HAI NGÀY "NGÀN CÂN TREO SỢI TÓC” TẠI BTL CỦA TƯỚNG NGÔ-QUANG-TRƯỞNG
Lời mở đầu:
- Tôi viết bài này để nhớ ơn những người đã chết trong lúc bảo vệ tổ quốc: nếu ko có những hy sinh của họ, miền Nam đã mất từ năm 1968, chứ ko đợi đến năm 1975.
- Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.
- Nhất tướng công thành, vạn cốt khô.
- Chiến tranh là một công việc mà người tham dự có thể chỉ thấy chiến thắng sau khi y đã chết. Kinh nghiệm cá nhân.
- Nếu QLVN VNCH ko chịu chiến đấu thì miền Nam đã mất từ năm 1968. Vì chỉ riêng mặt trận Huế, theo báo chí CS, họ đã "đầu tư" rất kỹ lưỡng về quân số (ít nhứt là 14 TĐ), vũ khí, đạn dược, v.v... bao gồm "cả ngàn tấn gạo, 15 tấn đường, 1,2 tấn sữa, 79 tấn muối, 1,5 tấn bột trứng, 590 kg bột ngọt, v.v... điển hình gần 1.000 tấn gạo để rải rác tại vùng giáp ranh và căn cứ miền núi Thừa Thiên-Quảng Trị, hơn 1.100 tấn gạo để trong nhân dân vùng đồng bằng hai tỉnh này.
Trước giờ tấn công, quân khu Trị-Thiên có 4 trung đoàn và 4 TĐ bộ binh, 4 TĐ đặc công, 15 đội biệt động thành và 1 số đv binh chủng. Các đv tập dượt đánh Huế đều ko chọn người địa phương ra, chỉ lấy người ở quê xa tới để họ ko biết mục tiêu là gì, ở đâu. Họ được tập dược công phu, và tuyệt đối ko ai biết được sắp "đánh Huế".
- Theo bài chuyển ngữ dưới đây, trong 2 ngày đầu của năm Mậu Thân (31/1 và 1/2/68), người CS đã làm chủ TP Huế trừ đồn Mang Cá và sân bay Tây Lộc ở tả ngạn, và BCH tiểu khu và MACV ở hữu ngạn; (theo báo chí CS, họ đã phá ngục, giải thoát 2.000 tù nhân và trang bị võ khí cho 1.000 người tại trại giam Thừa Phủ, ở kế BCH/Tiểu khu), nhưng 28 ngày sau, họ đã bị đánh bật khỏi Huế. Trong khi đó trong thành nội chỉ có một trung đội thám sát 36 người và đ.đ. Hắc Báo (thiếu quân số) của sđ 1 bộ binh -- vì 1 trung đội đã đi bảo vệ BCH tiểu khu ở hữu ngạn sông Hương. Còn lại là lính văn phòng và tiếp vận của BTL sđ, mà một số đã đi phép trước Tết. Ở MACV tại hữu ngạn chỉ có khoảng 100 cố vấn Mỹ, nhân viên dân sự và vài lính TQLC Mỹ làm cảnh vệ. Các đv tiếp cứu Huế như TĐ 7 Dù và thiết giáp VNCH đều bị chận đánh tơi tả khoảng 12 g của ngày 31/1 khi tới gần 1 nghĩa địa, cách Hoàng thành Huế khoảng 400 m về phía tây bắc -- vì máy bay ko thể hoạt động do thời tiết rất xấu và lại ngoài tầm pháo binh. Sau đó TĐ 2 Dù đã xuất phát từ km 17 để tiếp cứu TĐ 7 Dù và sau đó cả hai tiến vào thành nội. Một chi đoàn thiết giáp VNCH, chỉ còn 2 chiếc M41 và 2 chiếc M113 khả dụng, khi tiếp cứu Huế, đã bị chận đánh sau khi qua cầu An Cựu ở nam Huế (bị B40 bắn trúng cả 4 chiếc, chi đoàn trưởng bị thương nặng). Các đv Mỹ chung quanh Huế cũng bị cầm chân, đến độ họ chỉ có thể gửi một đ.đ. ko đủ quân số để cứu MACV ở hữu ngạn sông Hương. Mãi đến chiều 1/2, thành phần còn lại của các TĐ 2 và 7 Dù, các phần tử của Hắc Báo và một ít xe tăng, xuất phát từ đồn Mang Cá, tiến về sân bay Tây Lộc, vẫn còn cố thủ bởi một nhóm lính quân cụ. Cũng chiều này, TĐ 1/3 của sđ 1 bộ binh mới đến được đồn Mang Cá, và được giữ lại làm trừ bị; đến gần tối trực thăng CH-46 của Mỹ, xem hình, xuất phát từ Đông Hà, chỉ thả xuống hai đ.đ. của TĐ 4/2, cũng của sđ 1 bộ binh, thay vì cả TĐ, vì hỏa lực phòng không dữ dội và trời tối.
Thế mà chỉ 7 năm sau, CS đã chiếm Huế mà gần như ko phải nổ 1 phát súng. Để hiểu chiến thắng của họ, xin đọc phần sau đây:
- ĐT Patton, chỉ huy trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ, đã yêu cầu người đại úy CSBV lên một trực thăng với một loa phóng thanh và ra lịnh cho lính của y đầu hàng. Tên này đã nhanh chóng từ chối, và Patton nói với y, "Nếu anh ko lên trực thăng với tôi và yêu cầu họ đầu hàng, anh đã đích thân ký giấy khai tử cho họ, vì tôi sẽ buộc lòng xóa sạch vị trí này." Tên đại úy CSBV đã lần nữa từ chối, và sự thất vọng của Patton đã hiển nhiên. Mắt ông đỏ rực và nói, "Đồ chết tiệt, vậy ai đang thắng cuộc chiến này?" "Đó là ông," tên đại úy trả lời. "Vậy trong trường hợp này," Patton hét lên, "tại sao ông ko chịu cứu mạng sống của lính anh và để chúng tôi bốc họ ra và cho ăn uống và chữa trị họ?" "Thưa ông," y nói,"ông đã ko hỏi ai sẽ thắng cuộc chiến này." "Theo anh, ai sẽ thắng cuộc chiến này?" Patton khịt mũi. "Chúng tôi sẽ," người tù binh đã trả lời mạnh mẽ, "bởi vì ông sẽ mệt mỏi/chán nản về điều đó trước khi chúng tôi mệt mỏi/chán nản."
- Câu chuyện về Chiến tranh Việt Nam có thể được tóm tắt bằng nhận xét của Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng, khi ông trả lời phỏng vấn của sử gia Pháp Bernard Fall vào năm 1962, ba năm trước khi lính Mỹ đổ bộ ào ạt vào Việt Nam và gần sáu năm trước khi Mậu Thân nổ ra:
“Người Mỹ không thích những cuộc chiến dài và không kết quả – mà cuộc chiến này sẽ chính là một cuộc chiến kiểu như thế, dài và không kết quả. Vì vậy, chắc chắn rằng đến cuối cùng chúng tôi sẽ chiến thắng”.
Sau đây là 1 số ảnh của nữ ký giả Pháp Catherine Leroy chụp tại Huế và đăng trên báo LIFE số ngày 16/2/1968 (năm đó tôi đã mua số báo này). Cô ta là ký giả Tây phương duy nhứt được người CS cho phép vào vùng do họ kiểm soát tại Huế năm Mậu Thân để chụp hình.
"Cố đô Huế của Việt Nam tới nay vẫn chưa bị chiến tranh tàn phá. Thỉnh thoảng kẻ thù đã bắn cối vào thành phố (tp) Huế, và các đặc công của Đơn vị Đặc công Thành thỉnh thoảng ném lựu đạn, đặt chất nổ hay ám sát nhưng chưa có đv lớn nào xâm nhập vào tp Huế.
Trước Tết Mậu Thân, quân số của nam VN tại Huế chưa tới 1 ngàn người. Một số đã đi phép, họ ở tại nhà trong thành nội hay các quận lân cận. BTL của sđ 1 bộ binh Nam VN, chỉ huy bởi chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, đóng tại đồn Mang Cá, nằm ở góc phía bắc của Hoàng thành (Citadel). Ngoài các quân nhân thuộc BTL và một số đv yểm trợ, các đv tác chiến duy nhứt đóng trong Hoàng thành là trung đội thám sát 36-người của sđ và lực lượng phản ứng nhanh của sđ hay đ.đ. Hắc Báo. Các đv trừ bị khác của Trưởng gồm một chi đoàn xe tăng nhẹ M41, đóng trên QL-1, hai km nam của Hoàng thành. Ngoài ra còn có hai TĐ Dù và một chi đội thiết giáp hoạt động ở bắc Huế tại Km 17 trên QL1.
Người Mỹ tại Huế rất ít, với khoảng 200 cố vấn và nhân viên hành chánh người Mỹ và vài TQLC Mỹ đóng tại một doanh trại canh gác lỏng lẻo của MACV ở cách phía nam Sông Hương một khu phố rưởi. Doanh trại này ở phía đông của QL1, bên kia đường là Viện ĐH Huế. Các cố vấn Mỹ và Úc thay phiên làm việc trong doanh trại của sđ 1 bộ binh hay đi theo đv mà họ làm cố vấn. (Trừ cố vấn của Nhảy Dù và TQLC VNCH, các cố vấn khác chỉ có mặt ở đv khi hành quân và khi hành quân xong thì về doanh trại MACV nghỉ ngơi -- ND).
ĐV tác chiến gần nhứt của Mỹ đóng tại tây nam Huế. Đó là TĐ 2/503 thuộc lữ đoàn 2 sđ 101 Dù, đang tăng phái cho sđ 1 Không kỵ (mà TL là tướng Tolson), bảo vệ căn cứ tiếp vận của sđ này, còn gọi là bãi đáp El Paso, nằm trên QL1, 7 km đông nam Huế. Các thành phần của trung đoàn 1 và 5 TQLC, hành quân chung quanh Phú Bài, 15 km đông nam Thành nội, dưới quyền của lực lượng đặc nhiệm (LLĐN) X-Ray, một đv cấp lữ đoàn của sđ 1 TQLC Mỹ.
X-Ray có nhiệm vụ bảo vệ sân bay C-130 và căn cứ tiếp liệu tại Phú Bài, và con đường dài 50 km từ Phú Bài đến Đèo Hải Vân. Mỗi ngày có đoàn xe chở hàng hóa từ Cảng Đà Nẳng, trên con đường dài 20 km, ngoằn ngoèo khi vượt đèo Hải Vân, để tới Phú Bài và Bãi đáp El Paso. Một đoàn xe khác từ bãi đáp này chở hàng đến tp Quảng Trị để tiếp tế cho các căn cứ tiền phương của sđ 1 Không kỵ, trong đó có lữ đoàn 3, BCH đặt tại Trại Evans, 25 km tây bắc của Thành nội Huế.
Lữ đoàn 3 này đang trong tình trạng chưa sẵn sàng chiến đấu trước tết. Khi ĐT Campbell, lữ đoàn trưởng, di chuyển BCH và hai TĐ từ thung lũng Quế Sơn về trại Evans ngày 26/1/68, ông nhận ra rằng mảnh đất từng là nơi đóng quân của các đv của sđ 3 TQLC Mỹ, ko chứa sẵn đạn dược hay xăng dầu. Những thứ này sẽ đến 5 ngày sau. Vì tướng Westmoreland đã triển khai sđ 1 không kỵ về phía bắc Vùng 1 hầu như hai tháng trước dự trù, lực lượng 3 thủy bộ của TQLC Mỹ đã ko kịp thời lập một kho bãi ở trại Evans và ko đủ xe tải đúng nhu cầu cho sđ này. Phi đạo quá ngắn với C-130. Nay với cả ba TĐ tác chiến, một TĐ pháo, và phần còn lại của lữ đoàn tập trung tại Evans, ĐT Campbell ko đủ xăng cho 150 trực thăng để hoạt động bình thường, cũng như ko đủ đạn đại bác cho hoạt động yểm trợ bình thường. Tóm lại phải cần ít nhứt là một tuần để lữ đoàn 3 hoạt động bình thường với đầy đủ đạn dược và xăng dầu.
Tướng Trưởng đang trông chờ lữ đoàn này có đầy đủ sức mạnh. Trong khi đó có những dấu hiệu rằng trung đoàn 6 csbv và TĐ 12 đặc công, từng hoạt động ở rừng núi tây bắc Huế, có ý định tấn công Huế. Điều mà tướng Trưởng ko biết là gần đây đối phương đã di chuyển thêm vài trung đoàn và các đv yểm trợ vào khu vực này và đã lập một BCH chiến thuật, có tên Mặt trận Thành phố Huế, để chỉ huy họ. Trong những đv mới này có TĐ 7 của trung đoàn 29 sđ 325 C csbv, mà gần đây hoạt động gần Khe Sanh. Trung đoàn 5 csbv đến từ căn cứ địa 101 và trung đoàn 4 csbv đến từ vùng phía nam của tỉnh Thừa Thiên. Những đv tăng viện khác gồm một TĐ pháo trang bị hỏa tiển 122 ly, hai TĐ đặc công, hai đ.đ. cối 82 ly, hai đ.đ. súng ko giật 75 ly, và hai đ.đ. đại liên 12.7 ly. Tổng cộng các đv VC hoạt động gần đế đô Huế có quân số ít nhứt là 14 TĐ. (Theo Tống Hồ Trinh, trong sách Hướng Tiến Công và Nổi Dậy Tết Mậu Thân ở Trị-Thiên-Huế 1968, do Viện Quân sử VN ở Hà Nội in, trang 21-22 -- ND).
Đạo quân này chia thành hai cánh. Cánh phía nam gồm các TĐ 804, 815, và 818 của trung đoàn 4; TĐ 1 và 2 đặc công; và vài đ.đ. vũ khí nặng. Cánh phía bắc gồm TĐ 800, 802, và 806 của trung đoàn 6; TĐ 12 đặc công; TĐ 416 của trung đoàn 5; TĐ 7 của trung đoàn 29; và hai đ.đ. vũ khí nặng. Đạo quân này rời các căn cứ trên rừng núi để tiến về Huế vào tối 29/1/1968.
Dù tướng Trưởng ko biết việc điều quân này của đối phương, nhưng những đợt tấn công tại vùng 2 và phía nam vùng 1 vào đêm đó đã cho ông thấy Huế đang bị nguy hiểm. Ông đã hủy bỏ việc đi phép của mọi quân nhân và ra lịnh cho các đv ĐPQ và NQ gần Huế phải trực chiến mỗi đêm. Ông ra lịnh cho BTM phải trực chiến tại đồn Mang Cá trong các ngày Tết và gửi phân nửa của đ.đ. Hắc Báo qua hữu ngạn sông Hương để bảo vệ BCH tiểu khu. Ông cũng gửi trung đội thám báo 36 người đi dọc sông Hương về phía bắc 4 km vì nghĩ rằng các đv của VC có thể dùng con đường này để tiến về Huế.
Suy nghĩ của tướng quân đã đúng khi 22:00 g đêm, lính ĐPQ báo cáo thấy VC lén lút vượt qua 1 ấp gần góc phía tây của Hoàng thành. (Nói thêm: Hoàng thành Huế, xây ở tả ngạn sông Hương, có hình chữ nhật, nhưng các cạnh lại ko song song với đường vĩ tuyến và kinh tuyến, có lẽ dựa vào phong thủy; do đó bốn góc thành hướng về bốn hướng đông tây nam bắc. Cạnh phía nam nằm sát sông Hương, nối liền hữu ngạn bằng cầu sắt Bạch Hổ và cầu Nguyễn Hoàng -- ND).
ĐPQ lập tức nổ súng, các bóng đen bỏ chạy vào bóng đêm. Hai giờ sau, trung đội thám báo kể trên đã báo cáo rằng vài TĐ Việt cộng đã đi ngang điểm phục kích của họ để tiến về Huế. Tướng quân đã ra lịnh cho đv này trở về Thành nội ngay lập tức; ông rất cần nhiều tay súng để chống trả cuộc tấn công sắp tới.
Ngày 31/1 và 1/2/1968: "Chỉ mành treo chuông" tại BTL của tướng Trưởng.
Lúc 03:33 giờ sáng ngày 31/1, một hỏa châu VC đã phụt lên trên bầu trời ở Huế. Các đội viên của đội Đặc công Thành, giả trang dân thường nhưng mang súng tự động và súng lục, xuất phát từ các nhà an toàn trong tp. Một số tên đã cắt dây điện thoại dẫn tới BTL của tướng Trưởng. Những số khác giết lính canh tại một trong những cổng ở tây nam của Hoàng thành để mở đường xâm nhập vào Huế cho các TĐ 800, 802, và TĐ 12 đặc công đã ẩn nắp trước đó trong các cánh đồng gần đó. Sau khi tràn qua cổng này, TĐ 800 chuyển hướng (veer) về phía bắc để tấn công sân bay Tây Lộc, trong khi các đv còn lại tiến về phía đông vào trung tâm của tp, xem bản đồ 33. (Theo trang 29 của sách của Tống Hồ Trinh).
Bản đồ số 33
No comments:
Post a Comment