỡ được vòng vây. Trong khi cuộc giải vây đang diễn tiến, quân TQLC chỉ biết ngồi chờ không mở cuộc tấn công như đã định trước.
*
Về phía Mỹ, quân của Th/tá Thompson sau hai ngày dậm chân tại chỗ ở Lằn Tuyến Xanh và chịu tổn thất ngày mỗi cao, cuối cùng được chấp thuận cho sử dụng vũ khí nặng. Quân Mỹ không còn phải đánh nhau kiểu lưng chừng đồi như trước nữa mà là tối đa hỏa lực, từ đại bác 105 mm và nòng lớn 8 in từ Phú Bài bắn lên cho đến phi cơ dội bom, hỏa pháo từ chiến hạm.
Vào xế chiều 14 tháng Hai, sau khi Tiểu Đoàn 1/5 rút lui bớt 200 m thì cuộc oanh tạc ồ ạt bắt đầu và kéo dài suốt đêm. Bản tấu khúc của âm thanh và cuồng nộ thật hết sức ngoạn mục, đặc biệt là các tấu khúc kinh hồn của đại bác từ tàu chiến bắn vào. Đậu cách bờ chừng 2 dặm ngoài khơi biển Nam Hải, chiếc khu trục hạm USS Manley nã 50 trái loại nòng 5-in và 150 quả loại nòng 6-in từ tuần dương hạm USS Providence vào khu vực quanh cửa Đông Ba. Hầu hết là loại đạn nổ chậm với mục đích công phá sâu hơn vào lòng đất.
Nơi đứng thưởng ngoạn lý tưởng nhất là trên nóc các cao ốc ở Mang Cá vì nơi đây tương đối ít nguy hiểm. Tôi thấy rõ những chiếc Skyraider từ từ đâm bổ xuống bỏ bom từ hướng Đông rồi cất cao lên về phía Tây, nhưng có điều đứng coi như vậy dễ bị địch bắn sẻ; tuy nhiên lo vậy cũng hơi xa vì địch đều lo chui thật sâu để tránh bom hết rồi. Địa đìểm tôi đứng cũng là nơi quan sát lý tưởng của các tiền sát viên pháo binh để hướng dẫn mục tiêu và điều chỉnh tọa độ; ngoài ra còn có cả các sĩ quan tham mưu lẫn báo chí.
Mục kích cuộc dội bom không khác gì xem trời giông tố. Tôi thấy ánh chớp lóe đi trước tiếng nổ rì rầm của bom trong một khoảnh khắc nhỏ. Vôi vửa tung cao hằng chục thước sau khi ngòi nổ chậm kích hỏa quả bom và kế đó là mặt đất rung chuyển khắp mọi hướng. Hướng ống nhòm ra phía biển Đông tôi thấy những ánh chớp liên hồi từ trọng pháo của các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội. Tiếng trọng pháo này nghe như âm thanh của đoàn tàu hàng chạy qua bình nguyên miền Trung Tây Hoa Kỳ. Lần đầu tôi được nghe âm thanh này là lúc ở bên khu Hữu Ngạn hôm 3 tháng Hai. Trong thời gian trận chiến thành phố Huế, Hải Quân Mỹ đã bắn khoảng 4700 quả đạn vào Huế và vùng phụ cận; nghe thì nhiều nhưng phần lớn là bắn yểm trợ cho các đơn vị chiến đấu ở phía Tây Huế và trái đạn phải bay qua trên thành phố trước khi rớt xuống mục tiêu.

Một chiếc F-8 Crusader bay dọc theo thượng thành về hướng cửa Đông Ba. Nhìn từ phía Hữu Ngạn sang phía đường Trần Hưng Đạo. (USMC Archives)

(USMC Archives)
Khi thời tiết cho phép phi tuần oanh tạc bắt đầu với các phản lực cơ Siêu Lưỡi Kiếm F-100 (Super Sabre), Dragonfly A-37, và chiến đấu cơ hai chỗ ngồi Con Ma F-4 (Phantom). Những phi cơ này cất cánh từ Đà Nẵng, Tuy Hòa, và Pleiku. Tuy nhiên chủ lực phần lớn vẫn là loại oanh tạc cơ cánh quạt Skyraider do phi công Việt Nam và Hoa Kỳ lái.

Skyraider, loại máy bay chong chóng có thể xà xuống cao độ thấp trong thời tiết xấu để thả bom. Ở cửa Đông Ba, phi cơ do phi công NV hoặc Mỹ điều khiển. (cgaviationhistory.org)
Khi Hải Quân ngưng bắn, Skyraider và các phản lực cơ lại bổ nhào xuống trút bom công phá, bom xăng đặc napalm và bom hơi cay. Thật không thể tưởng tượng nổi làm sao ai có thể sống sót được qua cơn bão lửa liên tục như vậy, thế mà địch quân vẫn không chết. Thực vậy một số đã thách thức đứng lên bắn theo máy bay sau khi vừa trút bom xong. Đây là bằng chứng hùng hồn không những về sức chịu đựng kiên cường của địch mà còn cả tài năng xây dựng tường thành thật kiên cố của tiền nhân thế kỷ thứ mười chín.
Trận oanh tạc bằng pháo binh từ Phú Bài vào Thành Nội kể ra cũng khá nguy hiểm cho quân Đồng Minh đang chiến đấu ở đây vì họ phải chịu pháo ngay trên đầu mình; vì lí do đó việc sử dụng trọng pháo bắn vào Thành Nội phải chịu phần nào sự hạn chế. Để bù lại TQLC Mỹ lệ thuộc nhiều hơn vào pháo yểm trợ bằn súng cối 4.2 in từ công viên Dốc Lão ở Nam sông Hương bắn qua. Việc điều động phối hợp hỏa lực yểm trợ một cách nhịp nhàng quả là một công tác phức tạp do công lao của Đ/tá Adkisson. Một trong những điều đầu tiên ông đã thực hiện ngay khi vừa mới vào Thành Nội mười ngày trước đây là thiết lập một trạm trung ương đặt ở Mang Cá để chuyên lo phối hợp và kiểm soát tác xạ của pháo binh, phi cơ và tàu chiến. Điều hành bởi các cố vấn quân sự, hôm 14 và 15 tháng Hai đôi khi hỏa lực của phi cơ và pháo binh cùng tác xạ một lúc.
Trung tâm điều khiển hỏa lực ở Mang Cá thật bận rộn với các nhân viên vào ra tấp nập; mỗi cuộc tác xạ yểm trợ đều được xác định tọa độ càng chính xác càng tốt. Công việc điều chỉnh tác xạ, xác định tọa độ, và yêu cầu yểm trợ hỏa lực khiến ban điều hành phải lăng xăng như cóc ngồi phải lửa. Lấy tọa độ cho máy bay oanh kích vào những khu vực hạn hẹp là một việc đòi hỏi sự khéo léo toàn hão. Thông thường một cuộc oanh tạc phải cách đơn vị bạn một khoảng cách an toàn cho phép là 2000 mét, nhưng tại Thành Nội khoảng cách ấy bị thu hẹp lại chỉ còn 500 mét, và có nơi lại còn ít hơn nữa. Góc độ đường bay của các cuộc không tập vào dãy tường thành được dự liệu với một góc độ thấp (30 độ hoặc ít hơn) và tránh không bay ngang trên đầu quân bạn. Phi cơ đâm bổ vào để trút bom lên dãy tường thành theo hướng từ bên trong rồi bay vọt lên ra phía ngoài Thành Nội để tránh sức tàn phá lan đi theo chiều dài; nguy hiểm hơn nữa là chỉ có bom 750 cân anh được đem ra thả thay vì 250 cân như yêu cầu. Bom xăng đặc Napalm được sử dụng nhiều hơn cả.
“Bom thường chỉ gây nhiều vôi vữa gạch đá đổ nát rồi sau đó địch lại đào hầm trở lại,” Một sĩ quan tiền sát của không quân chuyên chấm tọa độ cho phi cơ oanh kích cho biết. “Nhưng bom Napalm thì lại khác, nếu không thiêu sống địch quân thì cũng hút hết dưỡng khí khiến địch ở dưới hầm sâu bị chết ngạt. Bom Napalm dùng để chống các công sự kiên cố lý tưởng nhất.”
*
ĐĐ Delta được trả về cho Tr/tá Thompson từ khu Hữu Ngạn đang tìm phương tiện để vào Thành Nội trong khi cuộc oanh tạc ở đây vẫn đang tiếp diễn. Đ/úy Đại Đội Trưởng Myron Harrington thuộc nhóm chỉ huy, cùng tiểu đội súng dài hôm 14 tháng Hai tìm cách xin quá giang tàu tiếp tế LCU để vào Thành Nội nhưng vị chỉ huy giang đoàn từ chối vì lí do địch ở hai bên bờ sông bắn quá gắt. Con đường sông từ bến đổ hàng bờ Nam sông Hương đến cửa Hậu ở Thành Nội vẫn còn hoàn toàn nằm trong khu vực địch kiểm soát.
Đ/úy Harrington phải mất hằng giờ mở máy vô tuyến liên lạc để xin phương tiện cho thành phần còn lại của đại đội mình được vào Thành Nội. Sau cùng thì Hải Quân Việt Nam đáp lời giúp đỡ bằng cách đưa đến ba tàu tuần có gắn máy. Họ đến bến tàu gần Mang Cá lúc hoàng hôn vừa lúc một phản lực cơ Con Ma F-4B thuộc TQLC HK thả nhiều trái bom cay lên dãy tường thành; gặp lúc gió đổi chiều làm tạt hơi cay xuống đoàn tàu khiến 100 TQLC vì không trang bị mặt nạ phải nhảy đại xuống nước, may mắn, không có ai bị thương vong.
Gần trưa sáng hôm sau, khi cuộc oanh kích đã ngưng, Th/tá Thompson chỉ định cho ĐĐ Alpha của Đ/úy Harrington đến điểm nóng của Thành Nội là khu vực bên mé trái dọc theo dãy tường thành gần cửa Đông Ba. Khi vào Thành Nội đại đội này đã để lại một trung đội bên khu Hữu Ngạn để làm nhiệm vụ giữ an ninh cho các đoàn xe công-voa trên QL1. Một lần nữa TQLC lại phải chiến đấu theo lối bị cắt thành từng mảng nhỏ.

Trong cuộc đánh chiếm tháp cửa Đông Ba, TQLC Mỹ vất vả tiến từng tất dưới hỏa lực hùng mạnh của địch. (newseumed.org)
Đại Đội ‘trừ’ của Harrington lập tức đụng phải sức đề kháng ác liệt của địch ở khu vực cửa Đông Ba. Cách tháp Đông Ba 150 mét một tiểu đội thuộc Trung Đội 1 bò lên thành, rồi chầm chậm tiến chiếm thành dưới hỏa lực yểm trợ. Đến gần tháp một tiểu đội khác lại xông lên tiếp sức. Trước hoàng hôn đêm 15 tháng Hai mục tiêu được dứt điểm. Kết quả là ĐĐ Delta bị tổn thất 6 chết và 50 bị thương. Đến đêm do bị áp lực địch, quân Mỹ tạm lui quân nhưng lập tức phản công và tái chiếm. Ngày hôm sau đơn vị quân Mỹ củng cố lại các vị trí vừa chiếm được ngày hôm trước và tiến thêm được một chút. Đến trước nửa đêm, sau hai ngày vào hành quân ở Thành Nội, tổn thất của ĐĐ Delta đã lên đến 13 tử trận và 80 bị thương, ngoại trừ 15 binh sĩ khác trở lại chiến đấu sau khi được băng bó.

Trợ y băng bó cho một TQLC bị thương ở chân khi đang tấn công lên cửa Đông Ba. (newseumed.org)

TQLC Mỹ đóng chốt trên cửa Đông Ba, nhìn xuống đường Mai Thúc Loan phía trong Thành Nội. (wiki2.org/AP)
Tướng Ngô Quang Trưởng lợi dụng lúc tình thế hơi lắng dịu để bay xuống Phú Bài hôm 16 tháng Hai để hội kiến với Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Trưởng báo cáo với ông Kỳ rằng quân đội Đồng Minh đã làm giảm bớt được áp lực địch và địch quân đang dần dần bị đánh tan. PTT Kỳ hứa sẽ yểm trợ thêm và tỏ vẻ tin tưởng vào sự chiến thắng; ông ta còn nói thêm rằng ông sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hư hại và tàn phá đối với các trường học, bệnh viện cũng như các cơ sở tôn giáo nếu thấy cần thiết phải dùng thêm sức mạnh để đẩy địch ra khỏi thành phố. Cũng như một số chức quyền khác, PTT Kỳ cũng bị áp lực phải giải quyết cho xong cuộc giải vây ở Huế.
Vào cuối ngày, tiểu đoàn TQLC thứ ba của quân đội Miền Nam đến Thành Nội. Qua ngày hôm sau đơn vị 700 quân này được đưa ngay vào hoạt động cùng các đơn vị chị em gần góc phía Tây Thành Nội.
Người đứng ra thuyết trình về tình hình Thành Nội cho các đơn vị mới đến là Tr/úy Huế. Đại đội của ông lo việc hướng dẫn các đơn vị này đến địa điểm trách nhiệm, đồng thời cùng góp sức đẩy địch ra khỏi khu vực dọc theo khu tường thành ở hướng Tây Bắc. Họ cũng giúp giảm bớt áp lực cho Tiểu Đoàn 1/3 vừa mới chiến đấu để thoát được vòng vây của địch vào ngày hôm trước.
Quân số của ĐĐ Hắc Báo bây giờ lên đến 150 người; một số binh sĩ trước đây đang công tác ở khu Hữu Ngạn trước Tết hoặc mắc kẹt ở Thành Nội nay đã trở về với đại đội mình. Một người kể lại rằng anh bị bắt ở vùng Hữu Ngạn cùng với 50 người khác, họ bị sai đào rãnh và được cho biết đào như vậy để tránh bom; về sau mới hay là để chôn chính mình. Quân CS bắt 50 người đứng quây mặt trước hố rồi bắt đầu bắn vào sau ót từng người. Khi tên đao phủ đến bên người lính Hắc Báo thì anh quay phắt lại và đâm một dao vào bụng y rồi chạy thoát.
Tr/úy Huế có bắt được một số tù binh, họ khai rằng tinh thần cán binh đang xuống thấp và phần đông bị chấn động vì bom. Một đơn vị TQLC NV báo cáo rằng khi đánh chiếm một cao ốc họ bắt gặp ba quân địch chân xiềng vào khẩu súng đại liên. Những tù binh khác cho biết họ được lệnh phải tử thủ trong khi nhiều sĩ quan đã rút ra khỏi Thành Nội. Một lính bộ đội bị quân Hắc Báo giết có xâm trên cánh tay phải hàng chữ ‘Sinh Bắc Tử Nam’.

Đường tiến quân đánh bật quân CS ra khỏi Thành Nội từ ngày 16 đến 25 tháng 2, 1968. (DoD/MarineCorps)
Đêm 16 tháng Hai địch quân bị lãnh một đòn nặng sau khi một lực lượng cấp tiểu đoàn của họ cố xâm nhập vào Thành Nội ở mặt Tây Nam bị hỏa pháo của quân Đồng Minh tiêu diệt gần sạch. Theo lời của Tr/úy Alexander Wells, TQLC Mỹ làm tiền sát viên pháo binh cho TQLC NV, quân Nam Việt đã bắt được cuộc điện đàm của địch đang chỉ thị gởi thêm viện binh vào Thành Nội vào một giờ giấc được định trước. Tr/úy Wells lập tức sắp đặt một cuộc tác xạ bằng trọng pháo vào nơi địch sẽ xâm nhập vào đúng ngay giờ đã được định đó.
“Trên liên lạc vô tuyến chúng tôi nghe họ la ơi ới. Họ bị ăn trọng pháo ngay chóc và trong số thương vong có một viên tướng bị tử trận.” Wells sau đó báo cáo lại như vậy và viên tướng tử trận chính là trung đoàn trưởng địch chỉ huy mặt trận ở Thành Nội. Lúc nửa đêm người sĩ quan CS thay thế đã gọi điện báo cáo với cấp trên về cái chết của viên tướng đồng thời xin phép được rút quân. Bộ chỉ huy của địch không những không chấp thuận lời thỉnh cầu ấy mà còn ra lệnh phải tiếp tục cố thủ.
*
Lục Quân Mỹ được tăng cường nhiều hơn để chận đường thoát của địch về hướng Tây. Sư Đoàn 1 Kỵ Binh từ hôm 2 tháng Hai đã đề cử Tiểu Đoàn 2/12 thi hành sứ mạng, ba ngày sau lại tăng cường thêm Tiểu Đoàn 5/7, và đến trước ngày 18 lại gởi thêm Tiểu Đoàn 1/7. Cùng tham gia chiến dịch này còn có Tiểu Đoàn 2 và 501 thuộc SĐ 101 Dù Hoa Kỳ, các đơn vị Dù này đã có mặt ở khu vực từ cuối tháng Giêng.
Mục tiêu chính của quân Mỹ là khu rừng có đặt bản doanh trung đoàn địch gần La Chữ ở cách Huế 5 cây số về hướng Tây Bắc, phía Tây quốc lộ 1. Khu vực này là nơi xuất phát của cuộc đánh chiếm Huế và cũng là nơi tiếp tế cho đạo quân đang cố thủ. Vừa từ vùng II dọn về, đây là trận thử lửa đầu tiên của các đơn vị Kỵ Binh Hoa Kỳ. Hôm 4 và 5 tháng Hai, đơn vị đầu tiên của Sư Đoàn Kỵ Binh đụng độ với lực lượng bảo vệ bản doanh trung đoàn địch ở La Chữ là Tiểu Đoàn 2/12 của Tr/tá Dick Sweet, vì thua kém về quân số nên bị địch giáng cho một trận tơi bời. Để khỏi bị tổn thất nặng nề họ phải thực hiện một cuộc rút quân trong đêm tối lên một vùng đồi núi rồi trấn giữ tại đây gần một tuần lễ. (Đã đề cập phần này chi tiết hơn ở các kỳ trước).
Đơn vị Kỵ Binh khác được phái tới đây là Tiểu Đoàn 5/7 của Tr/tá Jim Vaught, ông này vừa mới về nhận chức vụ chỉ huy từ vài ngày trước. Cùng ngày mà đơn vị của Tr/tá Sweet triệt thoái thành công, thì Tr/tá Vaught lại dẫn tiểu đoàn của ông vào mật khu này. Cũng như Sweet, Vaught phải cho đơn vị hành quân bằng bộ vì thiếu phương tiện chuyển vận bằng trực thăng. Thời tiết thì lạnh lẽo, mưa gió và âm u. Hai hôm đầu tiên họ chỉ gặp kháng cự lẻ tẻ cho đến khi họ tiến vào khu rừng gần La Chữ hôm 8 tháng Hai. Trung đội tiền đạo bị phục kích từ ba mặt khiến tất cả binh sĩ của tiểu đội dẫn đầu đều bị tổn thất, hoặc chết hoặc bị thương. Vì ở những khoảng đất trống có thể dùng làm bãi đáp để tải thương bị địch bố trí đại liên chung quanh nên trực thăng phải chờ đến đêm mới xuống được. Khi trực thăng đến, thời tiết xấu đến nỗi phi công không nhìn thấy đèn đánh dấu địa điểm bãi đáp khiến họ phải mở đèn đáp trên phi cơ với hy vọng các nhân viên ở dưới đất có thể thấy mà hướng dẫn.
Những ngày giao tranh sau đó, mật khu địch được lính Mỹ ban cho biệt danh là ‘T-T Woods’ (Rừng T-T). T-T viết tắt từ chữ tough titty (vú săn cứng).
Vào ngày 9 tháng Hai, Tiểu Đoàn 2/12 của Tr/tá Sweet rời vị trí đóng quân ở vùng đồi núi cách Huế 5 cây số về phía Tây để nhập chiến trở lại; họ tiến vào một ngôi làng nằm cách La Chữ 2 cây số về phía Nam. Ngày 12, hai tiểu đoàn dự tính sẽ hợp lực tấn công vào làng La Chữ nhưng Tiểu Đoàn 2/12 bị địch cầm chân không tiến được, còn tiểu đoàn của Tr/tá Vaught thì phải hoãn cuộc tiến quân đến chiều vì chờ pháo binh yểm trợ. Không bao lâu, quân của Vaught bị chôn chân không tiến hơn được vì hỏa lực địch quá mạnh. Mặc dù thời tiết xấu, bốn phi vụ oanh tạc được thực hiện vào cứ điểm địch nhưng tiếc rằng kết quả không có là bao.
Cũng như hơn một tuần trước đây, Cộng quân nhử cho quân Mỹ đi sâu vào khoảng đất có viền hàng cây mới bắt đầu nổ súng từ hai phía. Bị lọt bất ngờ vào ổ phục kích, ba đại đội phải bị chôn chân và 15 phút sau họ tháo lui được với tổn thất 9 chết và 35 bị thương. Thất vọng nhưng không thất chí, Th/tướng Jack Tolson Sư Đoàn Trưởng SĐ Kỵ Binh đích thân bay đến mặt trận để gặp Tr/tá Vaught hôm 13 tháng Hai. Tolson cho Vaught biết rằng ông hy vọng sẽ mở cuộc tấn công vào cứ điểm của địch với lực lượng ba tiểu đoàn một khi ông gộp đủ xong quân số. Ông cũng hy vọng sẽ sử dụng Tiểu Đoàn 1/7 hiện làm lính gác hoàng gia (palace guard) ở căn cứ Evans vì sự di chuyển chậm trễ của Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh từ Quân Đoàn II. Cùng tham dự cuộc hành quân có thành phần của SĐ 101 Dù Hoa Kỳ đang trấn giữ một căn cứ quân NV ở Cây Số 17. Tolson còn lạc quan là sẽ có chiến xa yểm trợ cho cuộc hành quân nữa.
Ngày 15 tháng Hai Tiểu Đoàn Kỵ binh 2/12 của Tr/tá Sweet cùng Đại Đội D thuộc Tiểu Đoàn 2/501 Dù phối hợp để mở một cuộc tấn công khác vào La Chữ. ĐĐ D được kết hợp với Tiểu Đoàn Kỵ Binh 5/7 của Tr/tá Vaught cho tiện việc chỉ huy hành quân.
Sang ngày 16, toàn khu vực La Chữ bị cày nát vì hỏa lực nặng nề của quân Mỹ, mở màn cho cuộc tấn công vào BCH trung đoàn địch. Trận pháo khốc liệt gồm 1000 trái đạn pháo binh có sức công phá cực mạnh và 4000 đạn cực mạnh khác do đại bác của tàu chiến bắn vào từ biển. Ngoài ra còn thêm một loạt 35 tấn bom cực mạnh và bom lửa Napalm do các phi cơ Mỹ và Nam Việt dội xuống.
Ngày 17 tháng Hai Th/tá Charles R. Baker sĩ quan hành quân của Tr/tá Vaught bay trinh sát bằng phi cơ O-1 trên khu vực T-T Woods nhưng không xác định được các vị trí phòng thủ của địch. Đến gần để quan sát rõ hơn phi công xà xuống ở cao độ 100 bộ. Qua vòng thứ tư phi cơ mới bị địch xả súng bắn.
Trong những ngày kế tiếp bốn tiểu đoàn bộ binh Mỹ xông xáo càn quét theo hướng Đông Nam ở phía tây QL1 về phía khu rừng cạnh làng La Chữ. Khu vực hành quân trải rộng thêm về phía nam cho tới giáp ranh sông Hương, theo kế hoạch của một cuộc hành quân phối hợp của bốn tiểu đoàn sẽ diễn ra vào ngày 21 tháng Hai, hòng cắt đứt đường tiếp liệu chính cũng như đầu não của địch. Bên phía địch quân họ cũng không kém phần hoạt động, để thử sức bền chí và tinh thần quân Mỹ ban đêm họ thổi kèn và tu huýt để cho quân Mỹ luôn bị căng thẳng và mất ngủ.
Ngày tấn công được chọn là ngày 21 tháng Hai; quân Mỹ sẽ tấn công từ nhiều phía. Bắc có Tiểu Đoàn 5/7 Kỵ Binh, còn 2/12 Kỵ Binh từ phía Nam, và Tây có 2/501 Dù; trong khi 1/7 sẽ yểm trợ 5/7 từ hướng Bắc. Riêng hai đại đội của 2/12 sẽ được giữ làm trừ bị. Chiến xa yểm trợ không có nhưng Tướng Tolson cũng xoay sở được một xe thiết giáp M-42 Duster có gắn đại bác 40 mm hai nòng.

Tiểu Đoàn 5/7 Kỵ Binh Hoa Kỳ lúc đang tấn công vào BCH trung đoàn CS ở La Chữ, cách Huế 5 cây số về hướng Tây Bắc. (Wiki2.org)
Kế hoạch tấn công xem ra khá phức tạp mà một số quân Mỹ của 5/7 vẫn chưa nắm vững. Một số khác rõ ràng đã bị địch làm nao núng tinh thần bắng cách gây đủ thứ âm thanh từ những đêm trước, nay dọa sẽ không tham dự hành quân. Kế hoạch đề ra là hai đại đội sẽ xông lên chiếm lấy vài mục tiêu lúc trời tối, rồi lúc rạng đông sau một loạt đại bác ngắn ngủi nhưng không kém phần khốc liệt bắn từ đất liền lẫn ngoài khơi, họ sẽ phối hợp với thành phần còn lại của tiểu đoàn để tấn công về phía Nam xuyên qua khu rừng T-T Woods; với hy vọng sẽ thẳng luôn qua La Chữ đến tận công sự chỉ huy của quân BV. Công sự này trước đây do Mỹ thiết kế và chi ra để xây; nó là một kiến trúc đồ sộ bằng bê tông cốt sắt cao 3 tầng, sâu 2 tầng.
Thoạt đầu mọi sự đều diễn ra song suốt với các mục tiêu dự trù đánh chiếm trong đêm đều lấy được dễ dàng mà không gặp kháng cự, tinh thần kỷ luật của binh sĩ đều cao. Thế rồi sau khi Đại đội B thuộc Tiểu Đoàn 5/7 đi tiền đạo qua khu rừng tre thì Đại Đội Trưởng của đơn vị này là Đ/úy Howard Prince bị thương nặng vì trúng một trái đạn cối khiến ĐĐ B chỉ còn một sĩ quan duy nhất. Nghe tin này Tr/tá Vaught tức tốc cử Th/tá Baker là sĩ quan hành quân của ông nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy ĐĐ B. Khi đến nơi thì Đ/úy Prince đang trong tình trạng hôn mê trong khi các binh sĩ đều sửng sờ kiếm nơi an toàn để nằm chờ lệnh mới. Ở phía sau, ĐĐ D cũng đang nằm yên chờ ĐĐ B cùng mở cuộc tấn công hiệp đồng. Tình huống lúc bấy giờ thật hỗn độn.
Sau này mới biết ĐĐ B đã đi lọt vào khu phòng thủ địch với công sự kiên cố mới xây để bảo vệ vòng đai; tại đây họ bị tấn công bởi hỏa lực nặng nề. Nhận thấy những chướng ngại kể trên cần phải san bằng thì cuộc hành quân mới có cơ may tiến xa hơn được nên Th/tá Baker liền kêu gọi người tình nguyện lãnh nhiệm vụ thanh toán công sự này. Với hỏa lực yểm trợ của đại bác 40 mm hai nòng gắn trên chiếc xe thiết giáp độc nhất, Binh Nhất Albert Rocha bò lên mục tiêu mang theo ống chất nổ. Từ trong lô cốt địch bắn ra bằng súng trường, đạn trúng báng súng M16 của Rocha nhưng anh vẫn tiếp tục tiến. Xông ra tiếp sức có Tr/úy Frederick Krupa người của ĐĐ D. Thế rồi trong khi Rocha bắn yểm trợ, Krupa cố chuồi cây thuốc nổ vào lổ châu mai và giữ chặt, bên trong quân địch tìm cách đẩy trở ra. Trước khi lô cốt bị nổ tung một binh sĩ địch tháo chạy ra bằng cửa sau liền bị Rocha bắn hạ.
Sự phá hủy thành công pháo đài của địch gây phấn chấn cho quân Kỵ Binh Mỹ và cũng mở đầu cho ngày tàn của địch quân ở khu rừng T-T Woods. Sau cùng, khi quân Đồng Minh tiến được đến tòa công sự cao 3 tầng lầu dùng làm BCH trung đoàn của địch thì mới hay địch đã rút đi hết rồi. Quân của 2/12 kết hợp với đơn vị 5/7 Kỵ Binh hướng dẫn toán hậu sự đến vị trí có hố chôn tạm thời của 11 xác lính Mỹ mà đơn vị Kỵ Binh đêm 4 tháng Hai đã tạm vùi lại đó để triệt thoái khỏi vòng vây của địch.
*
Cùng ngày, quân Dù Mỹ 2/501 cũng có một cuộc giao tranh đẫm máu. Hai tiểu đội trưởng của ĐĐ Alpha tiền đạo là Th/sĩ Joe R. Hooper và Tr/sĩ Clifford C. Sims được ân thưởng Huy Chương Danh Dự của Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressional Medal of Honor). Tr/sĩ Sims đã tử trận trong khi chiến đấu ở khu rừng La Chữ.
Th/sĩ Hooper có công trạng dẫn một tiểu đội 8 người vượt qua cùng dòng suối mà hai tuần trước đây Tiểu Đoàn 2/12 Kỵ Binh đã vượt qua trong cuộc triệt thoái đêm, ở đây họ bố trí một dàn đại liên ngay trong khu rừng kế cận. Vừa lúc đó Th/sĩ Hooper bị vướng bẩy gài bằng hai quả lựu đạn và bị thương ở bụng và chân. Dù bị thương Th/sĩ Hooper vẫn dẫn quân vượt suối tiến vào rừng và giúp phá hủy được 5 vị trí phòng thủ của địch lúc giao chiến xáp lá cà; kể cả giết được một sĩ quan địch bằng lưỡi lê. Tuy bị thương nặng Hooper vẫn tiếp tục chỉ huy đánh vào rừng. Mặc dù quy luật bất thành văn không cho phép người được thưởng Huy Chương Danh Dự của Quốc Hội được trở lại phục vụ trong đơn vị tác chiến nhưng hai năm sau một lần nữa Hooper trở lại phục vụ cho Sư Đoàn 101 Dù. Ngày 6 tháng Năm năm 1979 Hooper chết trong một cơn bịnh bất ngờ.
Tr/sĩ Sims là người đã dẫn một tiểu đội đánh lại lực lượng địch đang cầm chân một trung đội Mỹ thuộc ĐĐ Alpha. Trong khi đang tiến quân họ vô tình bước vào một hầm đạn đang cháy; sức nổ khiến hai binh sĩ bị thương, Sims phải cho quân rút lui. Sau đó họ trở lại cánh rừng, trong khi đang tiến quân họ chợt nghe một tiếng tách, tiếng của ngòi nổ khởi động một mìn bẩy. Sims lập tức la lên báo động rồi lao mình lên khối chất nổ lấy thân che cho đồng đội; sức nổ làm anh chết ngay lập tức. Nhờ tiểu đội trưởng mình cứu thoát đơn vị tiếp tục tiến sâu hơn vào khu rừng.
Lúc cuối ngày, sau khi cuộc giao tranh chấm dứt, tất cả ngoại trừ 8 binh sĩ của ĐĐ Delta, 190 người đều bị thương vong.
Chiều tối ngày 21 tháng Hai, bốn tiểu đoàn tiến chiếm được các mục tiêu dự liệu và chỉ còn cách Thành Nội 5 cây số. Ngày hôm sau khoảng cách thu ngắn còn lại phân nửa khiến địch phải gấp rút thực hiện kế hoạch rút lui khỏi Thành Nội.
Trước hỏa lực hùng hậu và tấn công phối hợp nhịp nhàng của quân đội Đồng Minh, địch quân chọn con đường tẩu thoát khỏi La Chữ hơn là để bị bắt hoặc bị tiêu diệt. Khi quân BV bị buộc phải bỏ bộ chỉ huy trung đoàn ở La Chữ mà chạy, họ đã bỏ mặc số mệnh cho bộ đội CS còn lại ở Thành Nội.
Một khi sự kiện trên xảy ra, trận đánh ở thành phố Huế về mặt chiến lược kể như chấm dứt.
No comments:
Post a Comment